Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm của tùy bút trong Văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975
184
942
102
Chương 1
DIỆN MẠO VÀ VỊ TRÍ CỦA TÙY BÚT, BÚT KÍ VĂN HỌC TRONG
VĂN HỌC CÁCH MẠNG VIỆT NAM 1954 – 1975
Kí là một thể loại văn học “áp sát” đời sống. Thể loại tùy bút, bút kí giai đoạn
này đã
bám sát, phản ánh kịp thời hiện thực đời sống. Để tìm hiểu thành tựu của hai thể
loại này,
Luận văn xin trình bày khái quát về bối cảnh lịch sử giai đoạn 1954 – 1975. Trên
cơ sở đó
phác họa diện mạo của hai thể loại và tìm hiểu vị trí của nó trong bức tranh
chung của văn
học cách mạng giai đoạn này.
1.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975
Giai đoạn lịch sử 1954 – 1975 xã hội Việt Nam có nhiều biến đổi quan trọng,
nhiều sự
kiện liên tiếp nổ ra đã tác động lớn đối với vận mệnh dân tộc. Có thể thấy những
biến động
đó trong những chặng đường lịch sử sau:
1.1.1. Từ năm 1954 đến năm 1964
Chiến thắng Đông – xuân 1953 – 1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ
(ngày 7-5-1954) đã buộc thực dân Pháp phải kí hiệp định Giơnevơ, rút quân về
nước lập lại
hoà bình trên cơ sở thừa nhận chủ quyền dân tộc của ba nước Đông Dương, kết thúc
thắng
lợi cuộc kháng chiến chống Pháp. Tuy nhiên do tình hình chính trị thế giới phức
tạp, Việt
Nam tạm thời bị chia làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau: miền Bắc
đã hoàn
toàn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mĩ và
các lực
lượng tay sai thống trị. Vì thế sự nghiệp cách mạng vẫn chưa hoàn thành. Hai yêu
cầu đặt ra
là xây dựng miền Bắc và giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Đối với miền Bắc, từ năm 1954 đến 1960, cách mạng đặt ra nhiệm vụ hết sức cấp
bách
là khôi phục kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Công cuộc khôi phục kinh tế
diễn ra trong
trong điều kiện hết sức khó khăn vì đất nước vốn là một nước thuộc địa, lại vừa
trải qua
chiến tranh, cơ sở vật chất cũng như các yếu tố tinh thần bị tàn phá nặng nề.
Trước tình hình
đó, tháng 9 – 1954, Bộ chính trị đã ra nghị quyết và vạch rõ nhiệm vụ trước mắt
là ổn định
trật tự xã hội, ổn định vật giá, ổn định thị trường. Trọng tâm ở cả thành phố và
nông thôn là
phục hồi và nâng cao sản xuất, phục hồi kinh tế quốc dân mà then chốt là phát
triển sản xuất
nông nghiệp. Với quyết tâm cao, cuối năm 1957 kế hoạch khôi phục kinh tế đã căn
bản hoàn
thành và nhiều chỉ tiêu đã hoàn thành vượt mức. Nông nghiệp, công nghiệp, giao
thông vận
tải đã có bộ mặt mới, đặc biệt các ngành văn hóa, giáo dục, y tế đã phát triển
nhanh chóng.
Sau ba năm khôi phục kinh tế với nhiều thành quả quan trọng, miền Bắc sôi nổi
bước
vào thời kì cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế. Không khí này diễn
ra ở tất cả các
vùng từ đồng bằng tới miền núi, ở tất cả các ngành từ công nghiệp, nông nghiệp,
thương
nghiệp, giáo dục, y tế. Với những chương trình như hợp tác hoá nông nghiệp, phát
triển
thành phần kinh tế quốc doanh…. “Kết quả cải tạo xã hội chủ nghĩa đã có tác động
tích cực
trong việc xoá bỏ cơ bản về chế độ người bóc lột người, góp phần thúc đẩy sản
xuất phát
triển, nhất là trong điều kiện có chiến tranh”[23/148]. Thắng lợi của kế hoạch
ba năm (1958
-1960) và cải tạo xã hội chủ nghĩa đã tạo nên những chuyển biến to lớn trên miền
Bắc nước
ta.
