Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm của tùy bút trong Văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975
149
942
102
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Võ Thị Hải Chi
Chuyên ngành : Lí luận Văn Học
Mã số : 60 22 32
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN HOÀI THANH
Thành Phố Hồ Chí Minh - 2010
THƯ
VIỆN
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành sâu sắc đến:
- TS. Nguyễn Hoài Thanh – người đã gợi ý cho tôi về đề tài luận văn này, đồng
thời
cũng là người hướng dẫn khoa học, đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình
làm luận văn.
- Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, Sở giáo dục và đào tạo tỉnh Bình
Dương, Sở Nội vụ tỉnh Bình Dương, Trường THPT chuyên Hùng Vương – Bình
Dương đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học và thực
hiện
luận văn.
- Thư viện trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, Thư viện Khoa học tổng hợp
Tp. Hồ Chí Minh, Thư viện Quân Đoàn 4, Thư viện trường THPT chuyên Hùng
Vương – Bình Dương đã giúp đỡ tôi về mặt tài liệu để làm luận văn.
- Gia đình, đồng nghiệp, bạn bè, các em học sinh đã động viên, khích lệ tôi hoàn
thành luận văn.
Tác giả
Võ Thị Hải Chi
DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài
Trong lịch sử văn học Việt Nam, kí có một dấu ấn khá rõ nét, tuy nhiên tùy theo
từng
giai đoạn lịch sử cụ thể mà dấu ấn đó được thể hiện ở những mức độ khác nhau. Sự
phát
triển của thể kí đã góp phần làm phong phú diện mạo văn học 1930 – 1945. Trong
chín năm
kháng chiến chống Pháp, thể kí phát triển mạnh mẽ và đến giai đoạn 1954 – 1975
kí thực sự
là một thể loại chủ lực, bám sát và phản ánh hiện thực một cách chân thực, rõ
nét. Cùng với
thơ ca và tiểu thuyết, sự phát triển của thể kí đã làm nên không khí sôi nổi,
sinh động cho đời
sống văn học lúc bấy giờ.
Trong thành tựu kí văn học giai đoạn này, tùy bút và bút kí là hai thể loại tiêu
biểu.
Đây là hai thể loại đã gặt hái được những thành công đáng kể, có những đóng góp
quan trọng
vào sự phát triển của văn học cách mạng Việt Nam 1954 – 1975, đặc biệt làm nên
tên tuổi
của nhiều nhà văn. Nghiên cứu về hai thể loại này, đã có những công trình có giá
trị như
công trình nghiên cứu về tùy bút giai đoạn 1930 – 1945 hay giai đoạn 1975 –
2000. Nhưng
tùy bút, bút kí giai đoạn 1954 – 1975 thì vẫn chưa được chú ý nhiều, chưa có một
công trình
nào nghiên cứu một cách toàn diện. Chính vì thế nghiên cứu tùy bút, bút kí giai
đoạn 1954 –
1975 thật sự là một điều cần thiết để có cái nhìn tổng thể về hai thể loại này
trong lịch sử văn
học Việt Nam.
Mặt khác, hiện nay có khá nhiều tác phẩm kí được trích giảng trong chương trình
Ngữ
Văn Trung học cơ sở và Trung học phổ thông, là một giáo viên đang trực tiếp
giảng dạy, tôi
thiết nghĩ việc tìm hiểu tùy bút, bút kí giai đoạn 1954 – 1975 là rất quan trọng
và có ý nghĩa
thực tiễn.
Vì thế tôi chọn đề tài Đặc điểm của tùy bút, bút kí trong văn học cách mạng Việt
Nam
giai đoạn 1954 – 1975 cho bản luận văn này.
2. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu tùy bút, bút kí giai đoạn 1954 - 1975 nhằm xác định những đặc điểm cơ
bản về nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm thuộc hai thể loại này, qua đó
thấy được
những đóng góp của tùy bút, bút kí đối với văn học cách mạng Việt Nam. Từ đó sẽ
có được
những tư liệu quan trọng phục vụ công tác giảng dạy.
