Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm của tùy bút trong Văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975
186
942
102
mạng đó là bám sát hiện thực đất nước, phản ánh đời sống chính trị, bày tỏ hoài
bão chính
trị. Các nhà văn đã có mặt kịp thời ở các mặt trận để đưa về những thông tin
lịch sử quý giá
hay kịp thời tôn vinh những gương mặt anh hùng. Hoàn cảnh xã hội đã hình thành
hai đề tài
lớn cho tùy bút, bút kí đó là viết về chiến tranh cách mạng và xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Về đề tài xây dựng xã hội chủ nghĩa, các tác phẩm đã kịp thời phản ánh được
không khí
xây dựng cuộc sống mới ở miền Bắc. Cùng với truyện ngắn và tiểu thuyết, tùy bút,
bút kí đã
thể hiện đầy đủ sự đổi thay của con người, cảnh vật,… tất cả trở nên tươi sáng
hơn, rộng mở
hơn, đó là âm vang của những thắng lợi trong những kế hoạch mà Đảng đã đề ra.
Tùy bút
Sông Đà của Nguyễn Tuân và một số bút kí của Bùi Hiển ghi lại những sự kiện như
đẩy
mạnh phát triển kinh tế Tây Bắc, sự đổi mới ở một nông trường nuôi vịt…. Thép
Mới và Chế
Lan Viên còn đề cập đến những sự kiện của dân tộc ở tầm vĩ mô như mối quan hệ
của Việt
Nam với các nước xã hội chủ nghĩa như Cu-ba, Trung Quốc.
Kí viết về chiến tranh cách mạng chiếm số lượng lớn và cũng đạt được những chất
lượng nghệ thuật đáng kể trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn này. “Hiện
thực vĩ
đại của cuộc kháng chiến với những kì tích, những chiến công rực rỡ ở cả hai
miền, những
điển hình tuyệt đẹp về người anh hùng, những câu chuyện kể sinh động, hấp dẫn
trong chiến
đấu và sản xuất… tất cả như đón chờ, như “dâng sẵn” cho những sáng tạo về nghệ
thuật”[16/144]. Nhiều tác phẩm ra đời đã phản ánh được cuộc kháng chiến vĩ đại ở
cả hai
miền. Những trận đánh, những chiến dịch, những chiến thắng và cả những mất mát
hi sinh
của nhân dân ta đã được các nhà văn kịp thời ghi lại. Đặc biệt với tinh thần
phản ánh nguời
thật, việc thật, nhiều tấm gương anh hùng đã được tôn vinh như trong tùy bút
Nguyễn Trung
Thành là hình ảnh Kpa Kơ Lơng, Lê Văn Nghiêu, Nguyễn Thi viết về chị Nguyễn Thị
Hạnh,
anh hùng Trần Dưỡng, Nguyễn Thị Út, Pi Năng Tắc, Phạm Văn Hai… Những tác phẩm đó
không chỉ giúp người đọc hiểu thêm về lịch sử quý giá của dân tộc, có được những
tư liệu
cần thiết mà quan trọng hơn là thấy được tinh thần quật cường của dân tộc, phẩm
chất quý
báu của những người cộng sản…
Trong hoàn cảnh đất nước chiến tranh, kí nói chung và tùy bút, bút kí nói riêng
đã làm
tốt chức trách bám sát, bám chắc vào hiện thực và cất lên kịp thời tiếng nói
nóng hổi của
quần chúng cách mạng, làm tròn nhiệm vụ “tuyên truyền, cổ vũ tinh thần chiến
đấu, hi sinh
của nhân dân”[8/72]. Những chủ thể sáng tạo “đã thâm nhập sâu vào cuộc đời, đã
cảm xúc
và suy nghĩ đến tận cùng “xương thịt” với nhân dân và đã bắt gặp được những vấn
đề chung
của thời đại, xuyên suốt không gian và thời gian, truyền thống và hiện tại”[80].
Các nhà văn
phản ánh hiện thực bằng tinh thần của người chiến sĩ hiểu theo cả hai nghĩa cầm
bút và cầm
súng, vì thế những tác phẩm viết ra là tiếng kèn xung trận, là tiếng trống thúc
quân và có sức
cổ vũ lớn lao, truyền cảm mạnh mẽ đối với mọi người. “Một đóng góp như thế quả
là lớn lao
và hoàn toàn chưa hề có trong bất cứ giai đoạn sáng tác nào trước đây, nó bảo
đảm cho văn
xuôi, cùng với từng bước thời gian, có thể theo kịp, bao quát được hiện thực
cách
mạng”[94/105].
