Luận văn Thạc sĩ Sinh học: Xây dựng bản đồ phân vùng sinh thái môi trường đất phục vụ quy hoạch phát triển nuôi tôm càng xanh huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp
1,587
75
95
độ chênh lệch về độ cao rất thấp từ 10 cm đến 20 cm nên rất thuận lợi cho việc
bố trí hệ thống tưới tiêu
và nuôi trồng thuỷ sản.
2.1.3. Các yếu tố khí hậu thuỷ văn [13], [29]
HTN có khí hậu đặc trưng của vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, một
Bảng 2.2 : Các chỉ tiêu khí hậu ở HTN
Yếu tố khí tượng Các chỉ số
Nhiệt độ: (
o
C)
-Trung bình
-Cao nhất
-Thấp nhất
Lượng mưa: ( mm)
-Trung bình năm
-Cao nhất theo trung bình năm
-Thấp nhất theo trung bình năm
Độ ẩm trung bình (%)
27
37,2
18,5
1.500
2.300-3.000
1.000-1.600
83
Nguồn: Báo cáo hiện tượng khí hậu ,thuỷ văn HTN năm 2002
năm có hai mùa rõ rệt là mùa khô và mùa mưa , mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11,
mùa khô từ tháng
12 đến tháng 4 năm sau.
Nhiệt độ: Tương đối cao và khá ổn định, giữa các tháng nhiệt độ chênh lệch nhau
trung bình từ
1
0
C – 3
0
C. Các tháng có nhiệt độ trung bình thấp nhất là tháng 12 và tháng 1 (18,5
0
C), các tháng có
nhiệt độ cao nhất là tháng 3 và tháng 4 (37,2
0
C).
Độ ẩm : Độ ẩm không khí phụ thuộc vào các mùa , mùa mưa có độ ẩm cao (từ tháng 5
đến
tháng 11) 83%-86%, các tháng mùa khô độ ẩm thấp 73% -76%.
Chế độ gió: Chế độ gió ở HTN phân bố theo 2 mùa
Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, hướng gió thịnh hành là gió mùa Đông
Bắc chiếm
tầng suất 60%-70%. Do gió này xuất phát từ lục địa nên khô và hanh, làm tăng độ
bóc hơi và lượng
mưa giảm rõ rệt.
Mùa mưa từ tháng 5 đến thánh 11, hướng gió thịnh hành là gió m
ùa Tây Nam chiếm tầng suất
70% gió theo hướng từ biển vào nên mang theo nhiều hơi nước gây mưa, vào các
tháng mùa mưa tốc
độ gió trung bình lớn hơn mùa khô, nhưng chênh lệch về tốc độ gió giữa các tháng
trong năm không
nhiều . Tốc độ gió trung bình các tháng trong năm từ khoảng 2-2,5 m/s, mạnh nhất
2,6 m/s, yếu nhất 2
m/s. Tuy nhiên tốc độ gió mạnh nhất quan trắc được có thể đạt vào khoảng 30 m/s
– 40 m/s và thường
xảy ra trong cơn giông và phần lớn các cơn giông thường xảy ra trong m
ùa mưa với hướng gió Tây
hoặc gió Tây Nam.
Tốc độ gió có ảnh hưởng đến việc nuôi thuỷ sản do làm tăng khả năng bốc hơi và
làm thay đổi chất
lượng nước trong các thuỷ vực nuôi thuỷ sản. Tuy nhiên đến nay chưa có nghiên
cứu nào về mối
quan hệ giữa gió với sự sinh trưởng và phát triển của các loài thuỷ sản.
Độ bốc hơi: Lượng bốc hơi phân bố theo mùa khá rõ và ít biến động theo không
gian, lượng
bốc hơi trung bình hàng năm trong huyện 1.657 m
m/ năm (chiếm 111% lượng mưa trung bình hàng
năm).
Mùa mưa lượng bốc hơi khoảng 2 -3 mm/ngày.
Mùa khô lượng bốc hơi khoảng 4 -5 mm/ngày.
Chế độ mưa:
Mùa mưa từ tháng 5 đến thánh 11 với lượng mưa tương đối ổn định qua các năm.