Văn học 1954 – 1975 là giai đoạn văn học gặt hái được nhiều thành tựu ở nhiều
thể
loại như tiểu thuyết, thơ, truyện ngắn, kí…. Đặc biệt là vào thập niên sáu mươi,
thể kí với sự
nở rộ của nhiều thể loại đã tạo được sự chú ý của đông đảo bạn đọc và giới
nghiên cứu.
Riêng tùy bút, bút kí, đã có rất nhiều tác phẩm ra đời có giá trị cao cả về nội
dung lẫn nghệ
thuật định hình được phong cách của nhiều nhà văn. Tuy nhiên trong khuôn khổ của
luận
văn, người viết không thể bao quát được tất cả những tác phẩm của hai thể loại
ra đời trong
hơn hai mươi năm mà chỉ tiếp cận những tác phẩm nổi bật, có sức ảnh hưởng lớn
đối với đời
sống văn học và cũng phần nào làm nên tên tuổi của nhà văn. Đó là những tác phẩm
tiêu
biểu của những nhà văn như: Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên, Nguyễn Thi, Nguyễn Trung
Thành, Anh Đức, Bùi Hiển, Thép Mới, Trần Hiếu Minh, Khánh Vân,… và một số tác
phẩm
của các tác giả khác đã in chung ở một số sách.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3.1. Nghiên cứu chung về tùy bút, bút kí giai đoạn 1954 – 1975
Cho đến nay (thời điểm người viết hoàn thành luận văn), chưa có một công trình
hay
một bài viết nào bàn riêng về tùy bút, bút kí trong văn học giai đoạn 1954 –
1975 mà chỉ
xuất hiện những ý kiến trong những bài viết chung về thể kí.
Hà Minh Đức trong cuốn Kí viết về chiến tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, trong mục nói về Bút kí có đề cập đến bút kí của Chế Lan Viên, Thép Mới,…
và khẳng
định có nhiều đóng góp. Còn trong mục Tùy bút, nhắc đến tùy bút Nguyễn Tuân sau
cách
mạng.
Phạm Văn Sĩ trong cuốn Văn học giải phóng miền Nam có những bài viết riêng về
các
tác giả như Nguyễn Thi, Anh Đức, Trần Hiếu Minh, Nguyễn Trung Thành… trong đó
khẳng
định sự đóng góp của các tùy bút, bút kí trong sự phát triển của kí miền Nam.
Trong cuốn Văn học Việt Nam tập hai (1945 – 1975) do Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên
viết về một số tác giả tiêu biểu như Chế Lan Viên, Nguyễn Tuân, Nguyễn Thi và có
những
nhận xét, đánh giá về tùy bút, bút kí của họ trong giai đoạn này.
Ngoài ra, từ năm 1966 đến 1968, khi Tạp chí Văn học mở đợt trao đổi ý kiến về
Thể kí
và vấn đề viết về người thật, việc thật đã có rất nhiều bài viết gửi đến. Trong
các bài viết, các
tác giả đề cập nhiều đến tùy bút và bút kí giai đoạn này. Như bài viết của Phan
Nhân – Suy
nghĩ về khả năng của thể kí (Qua một số bút kí ghi chép, hồi kí của miền Nam)
quan tâm đến
bút kí Cửu Long cuộn sóng của Trần Hiếu Minh “đã đạt được yêu cầu trước mắt: ghi
nhanh
những biến cố, những mẩu chuyện những con người trong một lúc và trình bày có hệ
thống
cả quá trình chuyển biến của từng sự kiện quan trọng dưới một chủ đề nhất
định”[62]. Ông
cũng nói đến tùy bút của Nguyễn Trung Thành, “Đọc Đường chúng ta đi của Nguyễn
Trung
Thành tôi càng tin vào tiền đồ phát triển của thể tùy bút trong văn học cách
mạng miền
Nam”[62], hay bút kí của Anh Đức, Nguyễn Thi…
Trong bài viết Phân loại tùy bút đăng trên tạp chí Khoa học xã hội, số 04/2009,
tác giả
Trần Văn Minh đã phân chia các loại tùy bút, trong đó các tùy bút thuộc giai
đoạn văn học
1954 – 1975 được tác giả xếp vào tiểu loại tùy bút chiến tranh và ông nhận xét
“Nhưng hình
như cứu cánh của những trang tùy bút chiến tranh không ở chỗ phục dựng lại không
khí lịch
sử. Nó tỏ ra quan tâm nhiều hơn đến việc giãi bày tâm tư tình cảm của con người
Việt Nam
đằng sau những biến cố lịch sử ấy. Đó là tình yêu quê hương đất nước mãnh liệt,
là nỗi đau
xé lòng trước cảnh loạn li tang tóc, là lòng căm thù giặc sâu sắc, là quyết tâm
chiến đấu để
giành lại độc lập tự do”[48].