Về phương diện nghệ thuật, giai đoạn 1954 – 1975, tùy bút, bút kí đã có những
đóng
góp cho văn học cách mạng những tác phẩm tiêu biểu của thể loại như: Sông Đà, Hà
Nội ta
đánh Mĩ giỏi của Nguyễn Tuân, Đường chúng ta đi của Nguyễn Trung Thành, Dòng
kinh
quê hương của Nguyễn Thi, Hiên ngang Cu-ba của Thép Mới, Những ngày nổi giận của
Chế
Lan Viên, Bức thư Cà Mau của Anh Đức… Đó là những tác phẩm văn học ưu tú, giàu
giá trị
thẩm mĩ không thua kém các tác phẩm ưu tú của các thể loại khác. Không chỉ tiêu
biểu trong
văn học cách mạng giai đoạn 1954 – 1975, những tác phẩm ấy còn được đánh giá cao
trong
lịch sử tùy bút, bút kí của văn học Việt Nam
Cùng với những tác phẩm thuộc thể loại khác như kí sự Họ sống và chiến đấu –
Nguyễn Khải, truyện kí Người mẹ cầm súng – Nguyễn Thi; Sống như anh – Trần Đình
Vân…, tùy bút, bút kí đóng góp vào văn học cách mạng dòng tác phẩm viết về anh
hùng
chiến sĩ rất được bạn đọc ưa chuộng, tạo nên sự phong phú, sinh động cho đề tài
viết về
người anh hùng của văn học cách mạng Việt Nam. Tiêu biểu như Trên quê hương
những anh
hùng Điện Ngọc, Người dũng sĩ dưới chân núi Chư Pông của Nguyễn Trung Thành, Đại
hội
anh hùng, Ước mơ của đất, Những câu nói ghi trong đại hội của Nguyễn Thi…
Do gắn chặt với cuộc đấu tranh anh dũng để giải phóng dân tộc nên khuynh hướng
sử
thi và cảm hứng lãng mạn là yếu tố nghệ thuật đặc trưng, tiêu biểu của văn học
cách mạng
giai đoạn 1954 – 1975. Đó là nguyên nhân làm cho “Văn học cách mạng là văn học
của niềm
tin vào sự sống vĩnh cửu, niềm tin vào các giá trị bất diệt, thiêng liêng, cao
cả” [71/290]. Tùy
bút, bút kí văn học mang đầy đủ những đặc trưng nghệ thuật đó. Mỗi câu chuyện là
“bài ca
về người anh hùng dân tộc, đại diện cho tinh thần, tinh hoa, khí phách nhân dân
đứng lên
chống áp bức, bóc lột và giặc ngoại xâm”[71/296]. Mỗi tác phẩm là khúc hát của
niềm tin,
của hi vọng về một ngày mai tươi đẹp, đó là khúc hát của lí tưởng cách mạng –
cảm hứng
lãng mạn cách mạng của tùy bút, bút kí là ở đó. Những tác phẩm của Nguyễn Trung
Thành,
Nguyễn Tuân… đã gieo vào lòng bạn đọc niềm tin mãnh liệt về tương lai tươi sáng
của đất
nước.
Như vậy có thể thấy rõ tùy bút, bút kí giai đoạn 1954 – 1975 đã làm tròn vai
trò, trách
nhiệm đối với văn học cách mạng Việt Nam. Nó đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
lịch sử -
phản ánh hiện thực đất nước trên hai mươi năm, đồng thời để lại được nhiều tác
phẩm có giá
trị nghệ thuật đặc sắc.
Cùng với các thể loại khác trong kí, cùng với thơ, tiểu thuyết, tùy bút, bút kí
đã có một
vị trí xứng đáng trong văn học cách mạng giai đoạn 1954 – 1975, góp phần tạo nên
một
“giai đoạn lịch sử không lặp lại của văn học dân tộc” “một hiện tượng nghệ thuật
sáng ngời
của văn học dân tộc, là chiếc cầu nối liền văn mạch dân tộc từ quá khứ, hướng
tới tương lai
và đi vào vĩnh viễn” [71/299].
*** Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 là một giai đoạn đầy biến động, nhiều
sự
kiện xảy ra không chỉ tạo bước ngoặt lớn cho lịch sử dân tộc mà còn ảnh hưởng
đến văn học.
Cùng với sự kiện lịch sử, một nền văn học mới ra đời. Tùy bút, bút kí với một
diện mạo
phong phú, sinh động, khẳng định được vị trí xứng đáng trong văn học cách mạng
Việt Nam.
