Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm của tùy bút trong Văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975
136
942
102
chép của ông vẫn còn dàn trải, sự kiện chưa thật sự điển hình, khi đọc vẫn còn
cảm giác khô
khan nhưng trên hết, tập bút kí này đã cho bạn đọc hình dung được cuộc chiến đấu
rất dũng
cảm đang diễn ra nơi đây – điều này đã đáp ứng được yêu cầu của Đảng về văn học
nghệ
thuật. Tập bút kí có giá trị cũng là từ đó.
Trong những tháng ngày sôi nổi của phong trào tổng tấn công và nổi dậy năm 1968,
tác giả vào Sài Gòn công tác và viết một số bút kí và truyện in chung trong tập
Sài Gòn ta
đó, trong đó có ba bài bút kí Sài Gòn ta đó; Những tiếng nổ đầu xuân; Cờ sao
trên nền trời
chợ lớn. Sài Gòn ta đó là một trong số “Tác phẩm hiếm hoi của văn học cách mạng
miền
Nam viết về cuộc sống và con người đô thị”[68/275], ba bài bút kí đã phản ánh
một số nét về
lòng yêu nước và ý chí quyết đánh giặc Mĩ của nhân dân Sài Gòn. Tác giả đã miêu
tả khá
nhiều và sâu sắc những trận đánh lớn cũng như miêu tả sâu sắc một số nhân vật.
Nhìn chung
cả tập sách này (bao gồm truyện ngắn và bút kí) “có thể xem như bức tranh phác
thảo về
cuộc sống của nhiều lớp người khác nhau ở đô thị miền Nam với những màu sắc đậm
nhạt
khác nhau, có chỗ tối sáng còn tranh chấp nhau, song nhìn chung toàn tranh thì
ánh sáng đã
toả trên những khoản không gian rộng lớn và cũng đã chiếu vào những vũng tối tăm
bùn lầy.
Ánh sáng đó chính là cuộc tổng tấn công và nổi dậy năm 1968”[68/284].
Nguyễn Thi – nhà văn quân đội từ miền Bắc đến với chiến trường miền Nam trong
những ngày chiến đấu nóng bỏng nhất cũng đã có những đóng góp quan trọng cho
thành tựu
của tùy bút, bút kí trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975.
Ngoài truyện
kí Nguời mẹ cầm súng đã được nhiều người biết đến, Nguyễn Thi còn viết tùy bút
Dòng kinh
quê hương; Đại hội anh hùng; Những câu nói ghi trong đại hội và hai bút kí ghi
chép dài
Ước mơ của đất và Những sự tích ở đất thép. Trong những tác phẩm này chỉ có tùy
bút Dòng
kinh quê hương thiên về bày tỏ những cảm xúc của tác giả về truyền thống dân
tộc, truyền
thống đạo đức của dân tộc Việt Nam bằng một giọng văn trữ tình tha thiết. Những
tác phẩm
còn lại chủ yếu viết về những chiến công và phẩm chất anh hùng của nhân dân miền
Nam.
Nếu tùy bút Đại hội anh hùng và Những câu nói ghi trong đại hội tác giả còn dừng
lại ở việc
khai thác con người ở cấp độ khái quát thì sang hai bút kí - ghi chép dài Ước mơ
của đất và
Những sự tích ở đất thép nhà văn đã dừng lại ở những tấm gương cụ thể. Đó là chị
Hạnh
(Ước mơ của đất), là anh Cần, cô Gần… (Những sự tích ở đất thép). Với số lượng
không
nhiều nhưng những tùy bút, bút kí của mình Nguyễn Thi đã thể hiện được cái chất
riêng, đặc
biệt đã “kết hợp được tinh thần phục vụ kịp thời tính thời sự với tính nghệ
thuật lâu
dài”[16/158]. Văn phong của tác phẩm Nguyễn Thi nói chung và tùy bút, bút kí của
ông nói
riêng cũng giản dị, chân chất như con người của ông vậy nhưng “từ những trang
viết của anh
luôn toả ra ánh sáng và hơi ấm của niềm tin vô biên vào cách mạng và quần chúng,
vào sự
tất thắng của những điều nhân nghĩa và nồng hậu ấm áp tình người.”[75/321].
Trong tùy bút, bút kí viết về chiến tranh chống Mĩ cứu nước, còn phải kể đến Chế
Lan
Viên, Bùi Hiển….