Trong năm 2007, luận văn thạc sĩ của Võ Thị Bích Hiền – Trường Đại học Khoa học
xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh với đề tài Tùy bút
Việt Nam
giai đoạn 1975 – 2000, có phác thảo một vài nét về tùy bút giai đoạn 1954 – 1975
trong quá
trình phát triển của tùy bút Việt Nam…
3.2. Nghiên cứu về từng tác giả
3.2.1. Bút kí Anh Đức
Chu Nga trong bài viết bàn về Phong cách trữ tình trong sáng tác của Anh Đức, đã
lấy bút kí của Anh Đức làm đối tượng trung tâm để nghiên cứu “Đọc các bút kí của
anh,
chúng ta luôn luôn có cảm giác như anh đang trực tiếp nói chuyện với ta. Anh kể
cho ta nghe
về vùng quê anh – Cà Mau – nơi “cuối đất” của Tổ quốc, về những gian nan vất vả
mà đồng
bào ta trong ấy đã trải qua trên hai mươi năm trời chiến đấu. Nhưng điều chính
nhất mà anh
kể trong thư có lẽ vẫn là những thắng lợi ngày càng lớn mà đồng bào miền Nam đã
giành
được kể từ sau ngày đồng khởi”[56].
Diệp Minh Tuyền đánh giá cao bút kí của Anh Đức ở nhiều khía cạnh như nghệ thuật
miêu tả, ngôn ngữ. Tác giả kết luận “Các bài bút kí của anh có cái chiều dài
rộng lớn của
không gian bao la và cái chiều dài của thời gian đằng đẵng”[89].
Trong bài viết về tác giả Anh Đức, tác giả Phạm Văn Sĩ nhận xét “bút kí của Anh
Đức
giàu tính chất hiện thực và viết khá duyên dáng”[68/253], tiếp đó tác giả phân
tích những
biểu hiện nội dung, nghệ thuật của các bài bút kí để minh chứng cho nhận định
trên.
Bàn về thiên nhiên trong tác phẩm của Anh Đức, đặc biệt trong bút kí, tác giả
Hoài
Anh nhận xét “Anh không những đã có vốn sống viết về những cái thực sự mình nếm
trải mà
còn có năng lực cảm thụ thiên nhiên, nhạy bén nắm bắt những thay đổi tinh tế
trong cảnh sắc
thiên nhiên ở vùng đất Rạch Giá, Cà Mau và nói chung là miền Tây Nam Bộ”[2], ….
3.2.2. Tùy bút, bút kí Nguyễn Trung Thành
Phạm Văn Sĩ đã có những nhận xét rất xác đáng về tùy bút cũng như bút kí của
Nguyễn Trung Thành, đặc biệt là về giá trị và sức ảnh hưởng của những tác phẩm
này, ông
cho rằng “Tùy bút của Nguyễn Trung Thành mang những suy nghĩ của tác giả về cuộc
kháng
chiến hôm nay, về lịch sử dân tộc hôm qua và nói lên thái độ sắt son khảng khái
của nhà văn
được bạn đọc chúng ta xem như một tuyên ngôn chống Mĩ, cứu nước của nhà văn miền
Nam.”[68/305]. Và “tùy bút của Nguyễn Trung Thành gợi cho người đọc nhận thức
đúng về
lịch sử của dân tộc mình và tìm cách vận dụng những bài học hay của lịch sử để
tăng thêm
sức mạnh chiến đấu hôm nay của chúng ta và để làm cho cuộc sống của chúng ta
thêm ý
nghĩa”[68/305].