Có được vị trí ấy, một phần nhờ vào những nội dung mà các tác phẩm thể hiện.
Những đặc
sắc nội dung đó, người viết xin trình bày ở chương hai của Luận văn.
Chương 2
BỨC TRANH HIỆN THỰC PHONG PHÚ, SINH ĐỘNG
Văn học cách mạng 1954 – 1975 tồn tại và phát triển trong hoàn cảnh lịch sử hết
sức
khó khăn: cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc vô cùng ác liệt kéo dài suốt hơn
hai mươi
năm, điều kiện giao lưu, tiếp xúc với văn hoá, văn học thế giới rất hạn chế….
Nhưng vượt
lên trên tất cả những khó khăn đó, văn học đã làm tròn nhiệm vụ phản ánh hiện
thực đất
nước. Trong tùy bút, bút kí bức tranh hiện thực được thể hiện rất phong phú,
sinh động. Hiện
thực được khai thác ở nhiều khía cạnh, nhiều góc nhìn khác nhau, Luận văn xin
trình bày ba
khía cạnh tiêu biểu đó là: Hiện thực đất nước, hiện thực con người, sự hiện diện
của cái tôi
trần thuật.
2.1. Hiện thực đất nước
2.1.1. Đất nước hòa bình với niềm vui dựng xây
Sau chiến tranh, không ngủ yên với chiến thắng, nhân dân đã bắt tay ngay vào
việc
xây dựng đất nước với niềm vui ngập tràn. Hiện thực ấy đã được các tác giả kịp
thời ghi
nhận và thể hiện trọn vẹn trong các tác phẩm. Sự hồi sinh của đất nước sau chiến
tranh,
đang cố gắng vươn mình trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là
điểm
nhấn trung tâm nhất của bức tranh hiện thực. Dù sự chuyển mình đó diễn ra vẫn
đang còn
chậm nhưng đã chứng tỏ được bản lĩnh sống của dân tộc Việt Nam. Đâu đâu chúng ta
cũng
bắt gặp khí thế lao động khẩn trương, cuộc sống yên bình, cỏ cây hoa lá cũng như
hòa nhập
với niềm vui của cuộc sống mới. Tập tùy bút Sông Đà của Nguyễn Tuân phản ánh
toàn vẹn
bức tranh chuyển mình của Tây Bắc, “cuộc đời mới đang bén rễ đâm chồi mạnh, và
nơi đây
đang kết tinh nhiều giống hoa say nồng chưa nở một lần nào trên đồi lũng Thái
Mèo”[86/87].
Những con đường mới được mở, những ngôi nhà mới được xây và cả lòng người cũng
thay
đổi. Mảnh đất mà chỉ mới đây thôi còn đầy những dây mìn, thép gai thì bây giờ sự
sống đã
hình thành, không những hình thành một cách bình thường, đơn giản nữa, mà mãnh
liệt,
căng tràn. Mảnh đất ấy đã hồi sinh. Sự sống đã nảy nở trên mảnh đất tưởng chừng
như đã
chết. Nguyễn Tuân đã ghi lại những hình ảnh bình dị nhất nhưng cũng là những
hình ảnh có
ý nghĩa nhất nói lên giá trị sự sống với những mái nhà mới cất lên, “chiều về
khói lam chiều
nổi lên tới tấp từ những nơi từ nhiều nơi phơi quần áo chưa kịp mang hết vào
nhà.”[86/123].
Hay “Bên cạnh khóm thuổng xẻng dựng đứng là một đôi vịt bầu Mường cánh và cổ ánh
xanh
lên cái màu áp lục. Hai chú vịt có vẻ như không biết gì đến những tiếng mìn mở
đường,
những tiếng sấm động ở quanh Tây Bắc đây”[86/126]. Những con người đã làm sống
dậy
mảnh đất Tây Bắc ấy vừa mới đây thôi, họ đang sống trong nhiều cảm xúc xen lẫn
nhau vừa
háo hức, chờ đợi lên vùng đất mới với bao hứa hẹn, vừa lo âu vì sự hoang vu, xa
xôi, vừa bịn
rịn, lưu luyến khi phải rời xa quê cũ… vì thế nên chúng ta không ngạc nhiên khi
một chị
công nhân “thu gọn mình vào một góc xe, nét mặt vòi vọi tập trung về cái phía
trước chập
chờn những rặng núi phủ mây”[86/148] và “chị lấy vạt áo chấm mắt, rồi sụt
sịt”[86/148].