Ở miền Nam, trước khi hiệp định Giơnevơ được kí kết, Mĩ đã đưa Ngô Đình Diệm lên
làm thủ tướng bù nhìn ở miền Nam Việt Nam. Sau khi lên nắm chính quyền, Ngô Đình
Diệm
đã xây dựng miền Nam thành “quốc gia mạnh”, do đó chúng triệt để thi hành những
chính
sách độc ác, dã man, nguy hiểm nhất là chúng đưa “lối sống Mĩ” tràn vào miền Nam
để đầu
độc nhân dân ta, nhất là tầng lớp thanh – thiếu niên. Chúng vừa mua chuộc, vừa
mị vừa đàn
áp trắng trợn, cưỡng bức nhân dân trong các chiến dịch tố cộng, vu khống tố cáo
cộng sản,
đề cao Ngô Đình Diệm. Tình hình đó khiến cho cách mạng bị tổn thất nặng nề.
Nhiều phong
trào đấu tranh đã nổ ra, đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị kéo dài cho
đến năm 1960.
Tiêu biểu trong các phong trào đó là phong trào “đồng khởi”. Xuất phát từ yêu
cầu của nghị
quyết 15 của hội nghị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng vào tháng 1 – 1959, ngọn lửa
đồng
khởi đã cháy lên trên nhiều vùng rộng lớn ở miền Nam, từ Ninh Thuận, Bình Thuận,
Quãng
Ngãi cho đến các vùng Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long – đặc biệt là ở tỉnh
Bến
Tre. Thắng lợi của phong trào đồng khởi đã đánh dấu bước phát triển của cách
mạng miền
Nam và sự suy yếu của chính quyền Ngô Đình Diệm.
Từ năm 1961 đến năm 1964, bối cảnh lịch sử xã hội giai đoạn này có một sự biến
chuyển tích cực rõ nét, miền Bắc đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội – đây được
coi nhiệm
vụ quyết định nhất đối với sự nghiệp cách mạng của cả nước. Còn miền Nam tiếp
tục thực
hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân – cuộc cách mạng này có ý nghĩa quyết
định trực
tiếp để đánh đổ đế quốc và tay sai, thực hiện hoà bình và thống nhất đất nước.
Miền Bắc, từ năm 1961 Đảng đã xác định lấy xây dựng chủ nghĩa xã hội làm trọng
tâm. Một phong trào thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội được dấy lên sôi nổi khắp
nơi. Nếu
giai đoạn trước, Đảng chú ý phát triển nông nghiệp thì sang giai đoạn này đã
bước đầu chú ý
công nghiệp hoá nước nhà – điều này được thể hiện rất rõ trong kế hoạch năm năm
lần thứ
nhất(1961 – 1965). Trong công nghiệp, các ngành công nghiệp chủ yếu như điện, cơ
khí,
luyện kim, hoá chất, vật liệu xây dựng, đã được hình thành và phát triển rất
nhanh, nhất là
ngành điện và cơ khí. Đây được coi là điều kiện thuận lợi cho các ngành công
nghiệp nói
chung phát triển với tốc độ nhanh hơn nữa. Nông nghiệp cũng được ưu tiên đầu tư
đúng
mức, đặc biệt đã chú ý phát triển hợp tác xã nông nghiệp và nông trường quốc
doanh để làm
cơ sở cho sự phát triển nông nghiệp. Văn hoá, giáo dục ngày càng ổn định, đời
sống vật chất
và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao. Trong năm năm này, đời sống
của
nhân dân miền Bắc ổn định, với tinh thần tất cả cho chủ nghĩa xã hội, miền Bắc
đã thực hiện
thắng lợi kế hoạch năm năm lần thứ nhất, tạo ra được sự chuyển biến mạnh mẽ và
khơi gợi
nhiều phong trào thi đua giữa các tỉnh với nhau. “Thắng lợi đó đã tạo cho miền
Bắc cơ sở
chính trị tinh thần và vật chất để tự bảo vệ, liên tiếp đánh thắng các cuộc
chiến tranh phá
hoại của Mĩ sau này, đồng thời làm trọn nhiệm vụ cơ sở của cách mạng giải phóng
miền
Nam, hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam và là hậu phương lớn của cả cách
mạng
ba nước Đông Dương”[23/179].
Trong khi đó, ở miền Nam, tình hình xã hội đã có nhiều biến động. Sau khi
Kennơđi
lên làm tổng thống, Mĩ đã điên cuồng chống phá cách mạng Việt nam dưới nhiều
hình thức –
tiêu biểu là thực hiện kiểu chiến tranh đặc biệt. Chúng đã dồn nhân dân vào ấp
chiến lược để
dễ dàng cho chúng trong việc thực hiện âm mưu của mình. Chúng dùng sức mạnh của
bộ
máy quân sự và chính trị để cưỡng bức, càn quét, chúng còn tiến hành những cuộc
hành quân
càn quét dài ngày vào những vùng Bến Cát, Tây Ninh, Bình Định, Phú Yên…, đời
sống của
nhân dân vô cùng cực khổ, đau thương, qua những trận càn đó, cách mạng đã có rất
nhiều
mất mát, hi sinh. Tháng 1 – 1961, Bộ chính trị họp, quyết định về những nhiệm vụ
công tác
trước mắt của cách mạng miền Nam, theo đó phong trào cách mạng đã có nhiều sự
thay đổi.