Bàn về cách viết của Nguyễn Trung Thành, Phan Nhân viết: “Nguyễn Trung Thành
suy nghĩ, lí luận và kể chuyện toàn bằng hình ảnh rút ra từ cuộc sống nên vừa
trong sáng vừa
chân thật đầy sức thuyết phục. Anh chứng minh bằng những mẩu chuyện, đúng hơn là
bằng
những tính cách, những nét tiêu biểu có tính chất điển hình trong cuộc sống, nên
nội dung
càng phong phú, tư tưởng càng cao đẹp.”[62].
3.2.3. Tùy bút, bút kí Nguyễn Thi
Phan Nhân trong Suy nghĩ về khả năng của thể kí đã nhận xét về Nguyễn Thi và tùy
bút Dòng kinh quê hương của ông “Nguyễn Thi một cây bút vốn giàu chất thơ, trước
cảnh
quê hương bị tàn phá, đã truyền cho ta tất cả những rung cảm đậm đà tình thương
và lòng tự
hào bằng những hình ảnh quen thuộc của đất nước rất nên thơ”[62].
Trong bài viết của mình về Nguyễn Thi, tác giả Phạm Văn Sĩ đánh giá chung về khả
năng viết tùy bút của Nguyễn Thi, “Trong thể kí thì tùy bút được viết với bút
pháp thiên về
trữ tình, với những liên hệ về truyền thống, về lịch sử anh hùng của dân
tộc”[68/219], sau đó
ông tập trung phân tích các tùy bút, bút kí tiêu biểu như Dòng kinh quê hương,
Đại hội anh
hùng, Những câu nói ghi trong đại hội, Ước mơ của đất…
Theo Hà Minh Đức, trong bài viết chung về Kí trong thời kì chống Mĩ cứu nước,
khi
nhắc đến kí Nguyễn Thi, đặc biệt là tùy bút ông viết “Nguyễn Thi có nhiều cảm
xúc đẹp trên
những trang tùy bút Dòng kinh quê hương, nhưng dường như anh muốn tập trung và
ưu tiên
dành những trang viết để ghi chép về những người anh hùng đẹp của đất nước quê
hương”[16/158].
3.2.4. Bút kí Trần Hiếu Minh
Chủ yếu ca ngợi tập bút kí Cửu Long cuộn sóng, các tác giả Phạm Văn Sĩ, Phan
Nhân,
Hà Minh Đức, Bích Thu đều có những nhận xét xác đáng và đáng ghi nhận về việc
ghi chép
của Trần Hiếu Minh và giá trị của các tác phẩm:
“Cửu Long cuộn sóng của Trần Hiếu Minh đã ghi lại được một khí thế cách mạng
chưa từng thấy trong mỗi con người và từng thôn xóm ở mảnh đất Bến Tre”[80].
“Tập bút kí của Trần Hiếu Minh có tác dụng giáo dục tích cực, kịp thời, trước
hết là vì
những chất liệu mà tác giả khai thác là những chất liệu rất quý giá, rút ra từ
trong thực tế
máu lửa của chiến tranh và của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, rút ra từ trong
ngọn lửa đồng
khởi, ngay trên mảnh đất quê hương của đồng khởi. Tập bút kí viết kịp thời nóng
hổi không
khí cách mạng và khí thế anh hùng của người Bến Tre, đóng góp vào việc thúc đẩy
sự nghiệp
chống Mĩ của nhân dân miền Nam.”[68/289].
3.2.5. Bút kí Bùi Hiển
Trong quá trình đi lâu dài trên trên vùng tuyến lửa khu 4, Bùi Hiển viết khá
nhiều bút
kí. Phần lớn những bài viết đó đã được tập hợp trong Đường lớn và tập Trong gió
cát (Trong
gió cát in chung với một số truyện ngắn).