Nhắc đến Chế Lan Viên, nhiều người vẫn thường nghĩ đến tầm vóc một nhà thơ lớn
của văn học dân tộc nhưng không chỉ dừng lại đó “Chế Lan Viên vừa làm thơ, viết
văn, viết
tiểu luận, phê bình. Ở lĩnh vực nào anh cũng là một cây bút tài năng, không lẫn
với ai được,
có nhiều đóng góp xuất sắc.”[25], đặc biệt trong giai đoạn chống Mĩ cứu nước ông
đã có
những bài bút kí, tùy bút rất ấn tượng. Về bút kí ông có hai tập sách được xuất
bản ngay sau
khi mới hoàn thành và đã gây được tiếng vang lớn trong đời sống văn học lúc bấy
giờ. Đó là
tập Thăm Trung Quốc (1963) và Những ngày nổi giận (1966), ngoài ra còn một số
bài tùy
bút in riêng lẻ. Thăm Trung Quốc gồm sáu bài, trong đó có bốn bài đã từng đăng
báo Nhân
Dân và Văn Nghệ được tác giả tập hợp lại và được Nhà xuất bản Văn học xuất bản
năm
1963. Đó là những bài Cảnh xưa trong đời mới; Sức mạnh và tình yêu; Về thăm
những nơi
chiến đấu cũ; Thầy giáo Lưu Thiếu Kì ở mỏ An Nguyên; Về Thiều Sơn quê Mao chủ
tịch;
Gặp một đồng chí Hồng quân ở tỉnh Cương Sơn đã thể hiện đậm nét con người và
cảnh vật
của đất nước Trung Hoa – một người bạn lâu năm của Việt Nam, thể hiện tình hữu
nghị giữa
hai đất nước qua đó bộc lộ những cảm xúc ngợi ca, trân trọng của tác giả đối với
đất nước
này.
Sau đó ba năm, vào năm 1966, tác giả tiếp tục ra mắt cuốn Những ngày nổi giận,
là
một cuốn sách bao gồm mười một bài bút kí viết từ năm 1963 đến 1966 (Tội ác im
lìm, tội ác
sắc trắng; Hoa lửa miền Nam; Một năm như bất cứ năm nào; Những bàn chân, những
bức
thư; 1965 mở đầu một năm vĩ đại; Ý nghĩ dọc đường; Từ cái giếng của ta đến chiếc
phi cơ
của giặc; Viên kim cương đầu giới tuyến; Những ngày nổi giận; Chuyện Quảng Bình;
Mùa
xuân ủng hộ chúng ta). Đây được coi là một cuốn bút kí xuất sắc trong việc thể
hiện tội ác
của giặc cũng như sự chiến đấu quật cường của nhân dân ta nhưng tác giả tập
trung khai thác
phẩm chất anh hùng của nhân dân Quảng Bình – mảnh đất đã phải gánh chịu rất
nhiều bom
đạn trong chiến tranh chống Mĩ. Qua tập bút kí này chúng ta cũng thấy nghệ thuật
viết bút kí
được nâng lên một tầm cao mới, cảm xúc và sự kiện kết hợp nhuần nhuyễn với nhau
hơn tạo
ra một độ nhấn sâu sắc hơn cho tác phẩm, đồng thời cũng thấy được trí tuệ nhà
văn được thể
hiện rất rõ trong cách khai thác sự kiện, trong cách lập luận...
Bùi Hiển cũng đóng góp cho bút kí giai đoạn chống Mĩ khá nhiều tác phẩm, được
tập
hợp qua hai tập Đường lớn và Trong gió cát. Tiếc là tập Đường lớn đã có sự mất
mát do thời
gian và đã không được tái bản. Còn tập Trong gió cát, thể hiện sự chuyển biến
kịp thời từ đề
tài xây dựng chủ nghĩa xã hội sang đề tài chống Mĩ cứu nước với những tác phẩm
tiêu biểu
như Sức mạnh Đại Phong; Trong gió cát; Trên một nông trường miền bể; Bám biển;
Những
người chiến thắng; Hai bờ tuyến lửa…. Trong tác phẩm của mình, Bùi Hiển ít viết
trực tiếp
về đời sống chiến trường nhưng chúng ta lại nhận thấy hình bóng của hậu phương
chiến đấu
và sản xuất. Đây là những bài bút kí có giá trị về mặt nội dung tư tưởng, còn về
mặt nghệ
thuật vẫn còn non yếu so với các tác phẩm cùng thể loại, cùng giai đoạn vì chưa
có được độ
thấm của cảm xúc khi miêu tả sự kiện, mà yêu cầu chính của bút kí, tùy bút là
thông qua sự
kiện mà bộc lộ cảm xúc, quan điểm, suy nghĩ… của nhà văn.
