Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Thái độ của sinh viên Đại học Thể dục Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh đối với giá trị sống
341
152
113
9
Nội dung: Tìm hiểu mức độ nhận thức – thái độ - hành vi của sinh viên về đối
với một số giá trị sống.
Cách thức tiến hành
Thiết kế bảng hỏi: Trưng cầu ý kiến bằng câu hỏi mở, kết hợp với việc tổng hợp
cơ sở lý thuyết để thiết kế bảng hỏi sử dụng trong đề tài.
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn:
Mục đích: thu thập, bổ sung và làm rõ hơn những th ông tin điều tra thái độ của
sinh viên đối với giá trị sống đã thu được khi khảo sát rộng.
Nội dung: đánh giá mức độ quan trọng và sự ảnh hưởng của các giá trị sống đến
thái độ của sinh viên; các biện pháp xây dựng thái độ tích cực với các giá trị
sống.
Cách thức tiến hành: phỏng vấn trực tiếp sinh viên trường đại học Thể dục thể
thao TP.HCM
7.3. Phương pháp thống kê toán học:
Mục đích: xử lý và mã hóa các thông số cần dùng trong đề tài ngh iên cứu.
Nội dung: các phép thống kê cơ bản được sử dụng trong nghiên cứu qua phần
mềm SPSS để xử lý số liệu:
- T ính tr ung bì n h
- Tính tấn số và tỷ lệ lựa chọn
- Xếp thứ hạng
- Kiểm nghiệm f (so sánh biến giới tính, khoa, học lực)
8. Cấu trúc luận văn
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu nước ngoài
1.1.2. Nghiên cứu trong nước
1.2. Một số khái niệm cơ bản về thái độ đối với giá trị sống của sinh viên
1.2.1. Khái niệm thái độ
10
1.2.2. Giá trị và giá trị sống
1.2.3. Thái độ của s inh viên đối với giá trị sống
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến thái độ đối với các giá trị sống
1.3 Đặc điểm tâm lý cúa sinh viên Đại học Thể dục thể thao
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC TDTT TP.
HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI GIÁ TRỊ SỐNG
2.1. Thể thức nghiên cứu
2.1.1. Khách thể nghiên cứu
2.1.2. Mô tả công cụ nghiê n c ứu
2.2. Thực trạng thái độ của sinh viên Đại học TDTT TP Hồ Chí Minh đối với giá
trị sống
2.2.1. Thái độ của sinh viên TDTT đối với giá trị sống
2.2.2. Thái độ của s inh viên đối với 4 giá trị sống
2.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thái độ của sinh viên đối với giá trị sống
2.3. Một số biện pháp xây dựng thái độ tích cực đối với giá trị sống cho sinh
viên
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
11
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI GIÁ TRỊ
SỐNG CỦA SINH VIÊN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề giá trị và giáo dục giá trị là mối quan tâm đặc biệt của các nhà giáo dục
trong định hướng phát triển nhân cách con người. Trên thế giới cũng như ở Việt
Nam
đã và đang có nhiều công trình nghiên cứu sâu sắc về vấn đề này
1.1.1. Trên thế giới
Trong những năm cuối của thế kỷ 20, vấn đề giá trị và định hướng giá trị ngày
càng được nhiều nước trên thế giới quan tâm như Ba Lan, Liên Xô, Bungary, Nhật
Bản, Hungary, v.v…Các công trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều vấn đề của giá
trị
như nội dung (gồm giá trị đạo đức, giá trị kinh tế, giá trị thẩm mĩ )
(Tsunesaburo
Makiguchi (1994), giáo dục vì cuộc sống sáng tạo).
Trung tâm nghiên cứu khoa học về thanh niên của Bungari trong chương trình
nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên đã đề cập nhiều đến vấn đề
định hướng giá trị cho thanh niên, đặc biệt là sự khác biệt trong thang giá trị
của
thanh niên so với thế hệ ông cha.
Hai cuộc điều tra: Thanh niên từ 18 – 24 tuổi của phòng nghiên cứu Thanh niên
– Viện nghiên cứu Thế giới của Nhật Bản lấy mẫu trên 11 nước và thanh niên từ 18
–
24 tuổi ở 10 nước châu Âu đều đề cập chủ yếu đến vấn đề giá trị và định hướng
giá
trị của thanh niên nhằm chuẩn bị cho họ sẵn sàng bước vào cuộc sống.