Lượng mưa
trung bình trong năm 1.500mm, qua các năm lượng mưa dao động từ 1.300 -1.700 mm.
Hệ số biến
động lượng mưa không lớn đạt trên dưới 2. Tháng có lượng mưa cao nhất là tháng 8
đến tháng 10.
Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau lượng mưa thấp.
Tuy nhiên lượng mưa phân bố không đều giữa các năm, giữa các vùng lượng mưa có
xu hướng giảm
dần từ Tây Nam sang Đông Bắc.
Hệ thống sông rạch : Toàn huyện có 277,7 km sông rạch, trong đó có
Sông Tiền chảy qua phía tây của huyện dài 12 km, mặc dù chảy qua huyện chỉ có
12km nhưng nó có
vai trò rất quan trọng đối với đời sống, sinh hoạt, kinh tế của người dân, đại
đa số các kênh rạch
của HTN đều đổ ra sông Tiền.
Kênh Đồng Tiến do trung ương quản l
ý dài 28km nằm ở phía nam của huyện và chạy dài từ
Đông sang Tây, từ thị trấn Tràm Chim chảy qua các xã Phú Thọ, Phú Thành A, Phú
Ninh, An Long,
sau đó đổ ra sông Tiền.
Kênh An Bình dài 30 km nằm ở phía bắc của huyện cũng chạy từ Đông sang Tây qua
các xã
Hoà Bình, Tân Công Sính, Phú Đức, Phú Hiệp, Phú Thành B, An Long, An Hoà và cuối
cùng đổ ra
sông Tiền.
Kênh Cà Dâm ( kênh Hoà Bình) dài 15km chạy dài từ hướng Tây Bắc chạy xuống
phía nam
của
huyện qua các xã Hoà Bình, Tân Công Sính, đến thị trấn Tràm Chim tiếp tục đổ vào
kênh Đường
Gạo thuộc địa bàn xã Thanh Bình và đổ ra sông Tiền . Ngoài ra còn có rất nhiều
kênh, rạch nhỏ
khác như: Kênh Phú Hiệp, kênh Phú Thành II, kênh kháng Chiến, kênh Tân Công
Sính, rạch Ba
Răng. . . nối liền các con kênh trên còn có rất nhiều kênh, mương nhỏ khác được
phân bố trên
khắp địa bàn của HTN tạo nhiều thuận lợi cho việc cấp, thoát nước phục vụ sản
xuất, phục vụ đời
sống con người.
Chế độ thuỷ văn: Chịu ảnh hưởng chung của chế độ bán nhật triều không đều biển
Đông, c
hế
độ thuỷ văn của sông Tiền và chế độ mưa trong khu vực. Phân thành hai mùa.
Mùa kiệt: Trùng với mùa khô từ tháng 1 đến tháng 6 trong mùa này nước sông
xuống thấp, đạt
mức thấp nhất vào khoảng tháng 4.
Mùa lũ: Từ tháng 7 đến tháng 12, đáng chú ý nhất là từ tháng 8 đến tháng 10 do
mưa tại chổ
cùng với lũ thượng nguồn sông Mê Kong tràn về gây ngập úng trên diện rộng, ảnh
hưởng đến sản xuất
và đời sống nhân dân. Việc tăng cường và hoàn chỉnh hệ thống thuỷ lợi là biện
pháp quan trọng để khắc
phục những khó khăn này.
2.1.
4. Tài nguyên nước
2.1.4.1.Tài nguyên nước mặt
Nguồn nước mặt chủ yếu được cung cấp bởi sông Tiền qua các hệ thống kênh rạch,
nguồn nước
ngọt này rất dồi dào, chất lượng nước đảm bảo cho nhu cầu sinh trưởng và phát
triển nuôi thuỷ sản,
nhu cầu tưới tiêu các loại cây trồng, ngay cả những vùng đất bị nhiễm phèn.
Nguồn nước trong các
kênh rạch có thể sử dụng được nhờ sự lưu thông, trao đổi nước ngọt với sông Tiền
đây
là điều rất thuận
lợi cho nuôi trồng thuỷ sản cũng như sản xuất nông nghiệp [29].