Nhưng giờ đây, những con người ấy đang vui với niềm vui của cuộc sống mới trên
mảnh đất
mới – không hoang vu mà rất tấp nập, rất nhộn nhịp.
Tấp nập, nhộn nhịp bởi không khí lao động đang diễn ra hàng giờ, hàng ngày và cả
hàng đêm. Tất cả sức người, sức của đều được huy động tối đa để đưa lại cho Tây
Bắc một
bộ mặt mới – đó là không khí mở đường dù vất vả nhưng tràn đầy tiếng hát, “Suốt
tuyến
đường bốc lên một mùi đặc biệt. Nó không phải cái mùi mốc của dĩ vãng mà nó thật
là cái
mùi điển hình của một sự kiện rất có tính chất hôm nay. Nó đúng là cái mùi mở
đường qua
Tây Bắc.”[86/124]. Những bàn tay của đoàn người mở đường đã từng ngày làm rung
chuyển
cả những khu rừng, những con suối, con sông. Có được sức mạnh đó bởi họ có niềm
tin,
niềm tin ngày mai Tây Bắc sẽ thay đổi, Tây Bắc sẽ cho họ cuộc sống tốt đẹp hơn
cuộc sống
của họ ngày hôm qua.
Tây Bắc còn nhộn nhịp bởi những miệt mài của những kĩ sư, công nhân đang làm
việc ở mỏ than Quỳnh Nhai với một không khí khẩn trương, tích cực để đưa lại
nguồn
nguyên – nhiên liệu quý cho đất nước – “Lửa mấy lò trên đồi Pom Pai cứ cháy ròng
rã như
thế mấy ngày đêm”[86/289] – đó là ngọn lửa của than Quỳnh Nhai, rộng ra là ngọn
lửa phát
triển của Tây Bắc, ngọn lửa mà Nguyễn Tuân nói “đã làm ấm sáng lên tấm lòng của
tất cả
những con người đang cảm xúc theo với nhịp khai thác mỏ than bên sông
Đà”[86/289].
Không khí lao động xây dựng xã hội chủ nghĩa trở nên nhộn nhịp, sôi động hơn bao
giờ hết “Tất cả những cái nhộn nhịp tươi trẻ của tất cả những con người làm
ruộng xã hội
chủ nghĩa, làm đường xã hội chủ nghĩa, tất cả những náo nức tưng bừng ấy vẫn
không đủ
làm cho tôi xua tan đi một chút bịn rịn trong lòng.”[86/116]. Vượt lên trên tất
cả những khó
khăn thiếu thốn về cơ sở vật chất và những khắc nghiệt của thiên nhiên “Đời sống
Tây Bắc
ngày nay là một tấm lòng tin tưởng không bờ bến, tin mình, tin người, mấy chục
dân tộc
miền cao và đồng bằng tin cậy lẫn nhau và nhất là tin chắc vào chế độ đẹp sáng
do tay mình
đắp cao mãi lên trên chỗ cao nguyên tiềm tàng sức sống này.”[86/92].
Trong Sông Đà, chúng ta bắt gặp một không gian thoáng đãng của núi rừng Tây Bắc,
một không gian tràn ngập âm thanh, ánh sáng, tràn ngập niềm vui và tiếng hát.
Hiện thực đã
đổi sang gam màu mới, không còn là gam màu xám lạnh buồn tẻ của không gian tù
túng,
quẩn quanh mà Nguyễn Tuân đã vẽ nên trong tùy bút viết trước cách mạng. Có được
điều
đó, không phải chỉ bắt nguồn từ sự thay đổi của hiện thực khách quan mà còn từ
cái nhìn chủ
quan của tác giả đã thay đổi mà chính Nguyễn Tuân gọi đó là “lột xác”.
Niềm vui lao động theo con đường mới, lí tưởng mới của Đảng chính là động là
động
lực thúc đẩy con người làm đẹp lên sự sống hiện tại. Một bức tranh đẹp về không
khí xây
dựng cuộc sống mới cũng được Bùi Hiển vẽ nên rất sinh động trong các bút kí của
mình.
Mỗi đường nét, mỗi hình ảnh, mỗi âm thanh của bức tranh ấy chính là những biểu
hiện vô
cùng sống động cho cuộc sống hoà bình với niềm vui dựng xây của nhân dân. “Các
sườn đồi,
quang cảnh tấp nập: người cày xới, người rải phân, người cuốc lấp, người gieo
hạt chè,
người đi cắt bổi ủ lên. Nắng bắt đầu gay gắt, con bò cày thở hi hóp. Từ phía
chân đồi, tiếng í
ẹ, nỉ non liên miên không dứt: một chiếc xe phân đang leo dốc, hai con bò căng
cổ ra kéo, cứ
muốn xô áp vào nhau cho đỡ nặng. Giọng cười đùa của đám thanh niên dăng mắc giữa
các
đồi núi”[28/35].
