Luận văn Thạc sĩ Triết học: Xây dựng và phát triển nhân cách học sinh trung học phổ thông tỉnh Nam định qua giảng dạy môn Giáo dục công dân hiện nay
3,819
165
88
LUẬN VĂN:
Xây dựng và phát triển nhân cách học sinh trung
học phổ thông tỉnh Nam định qua giảng dạy môn
Giáo dục công dân hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mục tiêu đào tạo của nhà trường phổ thông Việt Nam hiện nay là từng bước hình
thành và phát triển toàn diện nhân cách tốt đẹp cho thế hệ trẻ. Đó là những công
dân tương
lai, những người lao động mới phát triển toàn diện trên tất cả các mặt sao cho
phù hợp với
yêu cầu, điều kiện và hoàn cảnh của đất nước cũng như phù hợp với sự phát triển
của thời
đại.
Luật giáo dục 2005 đã chỉ rõ:“ Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh
phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ
bản, phát triển
năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người
Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học
sinh tiếp
tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
[Điều
27].
Trong bối cảnh hiện nay, khi thế giới đang có những biến đổi mạnh mẽ và sâu sắc,
mọi mặt của đời sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hóa, toàn cầu hóa, đã
mang lại
cho nước ta nhiều cơ hội lớn để phát triển cũng như những thành tựu to về kinh
tế, văn
hóa, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế…Tạo tiền đề quan trọng đưa
nước ta
thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và hòa nhập vào dòng chảy của thời
đại.
Bên cạnh đó, trong sâu thẳm của đời sống xã hội, chúng ta đang phải đối mặt
trước
những vấn đề mang tính báo động, đó là sự tha hóa về nhân cách, đạo đức, lối
sống của
một bộ phận không nhỏ dân cư, đặc biệt là học sinh THPT; những tệ nạn xã hội
đang ngày
đêm hoành hoành, len lỏi phá hoại nếp sống văn minh, đạo lý truyền thống tốt đẹp
ngàn
đời của dân tộc. Đây là những vấn đề nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sự sống còn của
quốc
gia, dân tộc trong quá trình hội nhập.
Nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, chính trị, kinh tế, đạo đức và pháp luật… góp phần
xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT được thực hiện ở tất cả các
môn học,
thông qua các hình thức giáo dục trong nhà trường. Trong đó, môn GDCD là môn học
cơ
bản, trực tiếp giáo dục cho học sinh những tri thức nêu trên theo một hệ thống
xác định và
toàn diện.
Thực tế hiện nay môn GDCD chưa được quan tâm đúng mức, nhiều giáo viên giảng
dạy bộ môn còn đang đứng bên lề của nền giáo dục, đa số học sinh không thích học
môn
GDCD vì môn này không phải thi, cho rằng những kiến thức cơ bản về đạo đức,
triết học,
pháp luật, kinh tế, chính trị có thể học ngoài xã hội…Nhiều học sinh ngồi trên
ghế nhà
trường chỉ trăn trở suy nghĩ về tương lai nghề nghiệp của mình, mà rất ít khi
dành thời gian
nhìn nhận xem mình là ai. Không ít học sinh THPT giỏi về tư duy nắm bắt tri thức
các
môn khoa học cơ bản nhưng yếu kém về phẩm chất đạo đức, nhân cách.
Trong những năm qua, học sinh Nam Định luôn phát huy truyền thống hiếu học,
ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nam định đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, luôn
là lá cờ
đầu trong phong trào giáo dục của cả nước. Tuy nhiên, giáo dục cấp THPT vẫn còn
tồn tại
nhiều yếu kém, bất cập. Bộc lộ rõ nhất là chất lượng giáo dục toàn diện, chất
lượng giáo
dục nhân cách cho học sinh THPT qua môn GDCD còn thấp.
Thực trạng đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống của một bộ phận không nhỏ học
sinh có những biểu hiện đáng lo ngại: nhận thức lệch chuẩn, mờ nhạt lý tưởng,
lối sống
thực dụng, đua đòi, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp. Nhiều học sinh đã sa
ngã vào
những tệ nạn xã hội, tiếp cận với những thông tin không lành mạnh, hư hỏng, bị
xói mòn
và băng hoại về tâm hồn và thể xác. Tình trạng vi phạm pháp luật, xuống cấp về
đạo đức,
nhân cách của lứa tuổi học trò đã và đang ngày càng tiếp diễn, là tiếng chuông
báo động
đối với sự tồn tại và phát triển của tỉnh nhà.