Để thực hiện những chương trình hoạt động của mình năm 1986 – 1987
UNESCO đã đề nghị: The cub of rome tiến hành cuộc điều tra quốc tế về giá trị
giá
trị đạo đức của con người chuẩn bị bước vào thế kỷ XXI trong tình hình có những
biến đổi thường xuyên và nhanh chóng về bạo lực đang ảnh hưởng đến xã hội vào
những năm cuối của thế kỷ này. Mục đích của cuộc nghiên cứu là hướng dẫn người
làm công tác giáo dục các vấn đề giá trị đạo đức, đề nghị họ mở rộng điều tra
hơn
nữa và sử dụng những điều đó vào hệ thống giáo dục của các nước, ở tất cả những
nơi và lớp trẻ cần được giáo dục về giá trị đạo đức.
12
Trong khuôn khổ chương trình Giáo dục những giá trị sống của UNESCO, bộ
sách của tác giả Diane Tillman “Những giá trị sống dành cho trẻ từ 3 đến 7
tuổi”,
“Những giá trị sống dành cho trẻ từ 8 đến 14 tuổi”, và “Những giá trị sống cho
tuổi
trẻ” đã trình bày 12 giá trị: hòa bình, hợp tác, tôn trọng, trung thực, tự do,
trách
nhiệm, khoan dung, giản di, yêu thương, đoàn kết, hạnh phúc, khiêm tốn.
Thời gian gần đây, các nước Châu Á và Đông Nam Á đã có nhiều cuộc hội thảo,
tập huấn về vấn đề nghiên cứu giá trị và giáo dục giá trị, nhiều tài liệu về
giáo dục giá
trị của các nước đã được công bố. Đáng chú ý là “Chương trình giáo dục cho người
Philipin và tập tài liệu “Giá trị trong hành động” của Trung tâm canh tân và
Công
nghệ giáo dục thuộc tổ chức Bộ trưởng Giáo dục Đông Nam Á – xuất bản năm 1992.
Tài liệu này đã trình bày quan điểm, mục tiêu, chương trình và cách đưa giáo dục
giá
trị vào nhà trường cộng đồng của các nước Indonesia, Philipin, Singapo,
Malaysia,
Thái lan.
1.1.2. Ở Việt Nam
Cũng như các nhà khoa học trên thế giới, tại Việt nam, khi nghiên cứu về vấn đề
giá trị, các tác giả cũng quan tâm nghiên cứu về giá tr ị và định hướng giá trị.
Các đề tài cấp nhà nước trong chương trình nghiên cứu về con người (KX-07)
đều có đề cập đến hệ giá trị, định hướng giá trị của con người Việt Nam trong
điều
kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, đổi mới, mở cửa.
“Tổng quan về giá trị và giáo dục giá trị”, đề tài Đề tài KX – 07 – 04. H.(
1993)
do Lê Đức Phúc và Mạc Văn Trang thực hiện.[23]
“Giá trị - Định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị”. Đề tài KX – 07 –
04.
H. 1995 của Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang.[32]
Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc và Đinh Thị Kim Thoa đã phân tích các giá trị
truyền thống của con người Việt Nam và 12 giá trị sống phổ quát của UNESCO. Từ
đó đề xuất một số biện pháp giáo dục giá trị sống cho học sinh phổ thông. [16]
Tác giả Nguyễn Công Khanh và Nguyễn Thị Kim Liên đã nghiên cứu và đề xuất
các giá trị sống cần được giáo dục ở lứa tuổi học sinh và phương pháp giáo dục
giá trị
13
sống. Từ đó hai tác giả đề xuất xây dựng mô hình câu lạc bộ giáo dục giá trị
sống và
phát triển kỹ năng sống cho học sinh trung học cơ sơ[13]
Tác giả Lục Thị Nga có đề tài phân tích công tác quản lý của hiệu trưởng trường
trung học cơ sở trong công tác giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống[17]
Đề tài “Nghiên cứu giáo dục giá trị sống cho học sinh tiểu học Hà Nội trong
giai đoạn hiện nay” do Hội Tâm lý Giáo dục Hà Nội thực hiện, TS Nguyễn Tùng
Lâm làm chủ nhiệm đề tài. Mục tiêu của đề tài là: Xác định những giá trị cốt lõi
của
người Việt Nam hiện nay để xây dựng chương trình giáo dục giá trị sống cho học
sinh tiểu học ở Hà Nội. Từ đó đưa ra các giải pháp xây dựng chương trình và thực
hiện giáo dục giá trị sống. Hiện nay, đề tài vẫn đang trong giai đoạn hoàn thành
và tổ
chức một số hội thảo nhằm đánh giá những nguyên nhân cần phải tăng cường giáo
dục giá trị sống cho học sinh tiểu học ở Hà Nội. Đồng thời, đề xuất về các giá
trị sống
cần giáo dục cho học sinh tiểu học, cũng như phương pháp và cách thức tiếp cận.