Với mạch nguồn cảm hứng dồi dào và giọng điệu ngợi ca, các nhà văn đã viết về
bản
lĩnh và sức mạnh dân tộc bằng tất cả một niềm tin tất thắng, một hi vọng cho
ngày mai tươi
sáng hơn. Cái hi vọng ấy đôi khi chỉ là cái mong ước rất giản đơn, rất bình
thường mà rất
thiết thực “nhưng mà rồi đây đường Tây Bắc của ta sẽ tươi nhộn hơn, mùa mưa cũng
đông
vui như mùa khô, đường sẽ đỡ dốc, đỡ lội, đỡ đi chìm xuống suối, sẽ thẳng thắn,
phẳng phiu
và quang đãng hơn.”[86/91]. Nhưng cũng có khi cái ước muốn đó ở tầm vĩ mô hơn
“Đất
nước Việt nam ta đã có thời đại Hồ Chí Minh thì có thể thế hệ trẻ Hồ Chí Minh
anh hùng.
Hãy nhận lấy trong vinh dự Đoàn ta được mang tên Bác Hồ vĩ đại ý nghĩa to lớn
ấy: tuổi trẻ
Việt Nam đã bước hẳn vào một kỉ nguyên lớn của dân tộc, của lịch sử văn minh
tiến hóa của
loài người, kỉ nguyên độc lập tự do, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản.”[57/136].
2.1.2. Đất nước thương đau
Viết về những mất mát, đau thương của đất nước trong chiến tranh là điều rất
hiếm
gặp trong các tiểu thuyết, truyện ngắn hay thơ ca thời kì này. Cũng dễ hiểu, bởi
vì lúc này
đất nước đang trong hoàn cảnh chiến tranh, để thúc giục, động viên mọi người tất
cả cho tiền
tuyến, viết về chiến đấu, chiến thắng là sự tất yếu. Nhưng với tùy bút, bút kí
cũng như thể kí
nói chung chúng ta dễ thấy những trang văn thấm đầy nước mắt khi viết về nỗi đau
dân tộc
của các nhà văn, bởi lẽ đặc trưng của các thể loại kí là ghi chép hiện thực.
Hiện thực của xã
hội Việt Nam 1954 – 1975 là hiện thực có sự quyện hòa của niềm vui – nước mắt,
của chiến
thắng và sự hi sinh. Vì thế chưa bao giờ trong văn học lại xuất hiện những hình
ảnh đau
thương đến vậy. “Khi nhận ra cuộc chiến đấu không chỉ có anh hùng quả cảm, mà
còn là đau
thương tột cùng, chủ thể sáng tạo đã không hề né tránh sự thật ở những tình
huống bi kịch, bi
tráng xuất hiện trong mối quan hệ giữa khát vọng sống của từng cá nhân và vận
mệnh Tổ
quốc, và đã phản ánh những tình huống bi kịch đó một cách chân thật và rắn
rỏi”[59].
Với sự trải nghiệm thực tế của bản thân tác giả, với những số liệu, dẫn chứng cụ
thể,
chính xác, những trang tùy bút, bút kí đã cho thấy một Việt Nam đang phải oằn
mình trong
bão lửa chiến tranh. Đằng sau những con số tưởng chừng như khô khan ấy chính là
nỗi đau,
nỗi mất mát và sự hi sinh mà người dân ở khắp mọi vùng, mọi miền phải gánh chịu.
Bộ mặt
kẻ thù hiện ra hung hãn bao nhiêu thì nước mắt và máu của người dân đất Việt lại
rơi nhiều
bấy nhiêu. Bom tấn, bom tạ, bom bi, bom nổ chậm được chúng đem ra giết người,
không
phân biệt, già trẻ, gái trai, ngày giờ. Các nhà văn đã chứng kiến hoặc nghe kể
lại những cái
chết đầy đau thương của con người, sự xơ xác của những làng quê, để từ đó trong
những
trang văn của họ xuất hiện những hình ảnh đau thương – đó cũng là một góc nhìn
về đất
nước Việt Nam lúc bấy giờ.