Nguyễn Cương trong bài Đọc Đường lớn, bút kí của Bùi Hiển viết “Ấn tượng sâu
nhất
còn để lại sau khi đọc tập bút kí này là những bài viết về tội ác đẫm máu của
giặc Mĩ. Những
bài viết đó tuy chiếm số ít nhưng gây được nhiều xúc động ở người đọc. Đó là Nợ
máu và
đặc biệt: Chúng nó là một lũ đê hèn”[8].
Tuy nhiên người viết bài này cũng có nhắc đến một vài khuyết điểm của tập bút kí
“Nếu như chỗ mạnh của anh là quan sát tỉ mỉ, công phu, sử dụng đến mức cao nhất
tiếng nói
của bản thân chất liệu cuộc sống thì chỗ yếu của anh lại chính là sự việc có lúc
bị đưa vào
quá nhiều, chưa thành những điểm tựa để khi đứng cạnh nhau làm bật lên những vấn
đề của
cuộc sống. Nhược điểm đó làm cho vài bài viết của anh trở nên bằng phẳng và tản
mạn”[8].
Tác giả Nguyễn Phan Ngọc lại ấn tượng với năm bài bút kí của Bùi Hiển, đó là Bám
biển, Về Đại Phong, Nhật kí Vĩnh Linh, Trong gió cát, Chúng ta chiến đấu và
chiến thắng,
ông viết “Năm bài bút kí đã giúp tôi hiểu thêm những con người Việt Nam mới,
dũng cảm,
đầy khí phách anh hùng, đầy tinh thần chiến đấu và chiến thắng; biết rõ thêm
cuộc sống mới,
cuộc sống mỗi ngày mỗi phát triển vô cùng nhanh chóng và diệu kì.”[60].
3.2.6. Tùy bút, bút kí Chế Lan Viên.
Các bài viết của Phan Hồng Giang, Hoàng Như Mai đều ca ngợi giá trị của tập bút
kí
Những ngày nổi giận. Đọc xong cuốn sách, Hoàng Như Mai có cảm giác “Tôi thấy
lòng
mình bình tĩnh, và tôi chắc rằng đó cũng là cảm tưởng của nhiều người” và khẳng
định “tập
bút kí của Chế Lan viên những điều anh nói, cái cách anh nói đều toát lên điều
đó – đánh
giặc Mĩ, đánh thắng”[39].
Phan Hồng Giang thì lại suy nghĩ “Đọc xong Những ngày nổi giận, ấn tượng sâu sắc
để lại trong lòng người đọc là những trang sách của Chế Lan Viên đã bám sát được
thời sự
và cuộc sống của chúng ta”[20/47].
Bên cạnh đó, trong bài viết của mình, hai tác giả này cũng đã chỉ ra những tồn
tại mà
tập bút kí này mắc phải, chủ yếu là ở mặt ngôn ngữ, cách tạo dựng hình ảnh.
“Nhưng sao rải
rác trong một số trang viết của anh, người đọc vẫn thường bắt gặp một số ý nghĩ
chung
chung, một số hình ảnh, một số từ đã bị lắp lại hơi nhiều làm cho từng đoạn văn
chìm đi, ít
khêu gợi”[39] và “Anh vận dụng những kĩ xảo về mặt ngôn ngữ hơi nhiều và nghĩ
rằng giá
được đọc anh giản dị hơn, tự nhiên hơn còn có cảm tưởng sâu sắc hơn về sức sống
anh dồn
lên ngòi bút…”[39]. Tương tự như thế, Phan Hồng Giang cho rằng một số bài trong
tập bút
kí có cái ấn tượng “khách quan lạnh lùng” và “cầu kì kiểu cách”. Tác giả bài
viết cho rằng
Chế Lan Viên “đã nhìn hiện thực có phần nào lạnh lùng”; hay “có khi Chế Lan Viên
lạm
dụng những biểu tượng ngôn ngữ, kết quả là những biện pháp tu từ đã che lấp mất
cảm xúc
thực”[20/65].