[41]
Nghiên cứu về thái độ đã được tiếp cận đến các lĩnh vực như thái độ đối với học
tập, nghề nghiệp, trẻ tự kỷ, các vấn đề xã hội… thể hiện cụ thể thông qua một số
đề
tài: Tìm hiểu thực trạng thái độ nghề nghiệp của giáo viên tâm lý giáo dục ở một
số
trường cao đẳng sư phạm (Thái Bình, Vĩnh Phú, Hải Hưng) thông qua các hoạt động
sư phạm của tác giả Bùi Ngọc Sơn, Đại học sư phạm Hà Nội I năm 1985; Nhận thức
thái độ của học sinh THPT thị xã Hà Giang về đạo hi ếu trong gia đình ngày nay/
Phạm Thị GấmĐHSPHN, 2001…
Năm 2012, tác giả Trần Kim An đưa giá trị sống theo UNESCO vào trong
nghiên cứu luận văn thạc sĩ của mình với tên đề tài “Nhận thức về một số giá trị
sống
của SV trường đại học Kinh tế - Tài chính TP. HCM”. Như vậy chưa có công trình
nghiên cứu nào quan tâm đến việc xem xét thái độ đối với các giá trị sống của
sinh
viên. Vì vậy, vấn đề thái độ đối với các giá trị sống được chúng tôi tiến hành
nghiên
cứu trên khách thể là sinh viên trường Đại học Thể dục thể thao TP. HCM
1.2. Những vấn đề lý luận về thái độ đối với giá trị sống của sinh viên
1.2.1. Lý luận về thái độ
1.2.1.1. Khái niệm thái độ
14
Theo từ điển tiếng Việt, viện ngôn ngữ học, 2004, thái độ được định nghĩa:
1. Là tổng thể nói chung của những biểu hiện ra bên ngoài ( bằng nét mặt, cử
chỉ, lời nói, hành động) của ý nghĩ, tình cảm với ai hoặc đối với sự việc nào
đó.
2. Là cách nghĩ, cách nhìn, cách hành động theo một hướng nào đó trước một
vấn đề, một tình hình.
Theo từ điển tâm lý, Nguyễn Khắc Viện chủ biên năm 2001, thái độ, tiếng Pháp
attitude, được giải thích như sau: trước một đối tượng hoặc một ý tưởng, con
người
bộc lộ những phản ứng tức thì, chẳng h ạn như tiếp nhận rõ ràng hay khó khăn,
đồng
tình hay chống đối, như đã có sẵn những cơ cấu tâm lý tạo ra định hướng cho việc
ứng phó. Từ những thái độ có sẵn, tri giác về đối tượng cũng như tri thức bị chi
phối.[
35]
Nhà tâm lý học xã hội Hoa Kỳ G.V.Onparte cho rằng “thái độ” là trạng thái thần
kinh và tâm lý của sự sẵn sàng được tạo ra trên cơ sở kinh nghiệm, nó ảnh hưởng
và
điều khiển năng động đến những khách thể và tình huống gắn liền với cá nhân
đó.[32,tr 70]
Theo Uzonataze “thái độ” là một trạng thái toàn vẹn của chủ thể. Đó là sự phản
ánh cơ bản đầu tiên đối với các tác động của tình huống trong chủ thể phải đặt
ra và
giải quyết tình huống.(giống trên Nguyễn Quang Uẩn)
Bên cạnh đó còn có nhiều định nghĩa khác nhau về thái độ. Chẳng hạn, định
nghĩa của Allport về thái độ, “thái độ là trạng thái sẵn sang về mặt tinh thần
và thần
kinh được tổ chức thông qu a kinh nghiệm, sử dụng sự điều chỉnh hoặc ảnh hưởng
năng động trong phản ứng của cá nhân với tất cả các khách thể và tình huống mà
phản ứng cá nhân ấy có mối quan hệ” [11, tr 319].