Đấu tranh vũ trang được phát huy với quy mô ngày càng lớn, kết hợp chặt chẽ với
đấu tranh
chính trị. Phong trào này bước đầu đã phá vỡ từng mảng chính quyền địch ở nông
thôn, tiêu
diệt và làm tan rã hàng vạn tề ngụy, phá huỷ gần hết các “khu dinh điền”, “khu
trù mật” của
địch… đưa khí thế cách mạng ngày càng dâng cao. Đã có những sự kiện điển hình,
tiêu biểu
cho phong trào chống Mĩ trong giai đoạn này như chiến thắng ấp Bắc – Mĩ Tho vào
tháng 1
– 1963, hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối Mĩ (11-6-1963)… đã làm
thất bại
kế hoạch Xtalây – Taylo mà Mĩ đưa ra đồng thời những sự kiện đó đã gây được xúc
động
mạnh trong nhân dân, từ đó làm cho khí thế cách mạng ngày càng trào dâng mãnh
liệt. Sự
phá sản của chiến tranh đặc biệt đã đánh dấu một bước phát triển mới của cách
mạng miền
Nam, minh chứng cho sự đúng đắn, kịp thời trong đường lối lãnh đạo của Đảng.
1.1.2. Từ năm 1965 đến năm 1975
Trong ba năm (1965 – 1968), miền Nam chiến đấu chống chiến lược chiến tranh cục
bộ của Mĩ. Ỷ vào ưu thế quân đội đông, vũ khí hiện đại, hỏa lực mạnh, cơ động
nhanh,
chúng đã tiếp tục, thường xuyên mở những cuộc càn quét lớn như cuộc hành quân
Áttơnborơ
đánh vào khu Dương Minh Châu vào tháng 11 – 1966, cuộc hành quân Xêđaphôn vào
Trảng
Bàng – Bến Súc – Củ Chi vào tháng 1 – 1967, cuộc hành quân Gianxơn Xiti đánh vào
Bắc
Tây Ninh từ tháng 2 đến tháng 4 – 1967. Tuy nhiên, Mĩ tăng cường và mở rộng
chiến tranh
trong thế thua, bị động và một tinh thần chiến đấu bệ rạc nên không bao lâu
trước sự tấn
công ồ ạt và sự kiên cường đánh trả, thế chủ động “tìm Mĩ mà đánh, tìm ngụy mà
diệt” đang
dâng cao của nhân dân ta thì chiến tranh cục bộ của Mĩ cũng bị phá sản một cách
nhanh
chóng. Đỉnh cao cho phong trào cách mạng những năm 1965 – 1968 là cuộc tổng tiến
công
và nổi dậy vào Tết Mậu Thân năm 1968 đã làm cho địch choáng váng. Với cuộc tập
kích
này, tuy còn nhiều hạn chế nhưng đã tạo ra bước ngoặt quyết định cho cuộc kháng
chiến
chống Mĩ cứu nước, làm lung lay ý chí xâm lược của quân viễn chinh Mĩ, buộc
chúng phải
xuống thang chiến tranh.
Không từ bỏ âm mưu xâm lược của mình, Mĩ dựng lên “sự kiện vịnh Bắc bộ” và chính
thức mở rộng cuộc chiến tranh không quân và hải quân lần thứ nhất phá hoại miền
Bắc vào
ngày 7 – 2 – 1965. Trước tình hình đó, miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh
phá hoại,
vừa phối hợp với miền Nam chống chiến tranh cục bộ, lại vừa tiếp tục xây dựng
chủ nghĩa
xã hội trong điều kiện chiến tranh và làm nghĩa vụ hậu phương lớn.
Từ năm 1969 đến năm 1973, sau khi trúng cử tổng thống, chính thức bước vào Nhà
Trắng, đầu năm 1969 Nich xơn tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh Việt Nam với chiến
lược Việt
Nam hoá chiến tranh, “dùng người Việt đánh người Việt”. Ních xơn đưa ra cùng lúc
ba loại
chiến tranh là Chiến tranh giành dân, Chiến tranh hủy diệt và Chiến tranh bóp
nghẹt, trên cơ
sở huy động sức mạnh tối đa về quân sự của nước Mĩ kết hợp với thủ đoạn chính
trị và ngoại
giao xảo quyệt. Tất cả những chính sách đó đã khiến cho nhân dân miền Nam rơi
vào đời
sống vật chất và tinh thần vô cùng cực khổ, mất mát hi sinh ngày càng nhiều.