Tới những năm bọn Mĩ trực tiếp ném bom miền Bắc, đặc biệt là trong mười hai ngày
đêm B.52 ném bom xuống thủ đô, Nguyễn Tuân không đi sơ tán, ông ở lại phố phường
Hà
Nội và “Sau một ngày bom B52 ác liệt trên báo Nhân Dân đã có bài viết của ông về
một đám
cưới bên trận địa cao xạ”[77]. Vẫn chung thủy với thể loại tùy bút, Nguyễn Tuân
cũng góp
phần vào đề tài chiến tranh chống Mĩ cứu nước bằng tập tùy bút đặc sắc Hà Nội ta
đánh Mĩ
giỏi với những bài như: Ở mặt trận Hà Nội; Hà Nội giải tù Mĩ qua phố Hà Nội; Cho
giặc
bay Mỹ nó ăn một cái Tết ta; Nô-en Mĩ; Đèn điện phố phường Hà Nội vui sáng hơn
bất cứ
lúc nào; Có ba phi công Mĩ đi bộ trong chợ hoa sơ tán; Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi;
Nhớ Huế;
Sài Gòn tống Mĩ; Bên ụ súng Hà Nội một đám cưới phòng không; Nó Bê-năm-hai phố
Khâm
Thiên; Vụn B.52 và hoa Hà Nội chiến thắng; Đất cùng trời toàn cõi ta từ đây sạch
hẳn bóng
nó; Vậy mà đã một năm chiến thắng B52; Đêm xuân năm hổ này, nằm nghĩ thêm về bầy
hổ
Mĩ. “Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi đã cung cấp cho người đọc một lượng thông tin đầy đủ
chi tiết,
sống động không chỉ về lịch sử, truyền thống, cảnh người Hà Nội mà còn cho người
đọc hiểu
thêm về tính cách Mĩ.”[44/376]. Nhưng quan trọng hơn với tập tùy bút này, Nguyễn
Tuân đã
thực sự biến tác phẩm của mình “thành những mũi tên bắn tỉa vào kẻ địch là bọn
giặc lái
Mĩ.”[77].
Trong văn học cách mạng Việt nam giai đoạn chống Mĩ cứu nuớc, ở thể loại tùy bút
còn có sự góp mặt của tập tùy bút Hôm nay chúng ta ra trận của Khánh Vân - một
nhà báo
quân đội. Tập sách gồm mười hai bài tùy bút được tác giả viết từ năm 1967 đến
1971 đó là
những bài: Phía trước; Những đôi mắt Nguyễn Viết Xuân; Kí ức tiến công; Tầm cao;
Miền
Nam còn giặc Mĩ, cả nước vẫn hành quân; Chiến sĩ Việt nam; Lớn theo cách mạng,
đẹp tuổi
trẻ anh hùng; Cuộc đời không bao giờ vắng Bác; Hai mươi nhăm năm hành quân bảo
vệ
mùa xuân chế độ; Tâm hồn Nguyễn Chơn, tâm hồn chiến sĩ Việt Nam; Ánh sáng trong
đôi
mắt ta nhìn; Hôm nay chúng ta ra trận. Dù viết ở những thời điểm khác nhau, tâm
trạng
khác nhau nhưng người đọc vẫn nhận ra dòng cảm xúc chung của tác giả chính là ý
chí,
quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ, là lòng tự hào về con người, về đất nước Việt Nam.
Ngoài những tác giả, tác phẩm kể trên chúng ta còn thấy có sự đóng góp cho tùy
bút,
bút kí chiến tranh nhiều tác phẩm của nhiều tác giả là nhà báo, nhà văn, nhà
hoạt động chính
trị, nhà văn hoá…. Những tác phẩm này được in chung trong nhiều cuốn sách, chúng
tôi
muốn nói đến một trong số những cuốn sách ấy – đó là tập tùy bút Không có gì quý
hơn độc
lập tự do do Nhà xuất bản Thanh niên xuất bản năm 1972 gồm mười sáu tác phẩm của
nhiều
tác giả:
Con đường Bác và Đảng chỉ cho ta – Chế Lan Viên,
Người nghệ sĩ tài ba độc đáo – Lưu Quý Kì,
Sức mạnh của tinh thần không có gì quý hơn độc lập tự do – Hoài Nam,
Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau – Vũ Khiêu,
Không có gì quý hơn độc lập tự do – Nguyễn Khải,
Lời Bác: mệnh lệnh, niềm tin – Giang Nam,
Trận đánh bắt đầu từ hôm nay – Nguyễn Trung Thành,
Những con người và những vùng đất anh hùng – Đặng Văn Nhưng,
Những người chiến thắng trong thời kì mới – Trần Hướng Dương,
Tình cảm tha thiết, nghĩa vụ thiêng liêng – Lê Tấn,
Cả một rừng hoa thế hệ Bác vun trồng – Vũ Giang,
Sông Hồng sắc đỏ - Đỗ Chu,
Tình yêu, hạnh phúc và kẻ thù – Hoàng Tuấn Nhã,
Nhánh chè của má – Phan Tứ,
Đường ra tiền tuyến – Lê Quang Hòa,
Trái tim chúng tôi ở Việt Nam – Tô Hoài.