Nước lũ hàng năm mang đến cho ĐTM nói chung và HTN nói riêng cả hai mặt tích cực
và tiêu
cực [24].
-Tích cực: Đem lại cho đồng ruộng lượng phù sa khổng lồ, cung cấp cho đất đai
thêm màu mỡ,
đem lại nguồn thức ăn tự nhiên cho các loài thuỷ sản t
rong suốt thời gian lũ. Nên việc bố trí nuôi tôm
càng xanh trong mùa lũ rất thích hợp vì vừa tận dụng được nguồn phụ phẩm thức ăn
tự nhiên vừa có
nguồn nước dồi dào chảy tràn, chất lượng nước lại tốt, tôm phát triển nhanh giảm
nhẹ chi phí thức ăn
và chí phí cho việc bơm nước vào vuông nuôi.
- Tiêu cực: Những trận lũ lớn gây thiệt hại tính mạng con người, sạt lở đất đai,
thất thoát tài sản
của người dân, ảnh hưởng đến năng s
uất của cây trồng, ảnh hưởng đến sản xuất.
2.1.4.2. Tài nguyên nước ngầm
Trên địa bàn HTN có nhiều vỉa nước ngầm, các vỉa nước ngầm ở nhiều độ sâu khác
nhau, trong
đó có nhiều tầng đã bị nhiễm phèn nên không sử dụng được. Những nơi khai thác ở
độ sâu từ 50 –
100m
thì sử dụng cho sinh hoạt, còn ở độ sâu 300m vừa phục vụ cho sinh hoạt, vừa có
thể sử dụng cho
sản xuất nông nghiệp [29].
2.1.5. Tài nguyên sinh vật [13], [24], [29]
Rừng Tràm (Melaleuca cajuputi) chiếm diện tích lớn nhất ở HTN. Do tác động con
người, hầu
hết những cánh Tràm nguyên sinh đã biến mất và hiện nay chỉ còn lại là những
cánh rừng Tràm trồng
thuộc loài Melaleuca cajuputi (họ Myrtaceae), nhưng nhờ được bảo tồn nhiều năm
nên có những cụm
Tràm phân bố theo kiểu tự nhiên. Hiện nay HTN có 7.000 ha rừng chũ yếu là rừng
thứ sinh đang phát
triển trở lại thông qua công tác khoanh nuôi và bảo vệ rừng, trong đó có khoảng
1.000 ha rừng sản xuất
và 6.000 ha rừng đặc dụng của Vườn Quốc Gia Tràm Chim. Ngoài ra còn có các cây
đặc trưng của
vùng ĐTM. Đây chính là những loài thực vật hoang dại có giá trị thích nghi lâu
đời ở vùng này như:
Năng (Eleocharis sp.); Súng (Nymphaea lotus); Lúa ma ( Oryzae rufipigon);
Sậy(Phragmites karka) ;
Sen ( Nelubium nelumbo); Nghễ (Polygonum tomentosum wild); Mồm mốc ( Ichaemum
indicum Hort
Mers). . . Và những loài này là nguyên liệu thủ công như: Năng có thể phơi khô
làm đệm ghế, đệm
giường; Sậy; cỏ Mồm làm bột giấy, tinh dầu Tràm dùng làm dược liệu, nhiều loài
cỏ mọc tự nhiên
làm thức ăn cho trâu bò có chất lượng về dinh dưỡng rất tốt. Ngoài ra thực vật
còn c
ó tác dụng giúp
cho đất tăng lượng mùn, độ xốp đất và là nơi cư trú của các loài động vật.
Đặc biệt Vườn Quốc Gia Tràm Chim còn là nơi cư trú trên 100 loài động vật có
xương sống, 40
loài cá, 147 loài chim trong có Sếu đầu đỏ( Grus antigone sharpii) là loài chim
quí hiếm, hiện nay
chúng chỉ có ở nước ta và đang được quan tâm nghiên cứu, bảo vệ nghiêm ngặt. Đây
chính là nguồn tài
nguyên quí giá có thể đầu tư xâ
y dựng thành khu du lịch sinh thái[29], [40].