Đáp lại lời kêu gọi của Hồ Chí Minh, nhiều phong trào quần chúng đã nổ ra ở hầu
khắp các vùng nông thôn Trung Trung Bộ và đồng bằng sông Cửu Long với quyết tâm
chống ác ôn, phá kìm kẹp, giành quyền làm chủ. Ở thành thị, công nhân, học sinh
sinh viên,
trí thức, phật tử và các tầng lớp khác đã đấu tranh mạnh mẽ dưới nhiều hình thức
phong phú
như bãi công, bãi khoá, mít tinh…và đã thu được nhiều thắng lợi. Cuộc tiến công
chiến lược
năm 1972 là sự kiện tiêu biểu cho phong trào chống Mĩ giai đoạn này, tuy bị tổn
hại nhiều
nhưng đã giáng đòn mạnh vào quân ngụy và quốc sách “bình định” của chiến lược
Việt Nam
hóa chiến tranh của Mĩ.
Giữa lúc cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cuộc kháng chiến chống Mĩ
cứu nước của nhân dân ta ở cả hai miền đang trên đà thắng lợi thì ngày 2 – 9 –
1969 chủ tịch
Hồ Chí Minh qua đời, đó là một tổn thất lớn đối với dân tộc ta, Đảng ta và cách
mạng nước
ta.
Trước nguy cơ phá sản của chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, để cứu vãn tình
thế,
Níchxơn tiến hành “Mĩ hoá” trở lại cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, bằng cách
huy
động trở lại lực lượng lớn không quân và hải quân ồ ạt tham chiến ở miền Nam và
gây lại
cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Do đó miền Bắc tiếp tục khôi phục và phát
triển kinh tế
chi viện cho miền Nam, lại vừa phải chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của
Mĩ. Bằng
quyết tâm của mình, nhân dân miền Bắc đã làm thất bại cuộc chiến tranh phá hoại
lần thứ hai
này với sự kiện “Điện Biên Phủ trên không” vào cuối năm 1972 đưa miền Bắc trở
lại không
khí hòa bình.
Từ năm 1973 đến năm 1975, nhiệm vụ đặt ra cho miền Bắc lúc này vừa tranh thủ hoà
bình để hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế đẩy mạnh
sản xuất,
xây dựng chủ nghĩa xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tăng cường tiềm lực mọi
mặt của hậu
phương vừa phải luôn đề cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu và hành
động của
địch. Bên cạnh đó, miền Bắc còn phải thực hiện nhiệm vụ của hậu phương lớn là
chi viện
sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam.
Miền Nam, quân đội Mĩ và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu vẫn ra sức chống phá cách
mạng Việt Nam bằng mọi cách, mọi mặt. Nhưng cách mạng và chiến tranh giải phóng
miền
Nam đã có căn cứ địa và hậu phương vững chắc nên không ngừng lớn mạnh. Cuối năm
1974
đầu năm 1975, tình hình ngày càng có lợi cho cách mạng nên Bộ chính trị đã bàn
kế hoạch
giải phóng miền Nam. Với cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 mà
tiêu biểu
là chiến dịch Hồ Chí Minh đã kết thúc sự nghiệp chống Mĩ cứu nước một cách thắng
lợi
hoàn toàn. “Đó là cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại, cuộc chiến tranh giải phóng
dân tộc và
bảo vệ Tổ quốc tiêu biểu của nhân dân ta. Cuộc chiến tranh đã kéo dài hơn hai
thập niên (từ
tháng 7 – 1954 đến tháng 5 – 1975), dài hơn trong bất cứ cuộc chiến tranh nào
trong lịch sử
và phải chống lại một đế quốc lớn mạnh nhất là đế quốc Mĩ”[23/270]. Cuộc kháng
chiến
chống Mĩ cứu nước thắng lợi đã kết thúc hai mươi mốt năm chiến đấu chống Mĩ và
ba mươi
năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc từ cách mạng tháng Tám 1945,
chấm
dứt vĩnh viễn ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến ở nước
ta, rửa sạch
nỗi đau mất nước trên một thế kỉ. Trên cơ sở đó hoàn thành về cơ bản cuộc cách
mạng dân
tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, bảo vệ và phát triển những thành tựu của
cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xóa bỏ mọi chướng ngại trên con đường thực hiện thống
nhất đất
nước. Miền Nam giải phóng, đất nước được thống nhất và bước vào những trang lịch
sử mới.
