Luận văn Thạc sĩ Sinh học: Xây dựng bản đồ phân vùng sinh thái môi trường đất phục vụ quy hoạch phát triển nuôi tôm càng xanh huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp
1,640
75
95
Do các thuận lợi đã nêu ở phần 3.2.1, trong năm 2004 và 2005 huyện đã chủ trương
thí
điểm các mô hình nuôi TCX thử nghiệm theo cơ cấu lúa Đông xuân –TCX mùa lũ và
kết quả đạt
được khả quan (bảng 3.1).
+ Năm 2004 thử nghiệm 02 ha/01 hộ nuôi, với số lượng thả 210.000 con, mật độ
trung bình
10 con/ m
2
, năng suất đạt được sau 6 tháng nuôi là 1,7 tấn/ ha, lơi nhuận sau khi trừ chí
phí là 60
triệu đồng/ ha.
+ Năm 2005 nhân rộng mô hình lên 22,3 ha với 07 hộ nuôi, mật độ thả tương tự năm
2004.
Kết quả các hộ nuôi đều cho năng suất rất cao dao động từ 0,7 – 2,48 tấn/ha, lợi
nhuận thấp nhất là
20,52 triệu đồng/ ha, lợi nhuận cao nhất trên 50 triệu đồng/ha.
3.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG
Năm 2004, diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản toàn huyện là 211 ha. Tổng sản
lượng
đạt 8.500 tấn. Trong đó sản lượng nuôi là 6.300 tấn, khai thác tự nhiên 2.200
tấn, sản lượng nuôi
tập trung chủ yếu là cá Lóc nuôi thâm
canh ao hầm. So với sản lượng và diện tích nuôi năm 2000
tăng 52 ha, sản lượng tăng 3.200 tấn (tăng gấp 2 lần) [13].
Nhìn chung thuỷ sản hơn 10 năm qua đã có bước phát triển. Nếu tính từ mốc năm
1990 với
diện tích 60 ha nuôi các loại, sản lượng đạt 700 tấn thì đến năm 2004 tăng lên
211 ha ( tăng 3,
51
lần), sản lượng đạt 6.300 tấn ( tăng gấp 9 lần). Tuy nhiên về giá cả thị trường
tiêu thụ không ổn
định, vốn đầu tư nuôi thiếu, phụ thuộc vào nguồn thức ăn tự nhiên nên nghề nuôi
thuỷ sản của
huyện so ra vẫn phát triển còn chậm. Vì vậy, trong những năm sắp tới của nghề
nuôi thuỷ sản phát
triển bền vững và thật sự trở th
ành thế mạnh về kinh tế đứng thứ hai sau cây lúa, cần phải xây
dựng dự án đầu tư cụ thể cho từng vùng chuyên canh nuôi trồng [13].
Hiệu quả về kinh tế: Nguồn tôm giống được cán bộ thuỷ sản cung cấp vừa qua được
đánh
giá là có chất lượng, tôm đồng đều nuôi mau lớn và cho năng suất cao. Hiệu quả
từ một vụ TCX
của ông Sĩ và ông Dọn so với sản xuất 1 vụ lúa Hè thu thì lợi nhuận từ m
ô hình nuôi TCX tăng
gấp 13,4 -15.99 lần. Nên việc bố trí nuôi TCX mùa lũ là hoàn toàn phù hợp và
hiệu quả. Bên cạnh
đó nuôi tôm còn giúp tăng độ phì của đất, tăng giá tri sử dụng đất [36].
Hiệu quả xã hội: Giải quyết việc làm cho lao động nhàn trong mùa lũ, giảm thoái
hoá về đất
đai, tạo sự nhận thức mới trong cộng đồng xã hội về quá trình chuyển đổi cơ cấu
ki
nh tế nông
nghiệp.
Đối tượng TCX có nhiều ưu thế về thị trường trong nước cũng như xuất khẩu, tiềm
năng
phát triển còn khá lớn.
Bên cạnh đó còn nhiều khó khăn trong việc nuôi TCX:
+ Gía con giống còn cao, giống chất lượng còn thiếu và chưa kịp thời.