Theo Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ sản II, khu vực Vườn Quốc Gia Tràm Chim và
khu
vực ruộng lúa rất phong phú về nguồn thức ăn cho tôm, cá.
2.1.6. Tài nguyên đất [24], [29]
Theo tài liệu điều tra và xác định tài nguyên đất của Phân Viện Khoa Học Nông
Nghiệp Miền
Nam và tài liệu điều tra đất vùng ĐTM của Phân viện quy hoạch và Thiết kế nông
nghiệp, đất của
HTN được chia thành 3 loại chính sau:
Loại đất phù sa: 3.035 ha chiếm
6,59%
- Đất phù sa không được bồi sông Cửu Long.
- Đất phù sa không được bồi loang lổ sông Cửu Long.
- Đất phù sa có nền phèn.
Loại đất xám: 5.271 ha chiếm 11,44%
- Đất xám điển hình.
- Đất xám loang lổ.
Loại đất phèn: 37.775 ha chiếm 81,97%.
* Đất phèn tiềm tàng.
-Đất phèn tiềm tàng nông.
* Đất phèn hoạt động.
-Đất phèn hoạt động nông.
- Đất phèn hoạt động sâu.
* Đất phèn có lớp lũ tích dốc tụ trên mặt.
2.1.
7. Tài nguyên khoáng sản [29]
2.1.7.1.Than bùn
HTN có hai dạng than bùn:
- Than bùn lòng sông cổ có trữ lượng 390.000 m
3
và chất lượng tốt, phân bố ở Trà Mơn gần
kênh Gáo Đôi.
- Than bùn vỉa trong các bưng lầy cổ, trữ lượng 1.500.000 m
3
, chất lượng kém.
Than bùn ở đây có nhiệt lượng cháy từ 4.100 – 5.700 Kcalo/ kg nên thuận lợi cho
việc khai thác
ly trích chất kích thích tăng trưởng cho cây trồng hoặc chế biến phân bón. Đến
nay nguồn nguyên liệu
này vẫn chưa có kế hoạch khai thác.
2.1.7.2. Cát sông
Có ở dọc sông Tiền từ xã An Hoà đến xã Phú Ninh, dạng trầm tích theo dòng chảy.
Được khai thác sử dụng trong công nghiệp xây dựng, gồm cát san lấp mặt bằng và
cát xây dựng.
2.1.7.3. Sét
Sét keolin được phân bố ở xã An Long, Phú Cường, Phú Đức, Phú Hiệp có nguồn gốc
trầm tích
sông. Đây là nguồn nguyên liệu phát triển sành sứ, đồ mỹ nghệ nhưng chưa được
khai thác sử dụng.
Sét gạch ngói hiện có ở hầu hết ở các xã trong huyện, có trữ lượng lớn có tầng
dầy hơn 10 mét,
đã được khai thác sử dụng trong sản xuất gạch ngói.
2.1.8 .Đánh giá điều kiện tự nhiên [29, tr.11]
HTN có hệ thống giao thông thuỷ, bộ phân bố đều trê
n địa bàn toàn huyện nên rất thuận lợi
trong việc lưu thông hàng hoá tiếp cận thị trường.
Khí hậu tương đối ôn hoà nền nhiệt độ cao đều trong năm thuận cho sinh trưởng và
phát triển
nhiều loại cây trồng, vật nuôi.
Địa hình bằng phẳng, hệ thống thuỷ lợi tốt thuận lợi cho việc canh tác và nuôi
trồng thuỷ sản.
Đặc biệt trong huyện còn có Vườn Quốc Gia Tràm Chim, đây chính là một ĐTM thu
nhỏ với
lịch sử tự nhiê
n của vùng sinh thái tổng hợp, có nhiều loài động, thực vật. Nơi đây có thể xây
dựng
thành khu du lịch sinh thái thu hút khách trong và ngoài nước.
Ngập lũ hàng năm mang lại lượng phù sa và nguồn thuỷ sản tự nhiên dồi dào và rất
thuận lợi
nuôi tôm mùa lũ.