Newcome cho rằng tháu độ của một cá nhân đối với một khách thể nào đó là
“thiên hướng hành động, nhận thức, tư duy, cảm nhận của cá nhân ấy với khách thể
liên quan”. Đó là sự sẵn sàng phản ứng [11, tr319].
Trước đó nữa, các nhà nghiên cứu Thomas và Znaniecki đã chú ý tới sự thích
ứng của một nhóm khách thể nghiên cứu đối với sự thay đổi của môi trường xã hội,
thay đổi các giá trị được lựa chọn bởi nhóm khách thể ấy, mà đặc điểm chủ yaaes
của
15
thay đổi này là vấn đề thái độ. Theo Thomas và Znaniecki, thái độ là trạng thái
của cá
nhân đối với một giá trị [14, tr35].
Theo Lenin: “Thái độ là một bộ phận, lĩnh vực tình cảm phản ánh quan hệ của
cá nhân đối với hiện thực, nó được qu yết định bởi thế giới quan của cá nhân cho
nên
nó cũng phản ánh tồn tại xã hội chịu ảnh hưởng của ý thức giai cấp, của tâm lý
xã
hội, của dư luận và tập đoàn xã hội. Nó thường không ph ải là những đáp ứng được
biểu lộ một cách minh thị hay trực tiếp mà là những ý nghĩ đang chuyển hóa thành
hành động.” [24, tr 20]
Kế thừa các nhà tâm lý học Liên Xô (cũ), các tác giả Bùi Ngọc Oánh, Triệu
Xuân Quýnh, Nguyễn Hữu Nghĩa đã định nghĩa thái độ “là một thành tố quan trọng
tạo nên ý thức. Thái độ l à nh ững rung cảm, những cảm nghĩ có khả năng định
hướng
hành động, hành vi tương ứng với đối tượng được nhận thức. Thái độ của cá nhân
phản ánh các mối quan hệ xã hội mà người đó gia nhập vào”. Các tác động để thực
hiện những hoạt động nhằm cải tạo thực hiện thực khách quan, phục vụ nhu cầu
sống
còn của mình,con người không phải chỉ cần phản ánh thuộc tính khách quan của cá
c
đối tượng bằng các hoạt động nhận thức, mà còn cần phản ánh mối quan hệ của các
đối tượng ấy với nhu cầu của mình. Mối quan hệ này quy định thái độ của con
người
đối với đối tượng của quá trình phản ánh.Tùy thuộc vào đối tượng có ý nghĩa như
thế
nào đối với nhu cầu của ta (thỏa mãn hay không thỏa mãn)mà ta có thái độ tương
ứng
(tích cực hay tiêu cực) với đối tượng ấy” [22].
Một số tác giả nêu rõ thái độ thuộc lĩnh vực phản ánh cảm xúc, khác căn bản với
phản ánh nhận thức, các tác giả này dùng thuật ngữ “thái độ cảm xúc” khi nêu
định
nghĩa về tình cảm. Chẳng hạn tác giả A.V.Daparôgiet đã viết: “Khi nhận thức hiện
thực xung quanh,con người không tỏ ra lạnh nh ạt, bàng quan. Con người có một
thái
độ nội tại nhất định đối với s ự vật, hiện tượng và hành động nào đó. Tình cảm
ha y
xúc cảm là thái độ mà con người trực tiếp thể nghiệm đối với hiện thực xung
quanh
và đối với bản thân” [7].