+ Gía thức ăn công nghiệp cao, sử dụng thức ăn công nghiệp nhiều mới đủ hàm
lượng đạm
để tôm lớn nhanh và đều.
+ Số hộ nuôi tôm chưa nhiều, nguyên liệu còn phân tán nên việc chủ động về con
giống
phải đặt hàng ở xa, nhân dân không đủ điều kiện về vốn nuôi.
+ Thị trường tiêu thụ chưa thật ổn định.
+ Vùng nuôi chưa có điện ánh sáng nên việc bảo quản còn hạn c
hế.
3.4. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN TRONG THỜI GIAN TỚI
3.4.1. Những quan điểm cơ bản [31, tr. 52]
Theo Đề án phát triển nuôi trồng thuỷ sản tỉnh Đồng Tháp có những quan điểm sau:
+ Phát triển nuôi trồng thuỷ sản nhanh, hiệu quả bền vững trên cơ sở gắn nuôi
trồng thuỷ
sản với bảo vệ nguồn lợi, môi trường sinh thái, phòng chống dịch bênh cho các
đối tượng nuôi.
Sử dụng hợp lí và c
ó hiệu quả tài nguyên về các loại mặt nước sông ngòi, kênh, rạch, ao,
hồ, mương vườn, bãi bồi và ruộng trũng để nuôi trồng thuỷ sản. Đẩy mạnh nuôi
thuỷ sản theo
hướng sản xuất hàng hoá, hình thành vùng sản xuất thuỷ sản tập trung tạo ra
nguyên liệu cho chế
biến xuất khẩu, góp phần tăng kim nghạch xuất khẩu, đưa ngành thuỷ sản thành
ngành kinh tế mũi
nhọn của Tỉnh.
+ Phát triển sản xuất thuỷ sản gắn sản xuất nuôi trồng với chế biến và tiêu thụ
sản phẩm.
Xem thị trường là nhân tố quan trọng thúc đẩy sản xuất phát triển góp phần gia
tăng giá trị, từng
bước tăng tỷ trọng sản xuất thuỷ sản trong cơ cấu Nông – Lâm – Ngư nghiệp, nhằm
tạo sự
chuyển dịch kinh tế đồng bộ trên mọi lãnh vực.
+ Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ th
uật, kết hợp với kinh nghiệm
nuôi của ngư dân nhằm nâng cao sản lượng, năng suất, hiệu quả, tạo ra sản phẩm
hàng hoá có chất
lượng cao, để khả năng cạnh tranh của thuỷ sản trên thị trường trong nước và
trên thế giới.
+ Tập trung mọi nguồn lực đầu tư phát triển sản xuất, khuyến khíc
h các thành phần kinh tế
tham gia đầu tư trong các lãnh vực nuôi trồng, chế biến, tiêu thụ sản phẩm và
hậu cần dịch vụ để
sản xuất ổn định và lâu dài.
+ Phát triển sản xuất thuỷ sản nhằm đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng cho xã hội, giải
quyết
nguồn lao động dư thừa, xây dựng vùng nông thôn mới mang màu sắc văn hoá đặc thù
vùng ĐTM,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho ngư dân vùng nông t
hôn.
3.4.2. Định hướng tới[36]:
Quy hoạch và phát triển diện tích nuôi TCX theo cơ cấu Lúa - Tôm đang là một ưu
thế
thuận lợi, do đó việc quy hoạch trong thời gian tới là cơ sở tập trung vào những
vùng, những khu
vực đặc trưng có điều kiện thuận lợi để tạo ra vùng nguyên liệu lớn đáp ứng nhu
cầu thị trường.
Tranh thủ tối đa nguồn vốn đầu tư từ Trung Ương, Tỉnh, Huyện để hỗ trợ đầu tư cơ
sở hạ
tầng các vùng phát triển nuôi tập trung như: Điện, đường, cống, trạm bơm, thuỷ
lợi nội đồng ... để
phục vụ tốt nhất cho vùng nuôi tôm.
Tăng cường công tác vận động tuyên truyền, và khuyến khích người dân tham gia
phát
triển.