Tuy nhiên huyện lại nằm sâu trong vùng ĐTM nên chưa thật sự thu hút các nhà đầu
tư , lũ lụt
cũng gây ra nhiều thiệt hại tài sản, công trình công cộng. Đất đai phần lớn còn
bị ảnh hưởng của phèn
nên năng xuất còn t
hấp so với một số huyện trong tỉnh, mùa kiệt nước sông xuống thấp dưới mặt đất
tự
nhiên nên không khai thác tưới tự chảy. Vì vậy, để có thể khai thác, tận dụng
những thuận lợi và hạn
chế tác hại của thiên nhiên, đảm bảo ổn định sản xuất và sinh hoạt, cần phải có
hệ thống công t
rình
thuỷ lợi cơ bản hoàn chỉnh[13, tr.11].
2.2.TÌM HIỂU VỀ HIỆN TRẠNG KINH TẾ XÃ HỘI CỦA HUYỆN TAM NÔNG
2.2.1. Dân số và nghề nghiệp
Lịch sử hình thành vùng đất và con người HTN gắn liền với lịch sử hình thành và
phát triển
vùng ĐTM, HTN có hơn 80% diện tích đất phèn và lại thuộc vùng chiến tranh nên
kinh tế xã hội trong
khu vực này có phần lạc hậu hơn so với các khu vực khác trong tỉnh Đồng Tháp
[12].
Toàn HTN có 4 dân tộc anh em sinh sống, gồm: Kinh, Khơ me, Hoa, An Độ, trong đó
phần lớn
là dân tộc Kinh chiếm 99,9%. mật độ phân bố dân cư trong huyện không đều, nơi
nào kinh tế phát triển
dân cư tập trung nhiều, nhiều nhất là thị trấn Tràm
Chim ( 792 người/ km
2
), nơi đây cũng chính là
trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá và cũng là địa bàn trụ sở khối cơ quan của
huyện [12], [29].
Đến tháng 07 năm 2002 toàn huyện có 56.385 lao động chiếm 59% dân số, chủ yếu là
lao động
nông nghiệp chiếm 84,79%. Trình độ lao động phổ thông là chủ yếu chiếm 91,11%,
lao động có trình
độ cao chỉ chiếm 2,89%. Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ,
nên lao động nông
nghiệp bị dư thừa, việc mở mang sản xuất các ngành thương mại, dịch vụ sẽ tận
dụng được số lao động
dư thừa nà
y [29, tr. 22].
Dân số trung bình năm 20004 ước tính là 97.433 người với 22.238 hộ, mật độ dân
số trung bình
là 211người/ km
2
, được phân bố không đều giữa các xã, thị trấn ( bảng 2.3) [29, tr 22].
Trong thương mại để đáp ứng nhu phát triển kinh tế xã hội của huyện, thì việc
đào tạo nâng cao
chất lượng, trình độ lao động là vấn đề được quan tâm để đáp ứng cho sự công
nghiệp hoá, hiện đại
hoá [29].
Bảng 2.3: Dân số trung bình và mật độ dân số năm 2004 p
hân theo xã – thị trấn
Số
TT
Tên xã, thị trấn Số hộ
( hộ)
Dân số
(người)
Tỷ lệ tăng tự
nhiên(%)
Mật độ dân số
(người/km
2
)
1 TT Tràm Chim 2.309 9.549 1,008 792
2 Xã An Hoà 2.116 9.520 1,004 380
3 Xã An Long 2.952 13.065 1,219 762
4 Xã Phú Ninh 1.804 7.580 1,279 559
5 Xã Phú Thành A 2.772 12.891 1,169 628
6 Xã Phú Thọ 2.285 10.468 1,316 173
7 Xã Phú Cường 1.949 8.647 1,211 155
8 Xã Phú Đức 1.380 6.140 1,495 122
9 Xã Tân Công Sính 1.087 4.491 1,225 59
10 Xã Phú Thành B 923 3.690 1,534 74
11 Xã Phú Hiệp 1.720 7.425 1,397 154
12 Xã Hoà Bình 941 3.967 1,590 127
Tổng kết toàn huyện 22.238 97.433 1,24 211
Nguồn: Phòng nội vụ LĐTBXH huyện Tam Nông
Trong những năm gần đây mức sống của dân cư có sự tiến bộ rõ rệt nhờ vào sự quan
tâm của Đảng và
Nhà Nước ta với những chính sách cụ thể kịp thời cùng với sự nổ lực của nhân dân
ta. Tuy nhiên
bên cạnh đó vẫn còn những vấn đề khó khăn, nhất là nhà ở, vốn đầu tư sản xuất,
tỷ lệ hộ nghèo
vẫn còn (16,53%) [12].