Hiện thực lịch sử đó của đất nước đã được văn học cách mạng phản ánh một cách
trọn
vẹn, sinh động qua các tác phẩm văn học, hay nói cách khác “Văn học thực sự là
một chứng
nhân của một quá trình lịch sử hết sức hào hùng.”[37] trong đó có tùy bút, bút
kí văn học giai
đoạn 1954 – 1975.
1.2. Diện mạo của tùy bút, bút kí văn học giai đoạn 1954 – 1975
Diện mạo của tùy bút, bút kí trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 –
1975 có thể phân chia ở hai phạm vi rõ rệt, đó là tùy bút, bút kí trong những
năm đầu xây
dựng chủ nghĩa xã hội và tùy bút, bút kí viết về chiến tranh chống Mĩ cứu nước.
1.2.1. Tùy bút, bút kí trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội
Ngày 7 tháng 5 năm 1954 chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, những tên
lính
cuối cùng của thực dân Pháp đã rút khỏi Việt Nam, hòa bình được lập lại, miền
Bắc bước
vào thời kì hàn gắn vết thương chiến tranh và đi vào thời kì xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Với
một tinh thần quyết tâm cao, nhân dân đã bước vào cuộc sống mới một cách tích
cực, khẩn
trương, một không khí nhộn nhịp, rộn rã chưa từng thấy. Tất cả đó đã chi phối
đến hoạt động
văn học nghệ thuật. Các nhà văn, nhà thơ đã hoà nhập với cuộc sống, về với nhân
dân, về với
những vùng đất mới. Các nhà viết kí cũng đã đồng hành trên con đường hoà nhập
ấy, những
tùy bút, bút kí mới ra đời, giai đoạn đầu còn sơ sài, nghèo nàn về nội dung, đơn
giản về nghệ
thuật nhưng càng về sau những tùy bút, bút kí càng có chất lượng nghệ thuật cao.
Đặc biệt
khi báo Văn học tổ chức cuộc thi bút kí, phóng sự đã lôi cuốn, thu hút được rất
nhiều người
tham gia và đã có được những tác phẩm có giá trị. Các tác phẩm hầu như đều hướng
về đất
nước trong cao trào xây dựng chủ nghĩa xã hội và mang hơi thở trực tiếp của đời
sống mới.
Tiêu biểu nhất phải kể đến tập tùy bút Sông Đà của Nguyễn Tuân. Tập tùy bút xuất
bản lần
thứ nhất vào năm 1960, ngay sau khi xuất bản đã được bạn đọc đón nhận một cách
nồng
nhiệt, trở thành một cuốn sách gối đầu giường của rất nhiều người lúc bấy giờ.
Sông Đà gồm
mười lăm bài tùy bút và một bài thơ phác thảo: Đường lên Tây Bắc; Giăng liềm
(bài thơ
phác thảo); Tây Trang; Đi mở đường; Dọn nhà lên Điện Biên; Một tí về lịch sử và
một bản lí
lịch; Phố núi; Xoè; Đào cộng sản; Đất cũ Sơn La; Tình cao su; Bài ca trên mặt
phần đường;
Gió than Uyên; Than Quỳnh Nhai; Người lái đò sông Đà.
Đề tài của Sông Đà là cuộc sống, con người Tây Bắc trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, với tập tùy bút này, Nguyễn Tuân đã cho mọi người thấy cái không
khí phấn
chấn trong cuộc sống mới ấy không chỉ diễn ra ở những thành phố lớn mà còn lan
tỏa đến
những bản Mèo xa xôi, heo hút. Tuy nhiên, với Tây Bắc, nhà văn còn khám phá sâu
hơn thế,
nhiều hơn thế, ông về với Tây Bắc của thời quá khứ với “một tí về lịch sử” của
tên vua Đèo
Văn Long – tay sai của Pháp, độc ác, dâm ô và những đứa con cùng bản chất với
hắn. Cùng
với cuộc sống của tên vua ấy là thân phận của những cô xoè phải “giẫm lên máu
mình mà
múa, rồi máu tươi ấy khô dần một đống trên một cuộc đời đã biến thành một cái
đệm, lớp
máu đêm sau đóng vẩy lên lớp máu đêm đầu, và cứ thế, cứ thế.”[86/193]. Trở về
với hiện tại,
ông tìm đến vẻ đẹp của con người Tây Bắc mà ông gọi đó là “chất vàng mười” của
tâm hồn.