Đẩy mạnh việc tập huấn và
chuyển giao kỹ thuật đến với nhiều nông dân, nhằm giúp nông
dân nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản xuất để tăng thu
nhập.
Cùng với sự quan tâm của các ngành, các cấp, cùng với sự nổ lực của người dân,
phấn đấu
thực hiện thắng lợi 20 ha vụ tôm năm 2005, để làm tiền đề phát triển nhân rộng
mô hình nuôi 2006
– 2010.
3.4.3. Kế hoạch trọng tâm 2006 – 2010 [34]:
Sớm triển khai và t
hực hiện hoàn chỉnh dự án đầu tư hạ tầng nuôi tôm khu vực Phú Thành
B 260 ha, trong đó có khu vực Cù Lao Chim.
Tiếp tục đầu tư nhân rộng mô hình sẵn có ra các hộ lân cận thuộc địa bàn các xã
như: Xã
Phú Thành A, Phú Thọ, Thị Trấn Tràm Chim năm 2006.
Xây dựng các dự án kêu gọi đầu tư phát triển sản xuất nhất là lĩnh vực chế biến,
nuôi trồng.
Bảng 3.2: Chỉ tiêu kế hoạch nuôi TCX năm 2006
số Chỉ tiêu ĐVT Thực hiện
2005
Kế hoạch
2006
Khả
năng
thực
hiện
2006
So kế
hoạc
h
(%)
1 An Hoà Ha - 3 6,8 226
2 An Long Ha 1 2 1 50
3 Phú Ninh Ha - 2 0,8 40
4 Phú Thành A Ha - 23 3 13
5 Phú Thọ Ha 4,8 20 27 135
6 Phú Thành B Ha 16,5 230 84,2 36
7 TT Tràm Chim Ha - 20 17,2 86
Tổng cộng: 22,3 300 140 46
I Sản lượng Tấn 32,3 435 203 46
II Giá trị Tr. đồng 2.745 32.625 15.525 46,7
Nguồn: ỦY ban nhân dân huyện Tam Nông, năm 2006.
Tăng cường quản lý chất lượng giống thuỷ sản, trú trọng các mô hình nuôi thuỷ
sản sạch và
hiệu quả.
Tăng cường kinh phí thực hiện công tác khuyến nông. Khuyến ngư và thông tin thị
trường.
Với sự nổ lực vượt bậc các ngành, các cấp và sự quan tâm ủng hộ của bà con nông
dân,
định hướng tới sẽ thực hiện thắng lợi chỉ tiêu phát triển dự án 3.
000 ha nuôi TCX của huyện từ nay
đến năm 2010.
CHƯƠNG 4: CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN SỬ DỤNG ĐỂ LÀM CƠ SỞ PHÂN
VÙNG SINH THÁI HỆ SINH THÁI MÔI TRƯỜNG ĐẤT PHỤC VỤ QUY
HOẠCH PHÁT TRIỂN NUÔI TÔM CÀNG XANH HUYỆN TAM NÔNG, TỈNH
ĐỒNG THÁP VỚI TỶ LỆ BẢN ĐỒ 1/25.000
4.1. ĐỊA HÌNH ĐỊA MẠO
Địa hình toàn HTN mang tính chất của vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long tương đối bằng
phẳng,
không có chênh lệch lớn về độ cao. Tuy nhiên HTN lại nằm trong vùng trũng ĐTM
nên địa hình toàn
huyện có thể chia thành 3 nhóm
chính.
Nhóm địa hình cao: Có độ cao + 2,0 m tập trung chủ yếu ở các xã ven sông
Tiền, thuộc địa
bàn các xã An Hoà, An Long, Phú Ninh và rải rác một số nơi trong huyện theo dạng
gò đồi: nơi tiếp
giáp giữa phía bờ bắc kênh Me Nứơc với bờ tây kênh Phú Đức, thuộc địa bàn xã Phú
Hiệp; nơi tiếp
giáp giữa phía bờ tây kênh kênh Phú Hiệp với bờ nam kênh An Bình, thuộc địa bàn
xã Phú Hiệp.