Qua một số những định nghĩa, những nội dung đề cập về thái độ nêu trên cho
thấy, dù được diễn giải theo nhiều phương cách khác nhau, nhưng vẫn có những
điểm
16
chung về khái niệm thái độ mà các định nghĩa đều có đề cập đến. Đó là, thứ nhất,
thái
độ là một dạng phản ứng bên trong (suy nghĩ, tình cảm,cảm nghĩ, ) và bên ngoài
(hành động, hành vi, sự thích ứng,…) của cơ thể; thứ hai, thái độ … khi có mối
liên
quan giữa một đối tượng (một sự vật, hi ện tượng,một con người, một nhóm người)
với sự thỏa mãn nhu cầu của chủ thể; thứ ba, thái độ có tính x ã hội, phản ánh
mối
quan hệ giữa chủ thể của thái độ và các thành phần khác trong xã hội (trong hoàn
cảnh, tình huống xã hội , trong sự trao đổi các giá trị, chuẩn mực xã hội,…). Do
đó,
thái độ là đối tượng nghiê n cứu của cả tâm lý học cá nhân và tâm lý học xã hội.
Cho đến ngày nay, thái độ vẫn đang tiếp tục được nghiên cứu vì nội hàm c ủa nó
rất rộng, khó xác định một cách đầy đủ trọn vẹn, cũng như khó đo lường một cách
chính xác tuyệt đối. Như vậy thái độ là một khái niệm được sử dụng thường xuyên
trong khoa học nói chung và khoa học tâm lý nói riêng. Chưa có một khái niệm
thống
nhất mà dưới mỗi góc độ khác nhau người ta có thể hiểu vấn đề này khác nhau.
Dưới
góc độ hiểu biết của mình chúng tôi cho rằng “Thái độ là hệ thống những suy
nghĩ,
tình cảm, cách đánh giá của ch ủ thể đối với các tác động của thế giới khách qu
an.
Đó là sự đồng tình hay không đồng tình, ủng hộ hay phản đối, sự chấp thuận hay
không chấp thuận một dạng phản ứng nào đó của cá nhân hay nhóm xã hội.”
1.2.1.2. Đặc điểm của thái độ
a. Đặc điểm của thái độ
Đầu tiên thái độ l à những rung cảm, xúc cảm đối với những đối tượng mới hay
là tình cảm đối với những đối tượng quen thuộc. Đó chính là mặt bên trong của
thái
độ. Thái độ còn được biểu hiện ra bằng những ý định và hành vi, cử chỉ, đó chính
là
mặt bên ngoài của thái độ. Mặt bên trong của thái độ không phải lúc nào cũng thể
hiện một cách trọn vẹn, thẳng thắn, nguyên xi mà có thể bị giấu kín nếu như cảm
thấy
cần che giấu, khi đó chủ thể sẽ kiềm chế, đè nén và không biểu lộ thái độ của
mình.
Thái độ mang tính chủ thể nhưng lại mang tính đối tượng khá rõ rệt. Đối với con
người, thái độ bao giờ cũng là thái độ đối với một đối tượng cụ thể nhất định.
Thế
nhưng thái độ lại thể hiện r ất rõ nét tính chủ thể vì với cùng một đối tượng
nhưng mỗi
17
người lại có thái độ khác nhau, thậm chí ngay khi con người có thái độ giống
nhau thì
cách thức và mức độ biểu hiện cũng khác nhau.
Thái độ mang tính cá nhân nhưng cũng bị chi phối bởi những yếu tố xã hội, dư
luận xã hội, phong tục tập quán…trước khi tỏ thái độ con người thường xem xét
những yếu tố xã hội chung quanh mình xem có cho phép hay không.
Mặt khác thái độ chính là một phần trong biểu hiện tình cảm. Thái độ có thể nói
là giai đoạn nảy sinh trước động cơ song chính thái độ cũng góp phần khô ng nhỏ
trong việc hình thành động cơ và chính nó là giai đoạn định hướng cho động cơ đi
đến hành động.
Thái độ thường được phân chia thành hai hướng khác nhau. Thái độ tích cực –
thái độ tiêu cực, thái độ đúng đắn – thái độ không đúng đắn (thái độ sai lệch).