Vì vậy, việc xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT là một trong
những vấn đề được đặt ra hết sức cấp thiết. Đây cũng là nhiệm vụ và mục tiêu cơ
bản của
GD&ĐT tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện nay.
Với mong muốn góp một phần của mình vào việc nâng cao vị trí, vai trò, hiệu quả
giáo dục nhân cách cho học sinh THPT ở Nam Định hiện nay, thông qua chất lượng
giảng
dạy và học tập bộ môn GDCD, tác giả chọn đề tài: “Xây dựng và phát triển nhân
cách học
sinh trung học phổ thông tỉnh Nam định qua giảng dạy môn Giáo dục công dân hiện
nay”, làm đề tài luận văn thạc sỹ triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa
học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thông qua giảng dạy môn GDCD để hình thành và phát triển nhân cách cho học
sinh THPT là một nội dung rất quan trọng trong chiến lược giáo dục - đào tạo con
người
của Đảng. Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục
nhân cách
dưới những góc độ khác nhau, có giá trị rất lớn về mặt lý luận và thực tiễn. Cụ
thể là:
Sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), đề tài mang mã số NN7: “ Cải tiến công tác
giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức và lối sống cho học sinh, sinh viên trong
hệ thống giáo
dục quốc dân ” do Phạm Tất Dong làm chủ nhiệm. Đề tài nghiên cứu về nhân cách
nói chung,
về giáo dục đạo đức, chính trị và tư tưởng trong các trường từ tiểu học đến đại
học những năm
đầu của thập kỷ 90.
Các đề tài do Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm mang mã số: KX - 07.01. “Phương
pháp luận nghiên cứu con người” (1991 -1995); KHXH- 04. “Phát triển toàn diện
con
người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (1996 - 2000); KH –
05.07.
“Xây dựng con người Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện
kinh tế
thị trường” (2001 - 2005). Tác giả đã nghiên cứu về con người với tư cách là mục
tiêu và
động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội; nghiên cứu đạo đức trong cấu trúc
nhân cách,
thực hiện giáo dục đạo đức trong quá trình phát triển nhân cách, xem đó như mục
tiêu
quan trọng nhất của việc thực hiện chất lượng giáo dục.
Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Trọng Phúc ( 2003), “ Mấy vấn đề đạo đức trong
điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội. Cuốn
sách đã phân tích những biến động trong lĩnh vực đạo đức, lý giải vai trò của
đạo đức,
khẳng định yêu cầu đẩy mạnh công tác giáo dục, xây dựng nền đạo đức mới ở nước
ta hiện
nay…
Huỳnh Khái Vinh ( 2001), “Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã
hội”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đề cập những vấn đề cơ bản của
lối sống,
đạo đức với phát triển văn hóa và con người, quan điểm và giải pháp xây dựng lối
sống,
đạo đức, chuẩn giá trị xã hội…
“Chiến lược phát triển giáo dục trong thế kỷ 21, kinh nghiệm của các quốc gia”,
(2002), của viện Nghiên cứu phát triển giáo dục, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội…Đây là
tập hợp những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học có liên quan đến lĩnh vực
chiến
lược phát triển giáo dục nước ta giai đoạn hiện nay.Trong đó đáng chú ý có nhà
nghiên
cứu Hà Thế Ngữ đã đi sâu nghiên cứu vấn đề tổ chức quá trình giáo dục đạo đức
thông qua
giảng dạy các môn khoa học, đặc biệt là các môn khoa học xã hội và nhân văn.
Ngoài ra
tác giả còn đề cập đến việc rèn luyện phương pháp tư duy khoa học, trên cơ sở đó
giáo dục
thế giới quan, nhân sinh quan, bồi dưỡng ý thức đạo đức, hướng dẫn thực hiện các
hành vi
đạo đức cho học sinh. Phạm Hoàng Gia nghiên cứu mối quan hệ giữa giáo dục nhận
thức
khoa học với giáo dục đạo đức, những biểu hiện nhân cách trong lối sống và đưa
ra dự báo
mô hình nhân cách thanh niên năm 2000.