Với những bài tùy bút này, cuốn sách đã để lại dấu ấn rõ nét trong văn học cách
mạng
lúc bấy giờ, góp phần làm phong phú thêm diện mạo tùy bút, bút kí chống Mĩ.
Nhìn chung diện mạo của tùy bút, bút kí văn học giai đoạn 1954 – 1975 khá phong
phú, đa dạng với nhiều tác phẩm ở đỉnh cao của thể loại. Trong bức tranh toàn
cảnh đó
chúng ta nhận thấy tùy bút, bút kí viết về chiến tranh chống Mĩ cứu nước chiếm
ưu thế với số
lượng bài viết vượt trội hơn so với tùy bút, bút kí viết trong những năm đầu xây
dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc. Bởi vì :“Tuy ở miền Bắc đã có nhiều thuận lợi hơn trong
việc tổ
chức lại đời sống văn học có kế hoạch, theo dự kiến chủ động và có quy mô toàn
cục, nhưng
mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội vẫn chưa phải là vấn đề xây dựng, phát
triển, mà vẫn
là nỗ lực tập trung nhằm vào nhiệm vụ chính trị to lớn nhất: giải phóng miền
Nam, giành độc
lập dân tộc trọn vẹn.”[96]. Đó cũng là một hệ quả tất yếu của tinh thần văn học
phản ánh
hiện thực, đặc biệt theo sát hiện thực là đặc trưng của kí nói chung, của tùy
bút, bút kí nói
riêng.
1.3. Vị trí của tùy bút, bút kí văn học giai đoạn 1954 – 1975
1.3.1. Khái niệm tùy bút, bút kí
1.3.1.1. Tùy bút
Từ điển văn học định nghĩa: “Tùy bút là một thể loại văn xuôi phái sinh từ thể
loại kí,
gần với bút kí nhưng cách viết tự do và tùy hứng nhiều hơn. Nhà văn dựa vào sự
lôi cuốn của
cảm hứng có thể nói từ sự việc này sang sự việc khác từ liên tưởng này sang liên
tưởng kia
để bộc lộ những cảm xúc, những tâm tình, phát biểu những suy nghĩ, những nhận
xét về con
người và cuộc đời. Bản ngã của nhà văn được thể hiện trong tùy bút gần như trong
thơ trữ
tình.”[29/1888].
Cùng quan niệm đó, Hà Văn Đức lấy tùy bút của Nguyễn Tuân làm ví dụ cũng đã đưa
ra suy nghĩ của mình về tùy bút “Tùy bút là một thể loại có lối viết tương đối
tự do, phóng
khoáng. Nhà văn tùy theo ngọn bút đưa đẩy, có thể đi từ việc này sang việc khác,
từ liên
tưởng này sang liên tưởng nọ để bộc lộ những nhận thức, suy nghĩ và cảm xúc của
mình về
đối tượng được phản ánh. Ở thể loại tùy bút, cái tôi bản ngã của nhà văn được
thể hiện gần
như trong thơ trữ tình.”[18]. Có thêm rất nhiều định nghĩa nữa được đưa ra, tuy
nhiên thật
khó để tìm được được một định nghĩa hết sức hoàn chỉnh, bao quát hết toàn bộ đặc
trưng của
thể loại tùy bút.
Từ hai định nghĩa tiêu biểu trên chúng ta có thể thấy tùy bút là một loại kí trữ
tình tiêu
biểu, trữ tình nhất trong các loại văn xuôi.
Giống tên gọi thể loại - mạch văn trong tùy bút hết sức tự do, nhà văn không
phải tuân
theo một quy tắc viết nào về mặt thi pháp, giọng điệu, ngôn ngữ. Tuy nhiên, điều
đáng lưu ý
– khi viết tùy bút là người viết không nên, không được lẫn lộn lối viết phóng
khoáng với lối
viết tản mạn, tùy tiện. Bởi vì “những sự việc, những con người trong tùy bút tuy
có thể
không kết thành một hệ thống theo một cốt truyện hay theo một tư duy luận lí
chặt chẽ
nhưng tất cả vẫn phải tuân theo trật tự của dòng cảm xúc, cái logic bên trong
của cảm hứng
tác giả.”[29/1889].