Khi đề
cập đến thái độ người ta thường đề cập đến những thuật ngữ như: thích hay không
thích, tán thành hay không tán th ành, e ngại hay t ự tin…tất cả đều được hi ểu
là thái
độ của một chủ thể đối với một đối tượng nhất định, đó là một sự vật hiện tượng
hoặc
một vấn đề hay một con người cụ thể nào đó.
b. Cấu trúc tâm lý của thái độ
* Quan niệm 3 thành phần trong thái độ
Mặc dù có nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau về thái độ, song phần lớn
các nhà tâm lý học đều nhất trí với quan điểm cấu trúc 3 thành phần của thái độ
do
M. Smith – nhà tâm lý học Mỹ đưa ra năm 1942. Theo M. Smith, thái độ được cấu
thành từ thành phần nhận thức, thành phần xúc cảm tình cảm và thành phần hành
động của cá nhân với đối tượng. Trong đó:
- Thành phần nhận thức: là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lý con
người, nó bao gồm những quan điểm, sự hiểu biết của cá nhân với đối tượng.
- Thành phần xúc cảm - tình cảm: là kết quả của nh ận thức, k hông phản ánh bản
thân sự vật hiện tượng mà là những biểu cảm, sự rung động, hứng thú của cá nhân
đối
với đối tượng của thái độ.
Trong cấu trúc thái độ, tình cảm thể hiện ở các cảm xúc của
cá nhân đối với đối tượng của thái độ.Tình cảm là thành phần vô cùng quan trọng
trong cấu trúc thái độ.Với tình cảm tích cực có thể kích thích chủ thể hành động
tích
18
cực, từ đó hình thành nên thái độ tích cực và ngược lại tình cảm tiêu cực có thể
kìm
hãm tính tích cực hoạt động của chủ thể.
- Thành phần hành vi: là sự thể hiện thái độ của cá nhân đối với đối tượng thông
qua xu hướng hành động và hành động thực tế.
Thái độ và hành vi luôn có sự quy
định lẫn nhau, hành vi là một thành phần cấu thành nên thái độ, thái độ muốn
biểu
hiện ra bên ngoài phải thông qua hành vi .Vì vậy, hành vi là hình thức biểu hiện
cụ
thể nhất của thái độ.
Trong đời sống tâm lý của con người, nhận thức được coi là một trong ba mặt cơ
bản (nhận thức, thái độ và hành động). Quá trình nhận thức về đối tượng là quá
trình
con người tìm tòi, khám phá những thuộc tính bề ngoài và cả những thuộc tính bản
chất, những quy luật của đối tượng. Khi một sự vật, hiện tượng tác động đến cá
nhân,
để có thái độ nhất định đối với sự vật hi ện tượng đó thì trước hết, cá nhân
phải có sự
hiểu biết về đối tượng đó (cho dù hiểu biết đúng hay sai). Trong cấu trúc của
thái độ,
nhận thức là “điều kiện cần” cho việc hình thành thái độ. Xúc cảm - tình cảm là
th ành
phần quan trọng, là động lực có thể kích thích hoặc kìm hãm tính tích cực hoạt
động
của chủ thể. Hành vi l à sự thể hiện ứng xử của chủ thể đối với đối tượng. Mặc
dù
giữa hành vi và thái độ đôi khi cũng có những mâu thuẫn, nhưng nhìn chung, hành
vi
vẫn là hình thức biểu hiện cụ thể nhất của thái độ.
Ba thành phần nêu trên trong cấu trúc của thái độ có quan hệ chặt chẽ với nhau,
sự thống nhất giữa chúng tạo nên một thái độ xác định của chủ thể. Đứng trước
một
đối tượng nào đó, để có thái độ với đối tượng đó, con người phải tuân theo quy
luật
sau: trước hết, con người phải nhận thức (có hiểu biết) về đối tượng; nhận thức
đó sẽ là
cơ sở định hướng làm xuất hiện những xúc cảm, tình cảm với đối tượng (yêu –
ghét,
thích – kh ông thích…); c uối cùng, với nhận thức và tình cảm nhất định với đối
tượng
mà con người sẽ có những hành động, hành vi cụ thể với đối tượng. Ta cũng cần
hiểu,
mặc dù đều có mặt trong cấu trúc chung của thái độ, nhưng tỉ lệ các thành phần
nêu
trên có sự khác nhau trong các loại thái độ. Tuỳ theo tình huống mà một thành
phần
nào đó chiếm vị trí chủ đạo, chi phối thái độ của cá nhân. Ba thành phần nêu
trên có
quan hệ chặt chẽ với nhau. Cho nên có thể nói rằng: từ tính thống nhất của ý
nghĩ, tình
cảm và hành động, chúng ta có thể thấy được một thái độ xác định.