Đào Thị Oanh (2007), “Vấn đề nhân cách trong tâm lí học ngày nay”, Nxb Giáo
dục, Hà Nội. Cuốn sách tổng hợp và khái quát lí luận tâm lí học về nhân cách, đề
xuất các
giải pháp về hình thành, phát triển nhân cách trong công tác giáo dục thế hệ
trẻ…
Ngoài ra còn có một số luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ khác nghiên cứu đến vấn
đề
đạo đức, nhân cách học sinh, sinh viên như:
Luận án tiến sỹ triết học của Trần Sỹ Phán (1999), nghiên cứu về: “Giáo dục đạo
đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam giai đoạn
hiện nay”.
Luận án tiến sỹ triết học chuyên ngành CNXHKH của Đỗ Tuyết Bảo (2001) với
vấn đề: “Giáo dục đạo đức cho học sinh trường trung học cơ sở tại thành phố Hồ
Chí Minh
ở nước ta hiện nay”.
Luận án tiến sỹ triết học chuyên ngành CNXHKH của Nguyễn Sỹ Quyết Tâm
(2008) nghiên cứu về: “Giáo dục tinh thần yêu nước Xã hội chủ nghĩa cho học sinh
THPT
ở miền Đông Nam Bộ hiện nay”. Luận án thạc sỹ triết học chuyên ngành CNXHKH của
Nguyễn Sỹ Quyết Tâm (2003) nghiên cứu về: “Giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa qua
môn giáo dục công dân cho học sinh trung học phổ thông ở Bà Rịa – Vũng Tàu hiện
nay”…
Tôi đã kế thừa trực tiếp những thành quả nghiên cứu khoa học nêu trên, dựa vào
những gợi mở của các tác giả đi trước về lý luận và phương pháp để triển khai
công trình
của mình.
Tuy đã có nhiều công trình của các nhà khoa học nghiên cứu về con người, giáo
dục
đạo đức, phát triển nhân cách. Nhưng đến nay vẫn chưa có công trình nào đi sâu
nghiên
cứu trực tiếp về: “Xây dựng và phát triển nhân cách học sinh trung học phổ thông
tỉnh Nam
định qua giảng dạy môn Giáo dục công dân hiện nay”. Vì vậy, đề tài của tôi không
trùng
lặp với các công trình đã được công bố. Những tài liệu nêu trên giúp ích cho tôi
trong việc
tham khảo để nghiên cứu đề tài, viết luận văn thạc sỹ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ tầm quan trọng của vấn đề nhân cách, vai trò của môn GDCD và
thực trạng xây dựng và phát triển nhân cách học sinh THPT ở tỉnh Nam Định qua
giảng
dạy môn GDCD, từ đó đề xuất những định hướng, giải pháp xây dựng và phát triển
nhân
cách tốt đẹp cho học sinh THPT tỉnh Nam Định, đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước trong
thời kỳ CNH, HĐH.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích vấn đề nhân cách và vai trò của môn GDCD trong xây dựng và phát
triển nhân cách cho học sinh THPT.
- Phân tích tình hình xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT tỉnh
Nam
Định qua giảng dạy môn học GDCD, nêu những nguyên nhân ảnh hưởng, bài học kinh
nghiệm và những vấn đề đang đặt ra.
- Đề xuất những định hướng và giải pháp xây dựng, phát triển nhân cách cho học
sinh THPT ở Nam Định qua môn GDCD.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề xây dựng và phát triển nhân cách cho học
sinh THPT tỉnh Nam Định qua môn GDCD.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Địa bàn nghiên cứu là một số trường THPT điển hình ở tỉnh Nam Định.
Thời gian nghiên cứu từ năm 1997 – khi Nam Định được tái lập tỉnh và bắt đầu
triển khai thực hiện Nghị quyết BCH TW khoá VIII về GD & ĐT.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn
- Cơ sở lý luận của luận văn là những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là những quan điểm của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới
liên
quan đến giáo dục nhân cách, định hướng giá trị cho thế hệ trẻ.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực trạng sự băng hoại về đạo đức, lối sống,
xói mòn về nhân cách, phai nhạt về những chuẩn mực đạo đức và thực tiễn công tác
giảng dạy môn GDCD cho học sinh THPT ở tỉnh Nam Định những năm vừa qua.
5.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cở sở vận dụng phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp cụ thể: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương
pháp logic và lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê xã hội
học…
6. Những đóng góp mới của luận văn
Làm rõ hơn tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh
THPT từ hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu dưới góc độ chính trị - xã hội.