Nhóm địa hình trung bình: Có độ cao từ +1,5 m đến +2,0 m phần lớn tập t
rung ở phía đông
kênh 2/9; toàn bộ phía bờ bắc của kênh An Bình; bờ nam kênh Đồng Tiến, một số ít
rải rác trên các
địa bàn còn lại của huyện. Trong nhóm địa hình trung bình này HTN có xây dựng “
Dự án đầu tư thí
điểm hạ tầng thuỷ lợi phục vụ nuôi tôm càng xanh trên chân ruộng”.
Nhóm địa hình thấp: Có độ cao phổ biến từ +0,9 m đến 1,5 m chiếm hơn 60% diện
tích của
toàn huyện.
Theo tài liệu bản đồ địa hình địa mạo HTN của Phân Viện Q
uy Hoạch Thiết Kế Nông Nghiệp
Miền Nam, năm 2006 ( hình 4.1). HTN có các đơn vị địa mạo nhỏ sau: Bưng lầy
(BL); Bưng sau đê
(BSĐ); Đồng lụt cao (ĐLC); Đồng lụt thấp (ĐLT); Đê tự nhiên (ĐTN); Lòng sông cổ
(LSC).
Các đơn vị địa mạo có các đặc điểm sau:
Bưng lầy và Bưng sau đê: Được hình thành ở các vùng đất thấp sau hoặc giữa các
đê tự
nhiê
n. Vật liệu trầm tích được chuyển trong các trận lụt tràn qua bờ, phần thô được
tích tụ gần sông
nhất để hình thành nhóm trầm tích đê tự nhiên hay đê sông, còn các vật liệu mịn
được vận chuyển đi xa
hơn tích tụ trong các vùng thấp để tạo thành nhóm trầm tích sông – đầm lầy.
Lòng sông cổ (Dòng sông cổ): Là những dòng sông dài bị bỏ rơi trong giai đoạn
phát triển
đồng bằng châu thổ, dòng sông cổ có thể kéo dài hàng chục kilomet, rộng vài
kilomet. Khi quá trình
hình thà
nh sông cổ đã kết thúc, dòng sông cổ chỉ còn nhận được các vật liệu mịn hạt do
lũ lụt đưa lại,
các vật liệu này dần dà tràn đầy dòng sông, kế đến thảm thực vật tự nhiên phát
triển: Sen, Súng, Nghễ,
Đưng, Năng…
Đê tự nhiên (Đê sông): Dãi phù sa chạy dọc theo sông lớn và các nhánh sông con
của sông
Tiền hoặc bao quanh các cù lao đã trưởng thành, phần vật thô lắng động gần sông
nhất tạo thành đê tự
nhiên. Đê tự nhiên chiếm địa hình cao nhất đồng bằng châu thổ, thoát nước tốt.
Đồng lụt: Đồng lụt của sông phân dòng phân bố có phần hạn chế hơn. Bên ngoài
dòng
chính, sự bồi đứng ở các bồn ngập lụt và đê tự nhiên trong mùa lũ khi nước tràn
qua bờ đư
ợc mở rộng
và nâng cao hàng năm, trong các bồn ngập lụt địa hình thấp (1-2 m). Đồng lụt
phân bố không đều dọc
hai bên bờ sông và bị chi phối của các yếu tố: triều, đặc điểm từng đoạn sông,
đặc biệt là yếu tố kiến
tạo.
4.2. MỨC ĐỘ NGẬP
Phân vùng ngập dựa trên cơ sở mực nước đỉnh triều và địa hì
nh, khả năng ngập của HTN có 3
mức độ, trong đó quan trọng nhất là thời gian ngập và mức độ ngập. Do HTN có địa
hình bằng phẳng
và chênh lệch về độ cao không nhiều, nên vào mùa lũ ngập trên địa bàn toàn
huyện, vào mùa khô thì
mực nước thấp hơn mặt ruộng từ 50- 100 cm nên toàn địa bàn bị khô. Như vậy vùng
ngập ở đây chủ
yếu là khác nhau về độ sâu và thời gian ngập.