Ông đồng tình, ủng hộ với những người “dọn nhà lên Điện Biên” – dù với họ không
khỏi bịn
rịn, nhớ thương làng cũ nhưng trên hết là sự chờ đợi, háo hức những đổi thay của
cuộc đời
họ trên mảnh đất mới, ông cũng ca ngợi những người đang ngày đêm mở đường xây
dựng
Điện Biên và ông hát ca cùng họ trên mặt phần đường. Ông ăn ở cùng những chiến
sĩ đồn
Tây Trang đang ngày đêm bảo vệ biên giới Tổ quốc, gặp những người lái đò trên
dòng sông
Đà hiểm trở… bởi tất cả những con người ấy rồi đây sẽ làm cho Tây Bắc đổi thay.
Nhà văn
hi vọng cho một ngày mai tươi sáng sẽ đến với Tây Bắc. Sông Đà còn dành rất
nhiều những
trang viết về thiên nhiên rất đẹp, rất đặc trưng của núi rừng Tây Bắc – hoa mận,
hoa ban
trắng xóa, những nương ngô xanh mướt sườn đồi.... Những cảnh thiên nhiên thơ
mộng cũng
như sự hùng vĩ hay khắc nghiệt của nó đều được Nguyễn Tuân miêu tả rõ nét đến
tận cùng
bản chất. Có thể nói, dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, cảnh và người Tây Bắc hiện lên
sống động
chân thực hơn bao giờ hết, với nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ bậc thầy, vận dụng
linh hoạt các
thao tác miêu tả, liên tưởng, tưởng tượng, Sông Đà trở thành một tập tùy bút hay
nhất trong
sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân và cũng là đặc sắc nhất trong tùy bút Việt
Nam.
Tùy bút, bút kí viết trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội còn phải kể
đến
các tác phẩm của Thép Mới. “Nói đến Thép Mới, người ta thường nghĩ anh là một
nhà báo,
một nhà báo lớn được công chúng mến mộ, được bạn bè trong và ngoài nước đánh giá
cao”[81/126], vì thế “Trong nền báo chí cách mạng Việt Nam mấy chục năm qua có
thể xem
anh là một trong vài ba người vinh dự đứng ở hàng đầu”[81/127]. Không những thế
“Thép
Mới còn là một nhà văn, hay nói đúng hơn là một nhà báo đậm chất văn chương
trong tư duy
sáng tạo, trong cách diễn đạt và sử dụng ngôn từ”[81/127]. Sau Trách nhiệm viết
từ thời
kháng chiến chống Pháp và Cây tre (1955), Như anh em một nhà (1957) viết đầu
những năm
chống Mĩ, Thép Mới viết tiếp Hiên ngang Cu-ba (1962) và Điện Biên Phủ, một danh
từ Việt
Nam (1965) những tác phẩm này mới thực sự gây được nhiều ấn tượng với bạn đọc và
tên
tuổi của Thép Mới với tư cách là nhà văn được biết đến nhiều. Hiên ngang Cu – ba
gồm bảy
bài bút kí (Hiên ngang Cu-ba; Ngày đầu năm ở bán cầu bên kia; Gặp Phi - đen
Ca-xtơ-rô;
Cây đời rất xanh tươi của châu Mĩ; Vang bóng một thời … Mĩ; Từ La Ha-van đến
Gi-rông;
Một cuộc đời của mía.) viết về con người và phong cảnh đất nước Cu-ba xinh đẹp –
đất nước
xã hội chủ nghĩa đầu tiên ở Tây bán cầu trong một lần nhà văn theo đoàn sang
công tác nơi
đây. Trong bảy bài bút kí đó, Thép Mới đã cho bạn đọc khắp nơi thấy được sức
sống mãnh
liệt đang trào dâng trong con người và cảnh vật của đất nước Cu-ba. Những con
người anh
hùng đang tràn đầy quyết tâm trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, những
hàng cọ
pa-ma-rê-an cao vút, những cánh đồng mía bạt ngàn, xanh tốt, tít tắp tận chân
trời. Tất cả
như đang thách thức với kẻ thù ở ngay bên cạnh mình. Với chất liệu hiện thực
ngồn ngộn,
cách miêu tả tỉ mỉ Hiên ngang Cu-ba đã thật sự thu hút, đã chinh phục được biết
bao trái tim
bạn đọc lúc bấy giờ.