Với tùy bút “Người viết thường mượn cớ thuật lại một sự kiện, một mẩu chuyện nào
đó mà mình có trải qua để nhân đấy nêu lên những vấn đề này khác mà bàn bạc, mà
nghị
luận, triết lí ném ra những suy nghĩ của mình một cách, thoải mái, phóng
túng.”[42/162] nên
yếu tố quan trọng của tùy bút chính là cảm xúc của tác giả. Gắn với cảm xúc nên
tùy bút
cũng từ đó mà rất thơ, rất trữ tình, có những tác phẩm tùy bút được coi như
những bài thơ
văn xuôi như tùy bút của Xuân Diệu, Thép Mới… cũng vì lẽ đó mà dấu ấn của cái
tôi cá
nhân in đậm rõ nét trong các trang tùy bút.
Là một thể loại tôn trọng sự tự do trong cảm xúc của nhà văn nhưng không phải là
tùy
tiện, phóng túng, tự do đã làm cho tùy bút tưởng như là dễ viết nhưng viết hay,
viết ấn tượng
thì không mấy ai đạt được kể cả những nhà văn tên tuổi ở những thể loại khác.
“Tùy bút đòi
hỏi nhiều ở người viết về sự hiểu biết rộng rãi, sự già dặn về kinh lịch và vốn
sống thực tế,
sự sâu sắc về tư tưởng và tình cảm.”[15/150]. Sự việc được kể lọc qua cách nhìn
của chủ thể
thẩm mĩ vẫn phải chân thực. “Giá trị của tùy bút là ở những suy nghĩ thâm trầm
sâu sắc rút ra
từ những sự việc tưởng như riêng tư, bình thường. Sức lôi cuốn của nó còn ở ngôn
ngữ chứa
đựng nhiều hình ảnh bất ngờ kì thú và sự khám phá chất thơ của cuộc
sống.”[29/1888].
Tùy bút cũng có kết cấu hết sức tự do, thường ít khi tuân theo một trật tự nào
mà
thường là tùy theo cảm xúc của người viết mà như chúng ta đã nói ở trên là “từ
liên tưởng
này sang liên tưởng nọ” nhưng không vì thế mà mất đi cái mạch cảm xúc của nhà
văn. Trong
lịch sử văn học Việt Nam, đã có những trang tùy bút thật sự xuất sắc. Trong văn
học trung
đại phải kể đến Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, tuy nhiên với tác phẩm này
chúng ta
thấy nổi bật chất kí sự và truyện kí nhiều hơn là tùy bút. Văn học hiện đại, khi
nói đến tùy
bút, chúng ta phải nhắc tới tên tuổi của Nguyễn Tuân, – “Người ấy phải có thể
tài ấy”[61].
Với những tác phẩm như Tùy bút 1, Tùy bút 2, Tóc chị Hoài, Chiếc lư đồng mắt cua
(Giai
đoạn trước 1945) và những tác phẩm như Tùy bút kháng chiến và hòa bình, Sông Đà,
Hà Nội
ta đánh Mĩ giỏi… (sau 1945), Nguyễn Tuân đã thực sự làm nên một phong cách tùy
bút rất
đặc biệt cho riêng mình. Trong văn học giai đoạn 1954 – 1975 tùy bút được các
nhà văn sử
dụng rất nhiều và đã rất thành công, ngoài Nguyễn Tuân chúng ta còn phải kể đến
tùy bút
của Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thi … viết về phong trào cách mạng miền Nam rất
sâu
sắc và gợi cảm. Sau 1975 đặc biệt phải kể đến tùy bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường,
Đỗ Chu,
Đào Phan, Võ Văn Trực…. Đó là những tác giả đã làm nên diện mạo của tùy bút Việt
Nam,
tạo nên một dòng chảy lịch sử về thể loại tùy bút với một bề dày và sức lan tỏa,
lung linh
không kém gì các thể loại khác trong lịch sử thể loại văn học Việt Nam.
1.3.1.2. Bút kí
Là “Một thể loại thuộc nhóm thể tài kí nhằm ghi lại sự việc con người, cảnh vật,
mà
nhà văn mắt thấy tai nghe, thường là trong một chuyến đi, một lần tìm hiểu nào
đó. Bút kí là
thể trung gian giữa kí sự và tùy bút. Điều này có nghĩa là bút kí không sử dụng
hư cấu vào
việc phản ánh hiện thực, có những nhận xét suy nghĩ liên tưởng nhưng ít phóng
túng triền
miên mà tập trung một tư tưởng chủ đạo”[29/172].