Về tập bút kí Thăm Trung Quốc, Nguyễn Xuân Nam trong bài viết Chất thơ và chất
suy nghĩ của tập bút kí Thăm Trung Quốc nhận xét “Nhìn chung đây là tập bút kí
viết khá
đều tay, mang nhiều chất thơ và chất suy nghĩ”[53]. Tác giả bài viết đã phân
tích những biểu
hiện của chất thơ và chất suy nghĩ đó ở các mặt như hình ảnh, bố cục, lời văn ….
3.2.7. Bút kí Thép Mới
Thép Mới là nhà văn chuyên viết tùy bút, bút kí, ông viết bút kí từ những năm
kháng
chiến chống Pháp, trong thời kì chống Mĩ, bút lực của Thép Mới vẫn dồi dào và để
lại được
ấn tượng đẹp.
Vũ Đức Phúc trong bài viết Bàn về các thể kí trong văn học từ cách mạng tháng
Tám
đến nay có bàn về bút kí của Thép Mới “Thép Mới xuất phát từ những chi tiết nhỏ,
đi sâu
vào bản chất của các sự kiện; anh cũng nghiên cứu toàn diện vấn đề trình bày
những khía
cạnh chủ yếu của nó, với một lối văn đanh thép hùng hồn, giàu tính chất trữ tình
khỏe
mạnh”[66] nhưng bên cạnh đó bút kí cũng có những nhược điểm cơ bản, theo tác giả
này là
“chỉ mới phác họa được qua loa những nhân vật làm anh chú ý”[66].
Riêng Lê Thị Đức Hạnh thì có một bài riêng nghiên cứu về bút kí Thép Mới, đó là
bài
Bút kí Thép Mới. Tác giả nhận xét “Sở dĩ những bút kí của Thép Mới có sức truyển
cảm khá
mạnh là do tác giả có tình cảm cách mạng phong phú, sôi nổi và những tình cảm đó
được thể
hiện trong mỗi suy nghĩ, mỗi hình tượng mà anh xây dựng”[24]. Cũng như tác giả
Vũ Đức
Phúc, Lê Thị Đức Hạnh cũng nói đến nhược điểm trong bút kí Thép Mới “Thép Mới
viết
chưa đều tay, hãy còn những đoạn văn hơi khô, thiếu những hình tượng thật cụ
thể, sinh
động và có lúc lại quá thiên về triết lí. Đó đây còn nhắc đi nhắc lại một số
hình ảnh quá quen.
Một ít bài còn ở mức tường thuật.”[24].
3.2.8. Tùy bút Nguyễn Tuân
Có thể nói đây là tác giả mà tác phẩm của ông được giới nghiên cứu quan tâm
nhiều
nhất. Tuy nhiên tùy bút Nguyễn Tuân trong giai đoạn chống Mĩ thì nổi bật ở một
số ý kiến
của các nhà nghiên cứu như Nguyễn Đăng Mạnh, Vương Trí Nhàn, Hà Văn Đức…
Nguyễn Đăng Mạnh trong bài “Con đường Nguyễn Tuân đi đến bút kí chống Mĩ” đã lí
giải, phân tích những đổi thay trong quan niệm nghệ thuật cũng như trong tác
phẩm tùy bút
trước và sau cách mạng. “Đến bút kí chống Mĩ, quả thực cuộc sống xã hội đi vào
Nguyễn
Tuân có tấp nập hơn, sôi nổi hơn và điều đáng chú ý là những con người trong đó
phần nhiều
được anh mô tả một cách khách quan hơn.”[43].
Quan tâm đến đặc điểm thể loại, Hà Văn Đức có bài viết “Tùy bút Nguyễn Tuân sau
cách mạng tháng Tám”, ông nhận thấy tùy bút giai đoạn chống Mĩ của Nguyễn Tuân
“Chất
trữ tình đậm đà được kết hợp với chất trí tuệ sắc sảo, với những liên tưởng
phong phú, táo
bạo bất ngờ đã làm nên nét độc đáo riêng biệt của Nguyễn Tuân” hay “đặc sắc
trong tùy bút
của Nguyễn Tuân còn ở cái tài kể chuyện rất vui, rất hóm và có duyên của
ông.”[18].