Bùi Hiển nói đến nỗi đau ấy một cách trực tiếp, ông miêu tả rõ ràng, chi tiết,
cụ thể
những gì ông bắt gặp hay nghe kể lại khi ông về thực tế tại vùng quân khu 4,
Nghệ An, Hà
Tĩnh, Quảng Bình…đó là nỗi đau khi ba mươi em học sinh bị bắn giết cùng một lúc,
một dãy
dài mộ mới hiện lên trước mắt “mộ chí nét mực còn tươi”[8]. Lòng thắt lại khi
tác giả lần
lượt kể tên tuổi, đặc điểm, tính tình đáng yêu của từng em một. Hay hình ảnh cô
gái mười
tám tuổi, mặt trái xoan – tên Hiền phải gánh chịu những mảnh bom giữa lúc cô sắp
lành
bệnh, chuẩn bị trở lại với cuộc sống đời thường – điều mà cô hằng mong ước. Bùi
Hiển đã
lựa chọn rất đắt, rất tinh tế những chi tiết, những hình ảnh điển hình để nói
lên nỗi đau vô
cùng tận mà giặc Mĩ đã gây ra cho nhân dân Việt Nam – đó là hình ảnh những bệnh
nhân tàn
phế chạy máy bay ném bom “người tay chân lành lặn nâng đỡ người què cụt, người
mắt sáng
dìu dắt cả một toán người bị mù, giúp nhau bước thấp bước cao thoát khỏi nơi bom
đạn Mĩ
nổ đùng đùng man rợ”[8]. Họng súng ấy đã tàn sát học sinh, người bệnh – những số
phận
đáng lẽ ra được bảo vệ, chở che. Hình ảnh khu điều trị cho thiếu nhi trở nên tan
hoang là một
hình ảnh có giá trị tố cáo cao đối với tội ác của giặc Mĩ. Bùi Hiển cũng không
thuyết lí
nhiều, viết về nỗi đau ông sử dụng đến mức tối đa sức mạnh tự thân của sự việc
khách quan,
mỗi một chi tiết đều rất tiêu biểu, rất đanh thép đồng thời đều thấm đượm tình
cảm của
người viết “Ở nhà văn nào cũng thế, khi sự xúc động đã đạt tới mức mãnh liệt
thực sự thì họ
thường có sức khống chế được ngòi bút của mình, không vội vã trình bày những cảm
nghĩ
bồng bột bằng lời lẽ ồn ào mà dồn được tình cảm trong tiếng nói của cuộc sống
đầy sức
thuyết phục.”[8]. Trong tập Đường lớn, Bùi Hiển đã giúp người đọc thấy được xã
hội Việt
Nam trong chiến tranh, đồng thời cũng thấy được bộ mặt nham hiểm, độc ác, man rợ
của kẻ
thù. Thể loại bút kí với sự linh hoạt trong miêu tả cũng như biểu hiện cảm xúc
đã giúp ngòi
bút của ông làm được nhiều điều đáng ghi nhận. Hầu hết các bài bút kí của ông
đều có sự kết
hợp hài hòa ba yếu tố cơ bản của bút kí: sự kiện, cảm xúc và chính luận.
Cũng nói về đau thương, nhưng Anh Đức lại có một cách nói khác, cách nói này dù
ngắn gọn hơn nhưng vẫn hiện lên vẹn tròn nỗi đau của dân tộc. Anh Đức viết
“Trong quyển
sổ võ khí có trang ghi: bom napan đã ném 20 quả, đạn rốc két đã bắn 40 trái. Thế
có nghĩa là
ngày hôm ấy nhà cửa đồng bào đã cháy, các em bé và các bà mẹ đã chết, cây ăn quả
ngã
gục”[13] và ông đã phát biểu trực tiếp “Dòng chữ ghi một cách ngắn gọn, tàn
nhẫn, tội ác
của chúng được cụ thể hóa bằng số liệu và bom đạn”[13]. Với Anh Đức, hình ảnh
của miền
Nam lúc này đầy những máu và máu “Nông thôn miền Nam bắt đầu ngập ngụa những
máu.