Khác với phong cách của Hiên ngang Cu – ba, khi viết Điện Biên Phủ - một danh từ
Việt Nam với chín bài bút kí, tùy bút xâu chuỗi lẫn nhau, năm bài nói về Điện
Biên Phủ: Đâu
có giặc là ta cứ đi; Nhân nghe nói về bọn “cọp đen” và bọn “ó đỏ”; Hakin nên ra
mà xem
bảo tàng Điện Biên Phủ; Chiếc ca rỗng chứa sóng ngầm; Điện Biên Phủ, một danh từ
Việt
Nam, hai bài lấy khung cảnh rộng lớn là cuộc sống sản xuất và đấu tranh trên
những dải đất
nóng bỏng của tiền tuyến: Chiến công tháng Tám; Mùa thu cây lúa và cây súng; một
bài ca
ngợi sự biến đổi thần kì, khả năng và tiềm lực vô hạn của Thủ đô: Hà Nội mà
chúng ta yêu;
một bài ca ngợi người thợ điện anh hùng của Sài Gòn: Tấm gương của anh Trỗi, cảm
xúc
của ông dường như lắng lại bởi ông đang viết về mảnh đất nơi ông đã từng gắn bó
cả tuổi
thanh xuân. Cả tập bút kí là sự xen lẫn của nhiều cung bậc cảm xúc của nhà văn
trước những
sự kiện, con nguời mà ông nói đến.
Với giọng văn hào sảng, chất tư liệu phong phú, với sự đối chiếu không gian,
thời
gian, thể hiện vốn hiểu biết lịch sử sâu sắc của tác giả, hai tập bút kí thật sự
đã tạo nên được
những ấn tượng sâu đậm và cũng là đánh dấu cho sự phát triển của bút kí trong
văn học cách
mạng Việt Nam.
1.2.2. Tùy bút, bút kí viết về chiến tranh chống Mĩ cứu nước
Giai đoạn chống Mĩ cứu nước là giai đoạn mà thể kí nói chung và tùy bút, bút kí
nói
riêng có sự phát triển rực rỡ. Hiện thực đất nước chiến tranh chính là mảnh đất
màu mỡ để
các nhà văn khai thác một cách trọn vẹn cho các tác phẩm của mình. Nhiều tùy
bút, bút kí ra
đời đã thành công cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức nghệ thuật, tạo nên được
dấu ấn và
trở thành tác phẩm tiêu biểu cho thể loại kí, cũng như cho văn học chống Mĩ.
Trước hết phải kể đến những sáng tác của Nguyễn Trung Thành. Ông viết kí không
nhiều (chỉ với những bài bút kí như Người dũng sĩ dưới chân núi Chư Pông; Chị
Thuận;
Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc và những tùy bút như Đường chúng ta đi
và
Trận đánh bắt đầu từ hôm nay) nhưng những tác phẩm ấy đã gây xúc động sâu sắc,
với
những hấp dẫn riêng đã khiến bạn đọc say mê từ những câu văn mở đầu cho đến kết
thúc.
Hai thiên tùy bút Đường chúng ta đi và Trận đánh bắt đầu từ hôm nay ghi lại chân
thành
những cảm xúc của người chiến sĩ trước giờ xuất kích, nhưng rộng ra là những xúc
cảm,
nghĩ suy của tác giả về dân tộc, là lòng tự hào về truyền thống cha ông, là
quyết tâm đánh
giặc để đem lại hoà bình cho đất nước. “Những ý nghĩ như toả lan tự nhiên trong
đêm khuya
nhưng vẫn lay động xoáy sâu vào mạch tình cảm yêu nước. Những ý nghĩ trong đêm
nay,
ngày mai sẽ trở thành hành động, thành sức mạnh và chiến công cụ thể”[16/164].
Đặc biệt là
tùy bút Đường chúng ta đi được viết trong những ngày chuẩn bị cho trận đánh
(trận Núi
Thành), công tác chính trị đang cần một lời kêu gọi, một lời động viên, ban ngày
bận công
tác, trong hai đêm ông viết xong bài tùy bút này – lúc đó được coi là một bài
báo động viên
chiến sĩ. Đây cũng là tác phẩm lần đầu tiên nhà văn giới thiệu với bạn đọc bút
danh Nguyễn
Trung Thành. Với tùy bút Đường chúng ta đi, “Không chỉ các chiến sĩ dự trận Núi
Thành
năm ấy mà nhiều lớp thanh niên trên hai miền đất nước đọc bài thơ tùy bút ấy hay
học nó
trong chương trình văn học ở nhà trường đã mang nguyên vẹn tâm tư và tình cảm
nồng cháy
thiết tha ấy ra mặt trận”[75/361].