1.2.2. Tình hình phát triển kinh tế xã hội
1.2.
2.1. Khái quát về hiện trạng kinh tế xã hội [11], [12], [29]
Trong những năm qua, thiên tai, lũ lụt xảy ra liên tiếp đã ảnh hưởng rất lớn đến
sự tăng trưởng
kinh tế của huyện, năm 1996 tốc độ tăng trưởng đạt 6,45% (tốc độ tăng trưởng
kinh tế của tỉnh Đồng
Tháp đạt 7,15%), năm 2000 tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 5,06% (tốc độ tăng
trưởng ki
nh tế của tỉnh
Đồng Tháp đạt 5,54%), bình quân tốc độ tăng trưởng kinh tế 1996-2000 là 5,81%,
năm 2001 tốc độ
tăng trưởng 6,19%. Nếu xét về tốc độ tăng trưởng kinh tế qua từng năm và xét
chung cả giai đoạn thì
đây là tốc độ tăng trưởng không ổn định và thấp hơn so với tỉnh (tỉnh đạt
6,86%). (Bảng 2.4)
Bảng 2.4: Tăng trưởng và cơ cấu kinh tế
(Gía cố định
1994 tính theo
triệu đồng)
Nguồn : Quy
hoạch
tổng thể
phát triển kinh
tế- xã hội và
phòng thống kê
HTN, 2004
Các
ngành kinh tế
của huyện đã có
bước chuyển
dịch theo hướng
tăng dần tỷ
trọng đối với
ngành công
nghiệp và dịch
vụ, tuy nhiên sự chuyển dịch xảy ra còn chậm, vì vậy khu vực nông lâm ngư nghiệp
không chỉ giữ vai
trò quan trọng tr
ong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà còn có vai trò quyết định đối với tốc độ
phát
triển kinh tế của huyện.
Qua các năm
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
1996
2000
BQ
1996-
2000
2001
1.Tổng GDP
Triệu đồng
279.836
348.656 -
370.250
2.Tốc độ tăng
trưởng
%
6,45
5,06 5,81
6,19
a.Nông - Lâm –
ngư nghiệp
%
4,57
4,23
4,71
4,72
b. Công nghiệp
–xây dựng
%
11,89
9,95 12,48
18,00
c. thương mại –
dịch vụ
%
25,63
9,40 14,01
14,00
3. cơ cấu kinh tế
%
100,00
100,00 100,00
100,00
a.Nông - Lâm –
ngư nghiệp
%
86,09
83,21 -
84,13
b. Công nghiệp
–xây dựng
%
2,59
3,23 -
3,05
c. thương mại –
dịch vụ
%
11,32
13,56 -
12,82
4. GDP/ người
1000đ/ người
3,342
4,077 -
3,880
1.2.2.2. Thực trạng phát triển các ngành kinh tế [29, tr.13 – 21], [30]
Nông- lâm- thuỷ sản
+Nông nghiệp:
Ngành nông nghiệp HTN luôn giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong nền kinh tế, là
nguồn sống
của đại bộ phận dân cư, trong những năm gần đây ngành nông nghiệp phát triển
trong điều kiện hết
sức khó khăn, vào mùa mưa, lũ lớn xảy ra liên tiếp nhiều năm (1994, 1996, 1999,
2000, 2001), nước lũ
lên xuống thất thường gây khó khăn trong công tác phòng chống, vào m
ùa khô nắng hạn kéo dài kết
hợp với giá cả thị trường tiêu thụ hàng hoá nông sản bấp bênh … gây thiệt hại
nặng nề đến sản xuất và
đời sống của nhân dân. Tuy vậy, nhưng nhờ có sự quan tâm hỗ trợ của tỉnh. Sự
lãnh đạo trực tiếp của
huyện Uỷ; Uỷ ban nhân dân HTN; sự phối hợp các ngành các cấp và sự nổ lực của bà
con nông dân đã
đưa cơ cấu các ngành chuyển dịch
theo hướng giảm tỷ trọng giá trị sản xuất chăn nuôi, tăng tỷ lệ trồng
trọt, nhưng chuyển dịch còn rất chậm và không ổn định. Năm 1995 cơ cấu ngành
nông nghiệp: Trồng
trọt chiếm 92,82%; chăn nuôi chiếm 6,18%; năm 2000 cơ cấu ngành nông nghiệp:
Trồng trọt chiếm
92,35%; chăn nuôi chiếm 7,65%, năm 2001 trồng trọt chiếm 93,89%; chăn nuôi chiếm
6,11% ( bảng
2.5).