Đánh giá tình hình xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT tỉnh Nam
Định qua giảng dạy môn GDCD hiện nay.
Từ đó đã đề xuất những định hướng và giải pháp nhằm xây dựng và phát triển nhân
cách cho học sinh THPT ở tỉnh Nam định qua môn GDCD.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Góp phần vào việc nhận thức đầy đủ hơn vai trò của môn GDCD đối với quá trình
xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT.
Kết quả nghiên cứu của tác giả có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và giảng dạy môn GDCD trong trường THPT, công tác chỉ đạo của các cán
bộ
quản lý giáo dục ở nước ta nói chung và ở tỉnh Nam định nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương, 6 tiết.
Chương 1
NHÂN CÁCH VÀ VAI TRÒ CỦA MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN ĐỐI VỚI VIỆC
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG
1.1. NHÂN CÁCH VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆC XÂY DỰNG
VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Vấn đề nhân cách và xây dựng, phát triển nhân cách cho học sinh THPT là vấn đề
trung tâm của hệ thống khoa học giáo dục về con người, nó vừa có ý nghĩa lý luận
vừa có
ý nghĩa thực tiễn lớn lao đối với sự tồn tại và hưng thịnh của mỗi quốc gia, dân
tộc trong
quá trình hoà mình vào dòng chảy của thời đại hôm nay và mai sau.
Xuyên suốt chiều dài của lịch sử tư tưởng nhân loại đã có rất nhiều khoa học
tiếp
cận nghiên cứu về nhân cách và những vấn đề có liên quan đến nó ở nhiều góc độ
khác
nhau như: triết học, giáo dục học, xã hội học, đạo đức học, tâm lý học….Tuy
nhiên, triết
học là một bộ môn khoa học giải đáp rõ nét, cơ bản nhất bản chất xã hội của con
người và
những vấn đề chung về nhân cách con người. Đây là cơ sở lý luận vô cùng quan
trọng,
cung cấp cho các nhà giáo dục những hiểu biết khoa học trong quá trình nghiên
cứu, xây
dựng phát triển nhân cách cho học sinh THPT.
1.1.1. Khái niệm con người, cá nhân, nhân cách
1.1.1.1. Con người và bản chất con người
Ngay từ khởi đầu Triết học đã chú ý và coi con người là đối tượng nghiên cứu.
Vào
đầu thế kỷ thứ V - thứ VI sau CN, nhà triết học Bôêtut (480-525, La Mã) đã đưa
ra một
định nghĩa khá hoàn chỉnh về con người. Theo ông: Con người là một bản thể cá
thể của
bản chất lý trí, như là một cá thể; nó là vật chất, từ đó tạo nên nguyên tắc cá
thể hoá. Tâm
hồn không phải là con người, mà chỉ là một cái gì đó được tạo lập nên. Chỉ một
mình
người là một trong tồn tại người vật chất; người là tồn tại vật chất cao nhất,
tạo nên các
phẩm chất đặc biệt là nhân phẩm và các quyền.
Quan điểm duy tâm, siêu hình đã quy đặc trưng, bản chất con người vào lĩnh vực ý
thức, tư tưởng, tình cảm, đạo đức. Xem bản chất con người là cái gì đó dược quy
định sẵn
từ tự nhiên, là những nhu cầu thuộc về sự duy trì thể xác và dục vọng để phát
triển giống
nòi. Do đó, giải thích bản chất con người từ góc độ những điểm chung của mọi
sinh vật
trên trái đất. Hoặc lại tìm kiếm bản chất con người trong khuôn khổ cá nhân
riêng lẻ, nghĩa
là con người bị tách khỏi mối quan hệ xã hội hiện thực của nó.
Tính chất siêu hình của các quan điểm trên về bản chất con người biểu hiện ở
chỗ:
coi bản chất con người là cái vốn có, trừu tượng và quy nó về bản tính tự nhiên,
tách khỏi
xã hội và trở nên bất biến.
Với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng C.Mác và Ph.Ăngghen
đã tạo nên một bước ngoặt quan trọng trong việc nhận thức con người và bản chất
con
người.