Với những con người anh hùng trong chiến đấu, Nguyễn Trung Thành giành những
trang bút kí để viết về họ, đó là chị Thuận trong Chị Thuận, là Kơ Lơng trong
Người dũng sĩ
dưới chân núi Chư Pông hay anh hùng Lê Văn Nghiêu trong Trên quê hương những anh
hùng Điện Ngọc. Họ là những con người đẹp nhất nhưng cũng rất bình dị, Nguyễn
Trung
Thành đã dành cho họ tất cả những gì mến yêu nhất, trân trọng nhất, kính phục
nhất, điều
này thể hiện rất rõ qua cách ông kể chuyện, ghi chép đặc biệt là những dòng cảm
xúc đan
xen với các sự kiện một cách hài hoà, nhuần nhuyễn.
Đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của bút kí trong dòng chảy văn học cách
mạng
là những bút kí của Anh Đức. “Anh Đức thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành cùng
thời đại
cách mạng, sự nghiệp văn học nằm trọn giữa hai cuộc kháng chiến ba mươi năm
chống thực
dân Pháp và đế quốc Mĩ.”[76/15]. Tuy đuợc bạn đọc biết đến nhiều qua tiểu thuyết
Hòn đất
và những truyện ngắn đặc sắc như Giấc mơ của ông lão vườn chim; Xôn xao đồng
nước;
Trọng; Mùa gió; Khói…, nhưng “có lẽ nên coi những thành công của Anh Đức về bút
kí như
những thành công đầu tiên.”[69] Những bài bút kí hầu hết được viết vào những năm
sáu
mươi, khi mà giặc Mĩ đang thực hiện chiến lược chiến tranh cục bộ và điên cuồng
mở những
trận càn quét lớn như Bức thư Cà Mau (tháng 11 – 1963); Bức thư cuối năm (tháng
12 –
1964); Thư tháng bảy (tháng 7 – 1965); Dưới một vầng ánh sáng đục (tháng 11 –
1965);
Vào mùa nắng (tháng 12 – 1966); Những chuyện xung quanh một trận càn hình móng
ngựa
(tháng 4 – 1967) và ghi chép Chuyện của một nguời cùng quê…. Anh Đức đã tạo ra
được
một cách viết kí rất riêng, đặc biệt là những bài bút kí viết dưới dạng những
bức thư gửi cho
Nguyễn Tuân hay các đồng nghiệp ở miền Bắc. Bằng một giọng tâm tình thủ thỉ, Anh
Đức
đã phản ánh một cách rõ nét cuộc chiến đấu và cảnh sinh hoạt của nhân dân miền
Nam cũng
như những tội ác mà giặc Mĩ đã gây nên cho bà con ở đây. Qua những lời tâm sự
của ông
chúng ta cũng cảm nhận được sự gắn bó ruột thịt giữa hai miền Nam – Bắc. Dù rất
nhiều sự
kiện được đề cập đến nhưng với dòng cảm xúc lắng sâu và qua cách thể hiện rất
riêng, đọc
những bài bút kí này người đọc không hề gặp cảm giác khô khan, trái lại nó tạo
ra sức lôi
cuốn, và một phần thêm nữa cũng nhờ cái phong vị ngọt ngào của miền Nam trong
đó.
Cũng thể hiện khí thế chiến đấu và chiến thắng giặc Mĩ của nhân dân Miền Nam,
Trần
Hiếu Minh đã có những bài bút kí khá đặc sắc in thành hai tập Cửu Long cuộn sóng
và Sài
Gòn ta đó. Tập bút kí Cửu Long cuộn sóng viết về quê hương đồng khởi Bến Tre gồm
mười
bài bút kí: Ngọn lửa Mỏ Cày; Mùa xuân trên nền cũ một khu trù mật; Thăm quê Đồ
Chiểu;
Măng tầm vông; Khi giặc Mĩ đến nhà; Đơn vị Girông; Ấp Bắc thành đồng của thành
đồng;
Chuyện Thạnh Phú; Chiến thắng; Sóng Cửu Long. Nội dung tiêu biểu của tập Cửu
Long
cuộn sóng là phản ánh những nét điển hình của phong trào đồng khởi Bến Tre qua
đó vừa
biểu dương nhiều nhân vật anh hùng, từ cụ già cho đến trẻ em vừa tố cáo tội ác
của kẻ thù.
Với những tên người, tên đất cụ thể, có thật, và những con số chính xác Trần
Hiếu Minh đã
tạo được niềm tin và khơi gợi được nhiều xúc động trong lòng bạn đọc. Dù đôi lúc
cách ghi