Sơn Tùng viết “Bút kí cũng là một thể kí miêu tả người thật, việc thật như phóng
sự,
kí sự nhưng trong bút kí nhà văn có thể phát biểu ý kiến, biểu hiện cảm xúc cá
nhân nhiều
hơn, tự do hơn và không bị gò bò vào một vấn đề một câu chuyện nhất định […].
Cần phân
biệt loại bút kí có tính chất nghệ thuật với loại bút kí học thuật ghi lại những
nhận thức, thu
hoạch, phát hiện về mặt khoa học.”[88].
Như vậy chúng ta thấy đặc trưng của bút kí dựa trên tiêu chí thể hiện người
thật, việc
thật nhưng luôn gắn với cảm xúc, gắn với suy tư của cá nhân nhà văn và cũng
thường bắt
nguồn từ một cái cớ, một sự kiện nào đó. Cách viết cũng không bị gò bó trong một
khuôn
khổ, một quy tắc nào mà tùy theo sự liên tưởng, tưởng tượng của tác giả để từ đó
bộc lộ cảm
xúc hoàn chỉnh của người viết.
Từ điển văn học (bộ mới) đã phân chia bút kí thành ba loại, đó là bút kí báo
chí, bút kí
chính luận và bút kí văn học. “Bút kí báo chí chủ yếu nhằm thông tin – lượng
thông tin là
linh hồn của nó. Do đó nó yêu cầu vừa phải rất xác thực, vừa có tính thời sự
thường đề cập
đến những vấn đề cấp bách có khi hàng ngày, hàng giờ với một số suy nghĩ ban
đầu”[29/173]. Còn bút kí chính luận “cũng là một thể văn quen thuộc của báo chí
trong đó
thành phần nghị luận (về chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa…) là quan trọng,
có khi là chủ
yếu. Giá trị của bút kí chính luận là ở tư tưởng chủ đạo, ở tính logic của lập
luận, ở sức
thuyết phục của những dẫn chứng. Nó mang tính tranh luận rõ rệt, ứng chiến kịp
thời, có tác
dụng tuyên truyền cho một quan điểm nào đó”[29/173]. Bút kí văn học đó là những
tác phẩm
bút kí có giá trị văn học khi “ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, có khả năng
tác động
đến tâm hồn người”[29/173]. So với bút kí báo chí, bút kí văn học không đòi hỏi
tính xác
thực ở mức tuyệt đối, tính cấp bách về thời sự. Nó đi sâu vào thế giới tâm hồn
của con
người, chú ý đến sự khắc họa tính cách thông qua một cốt truyện và những biện
pháp tưởng
tượng, liên tưởng, trữ tình với tất cả những nét riêng tư, đặc sắc. “Nói cách
khác bút kí văn
học chú ý hơn chất nhân văn và chất thẩm mĩ”[29/173]. Nhưng sự phân chia ấy
không thể
rạch ròi một cách tuyệt đối, bởi vì “Thực ra toàn bộ các thể kí đều do sự thâm
nhập, kết hợp
ở những mức độ khác nhau giữa ba thành phần tự sự, trữ tình và chính luận”
[17/227], trong
nội bộ một thể loại cũng có tình trạng đó. Vì thế chúng ta nhận thấy bút kí báo
chí, bút kí
chính luận cũng có khi thấm đầy chất văn chương và ngược lại bút kí văn học có
khi cũng
chứa đầy thông tin nóng hổi của bút kí báo chí hay lập luận rất chặt chẽ của bút
kí chính luận
vì thế tìm hiểu bút kí còn phải dựa vào nhiều yếu tố mới có cái nhìn toàn diện,
đầy đủ.
Trong văn học Việt Nam ở những giai đoạn trước, thể loại bút kí chưa được sử
dụng
nhiều, nhưng đến văn học chống Mĩ thì thể loại này mới thật sự được ưa chuộng và
trở thành
một thứ vũ khí sắc bén hơn bao giờ hết. Những tác phẩm bút kí tiêu biểu của văn
học Việt
Nam như Những ngày nổi giận của Chế Lan Viên, Trong gió cát của Bùi Hiển, bút kí
viết về
phong trào cách mạng miền Nam của Anh Đức, của Trần Hiếu Minh hay những trang
bút kí
của Thép Mới, đều là những thiên bút kí giàu tính nhân văn và giá thẩm mĩ rất
được chú ý.