Gần đây, năm 2004, Nguyễn Thị Hồng Hà trong luận án tiến sĩ Ngữ Văn Trường Đại
học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, với đề
tài Đặc
trưng tùy bút Nguyễn Tuân, đã nêu lên toàn bộ đặc trưng tùy bút Nguyễn Tuân cả
về nội
dung và nghệ thuật, trong đó những tác phẩm tùy bút giai đoạn 1954 – 1975 của
Nguyễn
Tuân cũng được quan tâm rất nhiều. Đặc biệt về hai tập tùy bút nổi tiếng Sông Đà
và Hà Nội
ta đánh Mĩ giỏi, tác giả luận án đã cho rằng: “Nếu Sông Đà là một bộ tranh liên
hoàn hoành
tráng diễn tả vẻ đẹp độc đáo cùng khí thế mở mang lao động đất nước, với chất
men lãng
mạn đầy chất thơ; thì Hà nội ta đánh Mĩ giỏi là thiên anh hùng ca của tọa độ lửa
kiên cường,
do chính một nhà văn gốc Hà Nội viết. Nó thể hiện được bản lĩnh văn hóa cao đẹp
của thủ đô
nghìn năm văn hiến”[22/33]…
4. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài Đặc điểm tùy bút, bút kí trong văn học cách mạng Việt Nam giai
đoạn 1954 – 1975, chúng tôi đã sử dụng kết hợp những phương pháp nghiên cứu sau:
4.1. Phương pháp khảo sát các tác phẩm tùy bút, bút kí của các tác giả đã nêu
trong
mục 2, trên cơ sở đó chọn lọc những tác phẩm tiêu biểu để phục vụ những yêu cầu
cụ thể của
từng chương.
4.2. Phương pháp so sánh, chúng tôi sử dụng so sánh lịch đại – so sánh những tác
phẩm thời kì trước, so sánh đồng đại – so sánh những tác phẩm của các tác giả
cùng thời với
nhau từ đó rút ra những đặc trưng chung nhất của tùy bút, bút kí giai đoạn này
cũng như
nhận ra được nét khác biệt của mỗi tác giả.
4.3. Phương pháp phân tích, người viết sử dụng phương pháp này nhằm đi sâu vào
các
tác phẩm về mặt nội dung và nghệ thuật.
4.4. Phương pháp nghiên cứu lịch sử nhằm tái hiện những giai đoạn lịch sử dân
tộc và
những chặng đường phát triển của hai thể loại.
5. Đóng góp của luận văn
Với đề tài Đặc điểm của tùy bút, bút kí trong văn học cách mạng Việt Nam giai
đoạn
1954 – 1975, luận văn kì vọng sẽ có những đóng góp khoa học nhất định.
Luận văn khảo sát và xác định những đặc điểm về nội dung và đặc sắc nghệ thuật
của
tùy bút, bút kí trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975.
Trên cơ sở đó, Luận văn ghi nhận những thành công, những đóng góp cũng như những
hạn chế của tùy bút, bút kí giai đoạn 1954 – 1975 đối với văn học cách mạng Việt
Nam.
Từ việc nghiên cứu những thành tựu chung, Luận văn bước đầu tìm hiểu những nét
độc đáo riêng trong phong cách tùy bút, bút kí của một số tác giả tiêu biểu của
giai đoạn văn
học này.
6. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm 139 trang, ngoài phần Dẫn nhập 11 trang, phần Kết luận 4 trang,
phần
Tài liệu tham khảo 8 trang, Luận văn trình bày thành 3 chương
Chương 1. Diện mạo và vị trí của tùy bút, bút kí văn học trong văn học cách mạng
Việt Nam
giai đoạn 1954 – 1975.
Chương 2. Bức tranh hiện thực sinh động, phong phú.(đặc trưng về nội dung)
Chương 3. Bút pháp đa dạng, linh hoạt.(đặc trưng về nghệ thuật)