-Từ t
háng 1 đến tháng 6 không ngập, trong mùa này lượng nước sông xuống thấp nhất là
vào
khoảng tháng 4, nên trong thời gian này nếu bố trí nuôi trồng thuỷ sản phải chủ
động bơm nước do
không lấy được nước tự nhiên vuông nuô.i
- Tháng 7, tháng 11, tháng 12 ngập trung bình 150cm, vào tháng 7 nước từ
Campuchia bắt đầu
tràn về, nên nước nội đồng Tam Nông từ từ dâng lên, tháng 11,12 do nước rút dần
xuống hạ lưu để đổ
ra biển Đông nên các tháng này mực nước thấp hơn các tháng 8, 9, 10.
-Thá
ng 8, tháng 9, tháng 10 ngập sâu từ 150 250 cm, trong các tháng này vừa có mưa
nhiều
vừa có lũ thượng nguồn đổ về cộng với triều cường biển Đông nên gây ngập sâu.
Trong đó có 2 đỉnh
lũ, đỉnh lũ nhỏ nhất vào tháng 8, thời gian ngập từ 12 đến 14 tuần; đỉnh lũ lớn
nhất xảy ra vào cuối
tháng 9 mực nước ngập sâu 180 cm đến 320 cm, năm 2000 mức nước ngập cao nhất tại
Tràm Chim đo
đự
ơc là 412 cm. Qua đây cho ta thấy mức độ ngập toàn HTN có thể chia thành 3 vùng
theo độ ngập
sâu: Không ngập; Ngập trung bình; Ngập sâu.
Thực trạng ngập lũ là điều không thể thiếu ở Đồng Bằng Sông Cửu Long nói chung
và HTN
nói riêng. Nên việc bố trí mô hình nuôi TCX phù hợp với địa
Hình ngập
hình, chế độ thuỷ văn, đất đai nhằm giúp người dân có thể sống chung với lũ một
cách có căn cơ và
cũng xem lũ là một lợi thế, là tài nguyên thiên nhiên ưu đãi để tận dụng và phát
triển sản xuất và nuôi
trồng thuỷ sản theo hướng bền vững.
4.3. THỔ NHƯỠNG [10], [24], [29].
Theo bản đồ đất vùng ĐTM tỷ lệ 1/100.
000, [24] Bản đồ Hành chánh HTN tỷ lệ 1/25.000, đất
đai HTN có các loại sau:
4.3.1. Đất Phù sa (Alluvial Soil)
Tuỳ theo quá trình hình thành và phát triển, đất phù sa trên địa bàn HTN có 3
nhóm:
4.3.1.1. Đất phù sa không được bồi sông Cửu Long (P)
Là đất phù sa non trẻ thứ 2 sau đất phù sa được bồi. Phần phẫu diện bắt đầu có
sự biến đổi với
sự hiện diện các đốm nâu vàng.
Có độ phì khá cao, ở vào vị trí thuận lợi gần nguồn nước sông Tiền
Tập trung ven sông Tiền và chạy dọc sát hai bên bờ rạch Ba Răng, thuộc các xã An
Hoà , An
Long , Phú Ninh, Phú Thành A.
4.3.1.2. Đất phù sa không được bồi loang lổ sông Cửu Long (Pf)
Là đất phù sa không được bồi nhưng đã phát triển, bị rữa trôi và dí chặt, tầng
mặt bị nghèo đi rõ
rệt, có địa hình cao, phẫu diện khá rõ với màu loang lỗ đỏ vàng ở xa dòng sông
Tiền hơn.
Chiếm toàn bộ diện tích phía bờ tây rạch Ba Răng, thuộc các xã An Hoà, An Long,
Phú Ninh,
Phú Thành A, chiếm diện tích rất nhỏ ở xã P
hú Cường.
4.3.1.3. Đất phù sa có nền phèn (Ps)
Hình 4.3 : Bảng Đồ Thổ Nhưỡng HTN
Là loại đất chuyển tiếp xuất hiện và hiện diện kế cận vùng phèn ở những vùng có
địa hình cao thoát
nước tốt, thoáng khí, đất phát triển mạnh, đất sát chặt, hình thái. Phẫu diện
tầng mặt là lớp phù sa non trẻ
có màu nâu tươi hoặc xám nâu, độ dày tầng phù sa rất khác nhau dao động từ 10 –
80 cm, tầng dưới sâu là
lớp đất sét chứa vật liệu sinh phèn.