1.3.1.3 Tùy bút, bút kí – những nét giao thoa
Trong định nghĩa của hai thể loại mà Từ điển văn học đã nêu chúng ta đều thấy có
đề
cập đến sự giao thoa này, ở định nghĩa tùy bút thì ghi tùy bút “gần với bút kí
nhưng cách viết
tự do và tùy hứng nhiều hơn”[29/1888], còn trong định nghĩa bút kí thì đặc biệt
chú ý “Bút
kí là thể trung gian giữa kí sự và tùy bút”[29/172]. Xung quanh khái niệm cũng
như các nội
hàm của hai thể loại này có khá nhiều ý kiến tranh luận với nhau và cũng đều xác
định giữa
hai thể loại này có sự “nhập nhằng”. (chữ dùng của Chế Lan Viên).
“Tùy bút thiên về những diễn đạt tâm tư, suy nghĩ, diễn biến trong thế giới nội
tâm.
Bút kí cũng không sử dụng hư cấu vào việc phản ánh hiện thực, có những nhận xét,
suy nghĩ
liên tưởng nhưng ít phóng túng triền miên mà tập trung thể hiện một tư tưởng chủ
đạo nhất
định. Có thể nói, làm nổi bật giá trị nhận thức là ý nghĩa hàng đầu của thể
loại. Tuy nhiên
phân lượng của những đặc điểm trên lại biến hóa tùy theo bút pháp của các nhà
văn khác
nhau nên ranh giới giữa các thể tùy bút và bút kí có khi không thật rạch ròi,
nhất là trong một
bài ngắn”[29/173].
Cũng theo Sơn Tùng trong bài Các thể kí lại định nghĩa về tùy bút như sau “Tùy
bút là
một loại bút kí trong đó nhà văn không quan tâm nhiều vào việc miêu tả việc và
người mà
quan tâm nhiều hơn vào việc phát biểu cảm tưởng của mình đối với người và việc,
cố nhiên
những dòng cảm tưởng này đều dựa vào người thật, việc thật, đều do người thật,
việc thật
gợi nên”[88].
Còn theo GS. Nguyễn Văn Hạnh thì “Bút kí và tùy bút rất gần nhau nhưng nếu trong
tùy bút nhất là tùy bút Nguyễn Tuân, phần trình bày, suy nghĩ nhận xét, liên
tưởng, tưởng
tượng của người viết chiếm một tỉ trọng lớn và do đó tính chất trữ tình thường
khá đậm nét
thì trong bút kí việc ghi chép thường khá trung thực, sự việc được coi trọng
hơn. Bút kí cũng
khác kí sự ở chỗ là bút kí kết hợp mật thiết hơn việc ghi chép sự việc với việc
bày tỏ thái độ
chủ quan của người viết. Xét về mức độ kết hợp tự sự với trữ tình, về tính chặt
chẽ hay
phóng khoáng trong tư duy và kết cấu thì bút kí có thể xem như đứng giữa kí sự
và tùy
bút”[26/218,219].
Chế Lan Viên trong một cuộc tranh luận về thể kí, đã có một bài viết khá hoàn
chỉnh lí
giải khá rõ ràng về sự nhập nhằng giữa các thể loại nằm trong kí và giữa các thể
loại khác
với kí, đó là bài “Hãy xây dựng một nền văn học cân đối và toàn diện”[93], ông
cho rằng
cùng một tác phẩm nhưng với người này là thể loại này, với người kia là thể loại
khác. Cũng
như Nguyễn Đăng Mạnh khi ông nghiên cứu về tùy bút chống Mĩ của Nguyễn Tuân
nhưng
ngay trong tựa đề bài viết ông lại viết “Con đường đi đến bút kí chống Mĩ của
Nguyễn
Tuân”[43], hoặc như tác phẩm của Thép Mới, Lê Thị Đức Hạnh gọi là bút kí, Nguyễn
Thị
Hồng Hà và một số tác giả khác gọi là tùy bút. Ở đây cái chính không phải là các
nhà văn
không phân biệt được từng thể loại mà quan trọng là ranh giới giữa các thể loại
rất mong
manh, nhiều khi hòa lẫn khó xác định.
Từ sự phân tích trên, rõ ràng chúng ta thấy giữa hai thể loại này có sự tương
đồng
nhau.
Cứu cánh của cả tùy bút và bút kí đều nhân một cái cớ nào đó để từ đó nhà văn
bộc lộ
ra những suy nghĩ của chính bản thân mình. Cũng như từ một sự kiện, một sự việc
quan
trọng, để nhà văn thể hiện suy nghĩ, cảm xúc, có khi là những nhận xét, đánh giá
của bản
thân họ về sự việc ấy.