Bảng 2.5 : Cơ cấu ngành nông nghiệp 1995 ,2000, 2001 HTN
Năm Trồng trọt (tỷ lệ%) Chăn nuôi (tỷ lệ%)
1995 92,82% 6,18%
2000 92,35% 7,65%
2001 93,89% 6,11%
Nguồn : Phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn HTN,2003
Trồng trọt vẫn còn ở thế độc canh cây lúa, phát triển trồng trọt chưa cân đối
đối với chăn nuôi,
thuỷ sản và dịch vụ nông nghiệp.
Chăn nuôi phát triển theo hướng đa dạng hoá vật nuôi tăng dần sản phẩm hàng hoá.
Tuy nhiên
giai đoạn 1996 - 2000 phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của huyện. Năm
2001và 2002 đàn bò,
đàn heo và gia cầm đã phát triển mạnh.
+Lâm nghiệp :
Cây Tràm là thế mạnh về lâm
nghiệp của HTN. Mặc dù được trú trọng bảo tồn và trồng mới
song diện tích rừng cũng có những biến đổi như sau [29]: Năm 1995 diện tích rừng
là 3.532,12 ha; năm
2000 diện tích rừng là 6.326,31 ha; năm 2002 diện tích rừng là 6.699,32 ha cùng
với việc mở rộng và
khôi phục diện tích rừng Tràm, cây phân tán (chủ yếu là cây Bạch đàn cũng được
trồng trên cụm tuyến
dân cư, đê bao, lộ giao thông, qua
nh nhà ở của dân với số lượng tăng nhanh).
+Thuỷ sản:
Nghề nuôi thuỷ sản được xác định là thế mạnh thứ hai sau cây lúa ở HTN, vì có
nhuồn thủy vực
rộng lớn nhất là vào mùa lũ nên nhân dân đã tận dụng nuôi trồng và khai thác
thuỷ sản tự nhiên.
Năm 1991- 1995 phong trào nuôi trồng thuỷ sản chưa phát triển, nhân dân khai
thác chủ yếu là
đánh bắt tự nhiên.
Giai đoạn 1996- 2002 việc nuôi trồng khai thác thuỷ sản phát triển rõ nét. Về
diện tích năm 1996 là
137,5 ha 3.073 tấn; năm 2000 là 108,92 ha; năm 2002 là 141,24 ha . Về sản lượng
1996 là 3.073 tấn ;
năm 2000 là 7.300 tấn ; năm 2002 là 7.973,6 tấn .