Tập trung phía bờ đông của rạch Ba Răng, hẹp về phía bắc của huyện và và mở rộng
diện tích ở
phía nam
của huyện trên đoạn kênh Đồng Tiến và nó chiếm diện tích rất nhỏ ở xã Phú Cường.
Đăc điểm của đất phù sa:
Được hình thành trên trầm tích Aluvi tuổi Holocen hiện đại QIV
3
ven sông. Phù sa non trẻ sông
Cửu Long không chứa vật liệu nhiễm phèn và không bị mặn, hàng năm được bù đắp
thêm một lượng phù
sa mới trên mặt, đất có màu tươi.
Tính chất của đất phù sa:
Có thành phần cơ giới nặng, sét và canxi nhiều ( trên 60% sét), pH từ trung tính
đến chua ít (pH:
5,5 – 6,5).
Có độ phì tương ứng với đạm tổng số rất giàu (0,25% – 0,30%).
Hàm lượng kali cao nhưng lại nghèo lân.
Khả năng sử dụng đất phù sa:
Thích nghi cho việc trồng lúa nước từ hai đến ba
vụ trong năm, những nơi có địa hình cao có thể
trồng hoa màu và cây ăn trái, đặc biệt có thể nuôi trồng thuỷ sản rất tốt (nuôi
tôm càng xanh trên chân
ruộng).
4.3.2. Đất Xám (Grey Soil)
4.3.2.1. Đất xám điển hình ( X); ( Đất xám trên phù sa cổ)
Xuất hiện ở nơi có địa hình tương đối cao (trên 2m)
Chiếm tỷ lệ rất nhỏ trên địa bàn HTN, nằm rải xen lẫn trong đất xám loang lổ
thuộc khu vực tiếp
giáp giữa bờ đông kê
nh Phú Hiệp với bờ tây kênh Phú Đức.
4.3.2.2. Đất xám loang lổ (Xf); (Đất xám có tầng loang lổ)
Xuất hiện ở phần cuối dốc, ở chân gò đồi. Nằm rải rác từ phía bắc của huyện chạy
dài xuống phía
nam trong khu vực thuộc phía đông kênh Phú Hiệp với phía tây kênh Lung Bông xen
với đất phèn có lớp
lũ tích dốc tụ trên mặt.
Đăc điểm của đất xám:
Được hình thành trên phù sa cổ, nên địa hình thường c
ao, thành phần cấp hạt thô, đã qua quá trình
xói mòn và rửa trôi lâu đời nên thường nghèo dinh dưỡng, đất xám ở địa hình thấp
có chất dinh dưỡng khá
hơn nhưng thường ngập nước trong mùa mưa nên đất có phản ứng chua.
Tính chất đất xám:
Có thành phần cơ giới nhẹ (cát – cát pha – thịt nhẹ ) tầng đất mịn dày, dễ thoát
nước. Hàm lượng
cấp hạt tầng mặt có thể đạt đến 60% dễ thoát nước, càng xuống sâu hàm lượng cát
giảm, trong khi đó hàm
lượng xét lại tăng lên, hàm lượng các chất dinh dưỡng thấp kể cả mùn hữu cơ
(chất hữu cơ biến đổi từ
1%-2%). Đất xám điển hình đạm tổng số ít ( 0,03% - 0,06%), lân tổng số và lân dễ
tiêu nghè
o (0,02% -
0,05%), kali nghèo ( tổng số 0.03% - 0,05%). Đất xám rất nghèo các nguyên tố vi
lượng.
Khả năng sử dụng đất xám:
Đất xám điển hình có thể trồng cây công nghiệp như lúa, mía, lạc… hoặc cây hoa
màu: Khoai lang,
sắn, ngô, đậu nành , kiệu, rau …Đất xám loang lổ trong điều kiện ngập nước có
thể trồng một vụ lúa kết
hợp với một vụ nuôi thuỷ sản hoặc trồng lúa kết hợp với hoa m
àu.