Về cách viết, cả tùy bút và bút kí đều có yếu tố trữ tình, nói đến trữ tình là
nói đến cảm
xúc, nói đến tâm trạng, tình cảm của nhà văn, dù ở mức độ ít nhiều nhưng yếu tố
trữ tình đều
thể hiện rất rõ trong hai thể loại và do đó đều cho phép vận dụng trí tưởng
tượng, liên tưởng
để tập trung làm nổi bật cảm xúc ấy cũng là tập trung làm nổi bật chủ đề cho
trang viết. Tất
nhiên là tưởng tượng, liên tưởng trong kĩ thuật viết chứ không phải ở sự kiện,
con người.
Chính yếu tố này khiến cho người đọc khi đọc tùy bút và bút kí tránh được cảm
giác khô
khan khi tiếp xúc với các sự kiện được nêu, trái lại người đọc được chìm đắm
trong những
khúc ca, những tiếng hát vang lên từ nỗi lòng tác giả, và lúc này ranh giới giữa
tùy bút và bút
kí dường như bị xóa nhòa.
1.3.2. Vị trí của tùy bút, bút kí trong văn học cách mạng giai đoạn 1954 – 1975
Cho đến nay, khi bàn về địa vị văn học cách mạng 1945 – 1975, trong đó có văn
học giai
đoạn 1954 – 1975 vẫn còn có những ý kiến trái ngược nhau. Có người cho rằng văn
học
1945 – 1975 là “khúc gãy” làm gián đoạn tiến trình hiện đại hoá văn học dân tộc
hay đây là
giai đoạn văn học chính trị, đơn nghĩa, không phải là nghệ thuật đích thực, văn
học minh
hoạ… vì thế vị trí văn học cách mạng nói chung và tùy bút, bút kí 1954 – 1975
trong tiến
trình phát triển văn học Việt Nam là một vấn đề lớn cần được xem xét dưới nhiều
góc nhìn.
Luận văn chỉ xin đề cập đến một khía cạnh nhỏ trong vấn đề lớn ấy, đó là vị trí
của tùy bút,
bút kí trong văn học cách mạng giai đoạn 1954 – 1975.
Văn học cách mạng Việt Nam nói chung và thể kí nói riêng giai đoạn 1954 – 1975
phát
triển trong hoàn cảnh xã hội hết sức đặc biệt, đất nước phải đối đầu với cuộc
chiến tranh xâm
lược của đế quốc Mĩ, vừa phải ra sức xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Đất
nước bị
chia cắt thành hai miền và mỗi miền đều có những nhiệm vụ riêng nhưng mục đích
chung là
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Hoàn cảnh đó đã quy định đường đi cho
văn
học. Nhìn một cách tổng thể, có thể nói đây là thời kì phát triển mạnh mẽ nhất
của văn xuôi
hiện thực xã hội chủ nghĩa. Những ảnh hưởng về quan điểm văn nghệ, về hệ thống
thi pháp
hiện thực xã hội chủ nghĩa từ nền văn học Trung Hoa và nhất là từ văn học Liên
Xô (cũ) là
vô cùng quan trọng. Theo đó văn học vẫn xác định mục đích phục vụ đường lối
chính trị của
Đảng. Hiện thực đất nước đã đặt văn nghệ trước yêu cầu: “tăng cường tính Đảng,
bám sát
cuộc sống mới, con người mới để miêu tả cho hay, cho chân thật, cho hùng
hồn”[21/41] vì
thế quỹ đạo của văn học là sự kết hợp của yêu cầu tính Đảng với đối tượng trung
tâm: cuộc
sống mới, con người mới và yêu cầu điển hình hóa của phương pháp sáng tác mới.
Là hai thể loại chủ lực của kí văn học, tùy bút và bút kí đã đạt được những yêu
cầu của
Đảng về văn học nghệ thuật. Từ góc độ tiếp cận hiện thực, hệ thống đề tài, cảm
hứng sáng
tạo, tư tưởng nghệ thuật, đến những thủ pháp nghệ thuật, những tùy bút, bút kí
văn học giai
đoạn 1954 – 1975 không đi ra ngoài quỹ đạo của văn học cách mạng mà đã cùng với
thơ,
truyện ngắn, tiểu thuyết… định hình một thi pháp thống nhất của cả thời đại văn
học. Qua đó
khẳng định được vị trí xứng đáng trong dòng chảy của văn học cách mạng Việt Nam.
Trước hết, về mặt nội dung tư tưởng, tùy bút, bút kí đã có những đóng góp nhất
định.
Các tác phẩm đã đáp ứng được những yêu cầu cơ bản đối với một tác phẩm văn học
cách