Các ông xem xét, phân tích con người xuất phát từ con người hiện thực, con người
thực tiễn và chỉ rõ: thông qua hoạt động thực tiễn con người làm biến đổi đời
sống xã hội,
đồng thời cũng biến đổi chính bản thân mình. Điều đó nghĩa là con người tiếp
nhận bản
chất xã hội của mình thông qua hoạt động thực tiễn.
Con người vừa là một thực thể tự nhiên vừa là một thực thể xã hội Đứng về mặt
sinh học thì “Con người là một bộ phận của giới tự nhiên” (…, tr135), phát sinh
trực tiếp
từ động vật. Theo Ph.Ăngghen: “Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động
vật mà ra,
cũng đã quyết định việc con người không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những
đặc tính
vốn có của con vật. Thành thử bao giờ cũng chỉ nói đến việc những đặc tính ấy có
ảnh
hưởng nhiều đến sự chênh lệch về mức độ thú tính và tính người mà thôi”. ( …,
tr146)
Như hết thảy mọi sinh vật khác, con người sống dựa vào tự nhiên nhưng khác ở chỗ
con người không chỉ dựa vào, mà còn cải tạo giới tự nhiên, tạo ra tự nhiên thứ
hai xung
quanh mình. Ph.Ăngghen chỉ ra bước chuyển từ vượn thành người là nhờ có lao
động. Quá
trình con người lao động cải tạo giới tự nhiên cũng là quá trình con người tạo
ra con người.
Theo Ph.Ăngghen: “Lao động sáng tạo ra con người là theo nghĩa đấy”.
Thừa nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội đối với việc hình thành bản chất con
người. Song Chủ nghĩa Mác không coi nhẹ mặt tự nhiên, phủ nhận yếu tố sinh vật
trong
các yếu tố cấu thành bản chất con người. Theo Mác: “giới tự nhiên là thân thể
của con
người”. Con người gắn liền với giới tự nhiên vì con người là một bộ phận của
giới tự
nhiên. Mỗi người sinh ra trước hết là một thực thể tự nhiên, một sản phẩm của
thiên nhiên,
một bộ phận của vũ trụ và chịu sự chi phối của các quy luật tự nhiên phức tạp.
C.Mác vạch ra sự khác nhau giữa con người và con vật: Con vật hoạt động theo bản
năng còn con người hoạt động theo ý thức. Chính mặt xã hội của con người đã làm
cho
mặt sinh vật trong con người phát triển ở trình độ cao hơn những động vật khác.
Con người sống, hoạt động không phải chỉ theo những bản năng di truyền, có sẵn
như các động vật thông thường mà chủ yếu theo sự phát triển của văn hoá, của
tiến bộ lịch
sử - xã hội. Khi xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng có sự thay đổi tương
ứng. Sự phát
triển của mỗi cá nhân là tiền đề cho sự phát triển của xã hội vì mỗi người đều
sống trong
xã hội nhất định, là sản phẩm của lịch sử - xã hội, sản phẩm của nền văn minh.
Từ một con người tự nhiên phát triển thành một nhân cách, con người phải chịu
hàng loạt những tác động, chi phối của những yếu tố chủ quan và khách quan, theo
cả quy
luật tự nhiên và quy luật xã hội.
Sự phát triển của con người là sự trưởng thành cả về thể chất và tinh thần. Sự
phát
triển về thể chất là sự trưởng thành sinh học, cơ bắp, thần kinh và các cơ quan
nội
tạng…theo quy luật tự nhiên. Sự phát triển về tinh thần là sự trưởng thành về
tâm lý, ý
thức theo quy luật tâm lý và quy luật xã hội trên cơ sở lĩnh hội nền văn minh
nhân loại.
Sự phát triển thể chất gắn liền với sự phát triển về tinh thần, theo quy luật
phát triển
tâm, sinh lý lứa tuổi, đó là sự biến đổi về số lượng, chất lượng và sự chuyển
hoá chúng cho
nhau; là bước phát triển nhảy vọt của từng cá nhân về năng lực và phẩm hạnh phù
hợp với
lịch sử xã hội và thời đại. Sự phát triển đó tạo nên nhân cách của con người,
trong đó có
nhân cách của học sinh THPT.
Trong khi phê phán những quan điểm của Phơbách, xuất phát từ những cá thể cô
lập để nhận thức bản chất con người. C.Mác đã đưa ra luận điểm nổi tiếng về bản
chất con
người: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân
riêng