Máu người kháng chiến cũ chảy. Máu nông dân xô xát với bọn địa chủ phản động
chảy.”[12/6]. Đó là một hình ảnh rất thực và dễ bắt gặp sau những trận càn của
giặc Mĩ lúc
bấy giờ. Hình ảnh đó xuất hiện rất nhiều trong bút kí của Anh Đức cũng như rất
nhiều bút kí
của các nhà văn khác. Trung tâm của bức tranh đó, chúng ta nhận thấy nỗi đau của
những
người mẹ mất con, nỗi đau của những người vợ mất chồng, có nỗi đau thể xác và
nỗi đau
tinh thần, có nỗi đau khóc than ra được bằng lời nhưng cũng có nỗi đau phải chịu
đựng trong
sự im lặng. Bằng những con số cụ thể, ngày tháng cụ thể, số lượng cụ thể Chế Lan
Viên đã
viết nên đầy đủ tội ác mà giặc Mĩ đổ xuống đất miền Nam “Mĩ đã liên tiếp trong
12 ngày
liền rải chất độc hóa học xuống các tỉnh Bến Tre và Mĩ Tho. 12 ngày và cả 12 đêm
bởi vì
chúng vừa muốn rải cho nhiều và tránh được các làn đạn của du kích. 5000 nhân
dân đã bị
nhiễm độc. Riêng một xã Thuận Điền (quận Giồng Trôm) đã 1700 người. Lại cụ già!
Lại trẻ
em! Lại phụ nữ!”[92/6]. Nhưng làm sao đo đếm được nỗi đau mà nhân dân phải gánh
chịu
“Những người đi câu cá ngoài rạch, cày ruộng ngoài đồng, đau bụng dữ dội rồi bị
ngất.
Nhiều phụ nữ có thai bị chết ngay sau ngày phun chất độc lần thứ hai. Nhiều em
bé bị nghẹt
thở, giãy giụa kêu la thê thảm. Phần đông bị loét da, ghẻ lở mắc các chứng bệnh
hiểm
nghèo.”[92/7]. Một điều rất quan trọng, đau hơn bất kì nỗi đau nào đó là những
di chứng để
lại mà ngày nay chúng ta đã chứng kiến. Nỗi đau ấy không có gì bù đắp nổi, nó
ảnh hưởng từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Khai thác hiện thực một cách triệt để, các nhà văn
đã vẽ nên bức
tranh chân thật chưa từng thấy, giữa bức tranh đó có màu sắc của máu, có âm
thanh kêu gào
của những em bé mất cha, mẹ mất con, vợ mất chồng. Nỗi đau chồng chất nỗi đau.
Nỗi đau
ấy cũng chính là động lực để đất nước đứng lên đánh đuổi đế quốc Mĩ tìm lại nụ
cười, tìm lại
hạnh phúc.
2.1.3. Đất nước anh hùng
Trải qua lịch sử bốn nghìn năm dựng và giữ nước, dân tộc Việt Nam luôn chứng tỏ
được sức mạnh, bản lĩnh của mình, nhờ đó đã lần lượt chiến đấu và chiến thắng
các thế lực
ngoại xâm. Trong hơn hai muơi năm chống Mĩ cứu nước, sức mạnh và bản lĩnh ấy
được phát
huy hơn bao giờ hết.
Khánh Vân viết “Khi những quả bom bi bay xuống rào rào như mưa đá, không có ai
sợ cả, ta tránh thật khéo rồi phà ta lại sang sông.
Khi chất cháy phốt pho rắc xuống bầu không khí trong lành, không có một ai kinh,
ta
dập nó đi cho xe ta chạy.
Và khi những quả bom giặc trút về phía sau ta, nó ném xuống Hải Phòng, nó ném
xuống Hà Nội, càng căm thù ta càng nghĩ về phía trước, ta càng giữ vững con
đường tiến lên
để trừng trị giặc Mĩ leo thang.
Trên đất quê ta, còn nơi nào không nghe tiếng rú của bom rơi. Nhưng cũng chẳng
nơi
nào sợ tiếng bom rơi.”[90/10].
Những câu văn trên đã khái quát được dân tộc Việt Nam – nhỏ bé mà kiên cường.
Sức mạnh ấy, bản lĩnh ấy không chỉ được thể hiện ở khí thế đấu tranh kiên cường,
bất
khuất của từng miền quê, từng góc phố, mà còn thể hiện ở một cuộc sống rất bình
thường
diễn ra ngay trong lòng cuộc chiến tranh. Chiến tranh không chỉ là chết chóc, là
mất mát, đau
thương. Chiến tranh còn là thử thách lòng người, thử thách sức mạnh của một dân
tộc. Có
một điều lạ là giặc Mĩ càng giày xéo, Việt Nam vẫn luôn chứng tỏ được sức sống
bền bỉ của
mình. “Giữa miền đất mật độ bom đạn rất đỗi đậm đặc này, sự sống vẫn bình
thường. Thấy
sự bình thường hóa cao độ cuộc sống chiến đấu ở đây mà ngao ngán thay cho thằng
giặc
Mĩ.”[12/35]. Dù chiến tranh, dù mưa bom bão đạn nhưng ở đất nước này chim vẫn
hót, hoa
vẫn nở và con người vẫn sống, vẫn chiến đấu rất hồn nhiên, vẫn ca hát, ru con,
vẫn yêu
nhau…như chưa hề nghe thấy tiếng súng vẫn đang nổ đâu đây. Có được điều đó, dân
tộc đó
phải ẩn chứa cả một sức mạnh vĩ đại tiềm ẩn ở bên trong. Các nhà văn đã lắng
nghe cái âm
thanh của cuộc sống bình thường ấy bằng tất cả trái tim, mà ngạc nhiên trước sức
mạnh của
dân tộc mình. Nguyễn Trung Thành nghe được tiếng hát dân ca trong đêm trước ngày
ra trận
đã “bàng hoàng tự hỏi: đất nước ta, con người Việt Nam ta vẫn còn giữ được tiếng
hát ấy ư?
Kì diệu biết bao nhiêu! Kì diệu biết bao nhiêu – tiếng hát và tấm lòng Việt Nam
chúng
ta.”[73/31]. Ông cũng lí giải, có được tiếng hát đó là bởi vì “Dân tộc ta từ máu
lửa mà sinh
ra, mà lớn lên. Từ trong máu lửa bốn nghìn năm chúng ta đứng dậy và cất tiếng
nói. Từ trong
máu lửa đỏ cháy cả không gian và thời gian như vậy tưởng như chỉ có thể là tiếng
kêu rú
căm hờn, dân tộc ta chỉ có thể nấc lên tiếng khóc xé ruột, xé lòng…thế nhưng lạ
lùng thay, từ
trong máu lửa cháy đỏ cả lịch sử, chúng ta lên tiếng nói và tiếng nói ấy lại là
tiếng hát trữ
tình điềm đạm […]. Một dân tộc đánh giặc bốn nghìn năm mà tiếng hát vẫn êm dịu,
uyển
chuyển như vậy, dân tộc ấy mãnh liệt và bình tĩnh biết chừng nào.”[73/32]. Rõ
ràng ở đây
chính cái bình thường đã làm nên điều vĩ đại. Các nhà văn viết tùy bút, bút kí
đã làm nổi bật
được hình ảnh một dân tộc biết đứng vững ngay trong những lúc đau thương nhất.
Đâu đó
chúng ta vẫn bắt gặp những xóm làng bình yên như ngoài bầu trời kia như chưa hề
có bom
rơi đạn nổ. Dòng kinh quê hương của Nguyễn Thi vẫn hiền hòa thơ mộng, và đâu đó
“Vẫn
như có một giọng hò đang ngân lên trong không gian có mùi quả chín, một mái
xuồng vừa
cặp bến có tiếng trẻ reo mừng, và sau lưng tôi, tiếng giã bàng vừa ngưng lại thì
một giọng
đưa em bỗng cất lên.”[78/48]. Có được cái bình yên đó, chẳng phải là ngẫu nhiên,
chẳng
phải là tự ai đưa đến mà theo Nguyễn Thi đó là từ “Tất cả những đau thương tủi
nhục mà mẹ
đã trải qua, tất cả những quằn quại của đất nước ngàn năm bị nô lệ, tàn phá đều
được dồn
thành sức mạnh trong cái thế bắt đầu này.”[78/51]. Đó là sức mạnh được dâng lên
tự ngàn
năm, của nhiều thế hệ. Sau những lần nhả bom, trút đạn, giặc Mĩ không ngăn được
sự sống
hồi sinh. Ai lại vào việc của người đó, tất cả như chưa có chuyện gì xảy ra và
điều này đã
làm cho bọn Mĩ – ngụy cũng không hiểu vì sao cuộc sống lại bình thường trở lại
nhanh như
thế. Một điều thật đơn giản – đó là vì chất anh hùng đã thấm vào từng tế bào của
mỗi người
dân đất Việt.
Đất nước Việt Nam còn rất anh hùng qua cái nhìn của bè bạn quốc tế. Những bài
bút
kí trong tập Thăm Trung Quốc của Chế Lan Viên và Hiên ngang Cu-ba của Thép Mới
phản
ánh rất rõ tình bạn giữa Việt Nam và các nước bè bạn đặc biệt là các nước xã hội
chủ nghĩa
anh em. Đây được xem như là một nguồn cảm hứng đặc biệt trong dòng cảm hứng viết
về
dân tộc. Trong lòng bè bạn quốc tế, Việt Nam luôn là một nước để lại ấn tượng
đẹp – một
đất nước nhỏ bé nhưng rất anh hùng. Ấn tượng đó có trong lòng của những nhà lãnh
đạo vĩ