Bảng 2.6: Sản lượng thuỷ sản qua các năm
Năm Chỉ tiêu Đơn
vị
tính
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
1.Giá t
r
ị sản
xuất (giá cố
định năm
1994)
Triệu
đồng
25.940
32.42
5
42.15
9
45.83
3
49.51
4
-
-
2. Tổng sản
lượng
thuỷ sản
Tấn
3.073,5 5.519 475 6.800 7.300 7.478,6 7.973,6
- Cá Tấn 3.068 5.512 5.468 6.374 6.630 6.830 7.954
- Tôm Tấn 5,5 7 7 6 9 8,6 13,70
- Thuỷ sản
khác
Tấn - - - 420 661 640 5,9
Nguồn: Niên giám thống kê HTN, năm 2004
Năm 2004, diện tích nuôi trồng thuỷ sản đạt 176 ha. Sản lượng thuỷ sản đạt 8.992
tấn tăng
17,83% so với năm 2003, trong đó sản lượng nuôi trồng thuỷ sản đạt 7.045 tấn,
tăng 55,39 % so với
năm 2003. Gía tri sản xuất năm 2004 hiện thực 89.243 triệu đồng ( theo giá thực
tế ), tăng 16% so với
năm 2003.
Nhìn chung tình hình sản xuất Nông – Lâm – Thuỷ sản của HT
N có bước chuyển biến tích cực,
cùng với việc đẩy mạnh và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đã
đưa nền nông
nghiệp sản xuất luơng thực phát triển tương đối toàn diện cả nông – thuỷ sản
liên tục đạt đỉnh cao về
diện tích, năng suất và sản luợng (cụ thể qua bảng 2. 7) [12].
Bảng 2.7: Một số chỉ tiêu về phát triển nông - lâm - thuỷ sản t
hời kỳ
2001 - 2004
Chỉ tiêu
ĐVT Năm
2001
Năm
2002
Năm
2003
Năm
2004
Diện tích lúa Ha 49.289 54.226 56.233 58.416
-Đông xuân
-Hè thu
-Thu đông
Ha
Ha
Ha
30.211
19.078
-
30.287
23.939
-
30.151
26.082
-
30.416
28.000
-
Sản lượng
-Đông xuân
-Hè thu
- Thu đông
Tấn
Tấn
Tấn
Tấn
242.100
176.326
65.774
-
279.002
182.852
96.150
-
295.093
188.444
106.649
-
38.710
185.963
132.747
-
Năng xuất bình quân Tạ/ Ha 49,77 51,45 52,48 54,56
Sản lượng lúa bình
quân đầu người
Kg/người 2.538 2.900 3.053 3271
Diện tích cây ăn trái Ha 63 69 70 70
Sản lượng heo
( thòi điểm 1/10)
Con 14.600 14.662 16.700 18.519
Sản lượng bò
( thòi điểm 1/10)
Con 230 411 539 616
Sản lượng thịt hơi
xuất chuồng
Tấn 1.740 1.801 1937 2.128
Diện tích mặt nước
nuôi trồng thuỷ sản
Ha 160 170 171 176
Sản lượng nuôi trồng
thuỷ sản
Tấn 3.333 4.493 4.598 7.145
Nguồn: Phòng Thống kê HTN, năm 2004
1.2.2.3 Y tế, giáo dục
Y tế:
Hệ thống cơ sở y tế của huyện đã phát triển ở hầu hết các xã, thị trấn, gồm một
bệnh viện và
mười hai trạm y tế xã. Với số cán bộ ngành 248 người.
Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được quan tâm hơn với phương
châm dự
phòng tích cực, nên nhiều năm qua không để dịch lớn xảy ra.
Gi
áo dục:
Được sự quan tâm của các cấp Đảng Uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện, ngành giáo dục đã
có những
tiến bộ đáng kể, xây dựng cơ sở vật chất, phát triển mạng lưới trường học ngày
càng nhiều hơn. Năm
1996 toàn huyện có 27 trường với 275 phòng học; năm 2000 có 32 trường với 385
phòng học; năm
2002 có 41 trường với 397 phòng học. Số học sinh đến trường ngày một tăng lên
,năm
1996 có 16.035
học sinh; năm 2000 có 17.037 học sinh; năm 2002 có 20.393 học sinh.
Về chất lượng giáo dục cũng tăng dần, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp tăng qua
các năm, chất
lượng giáo viên cũng được tăng lên, hơn 90% giáo viên đã được chuẩn hoá về sư
phạm ở tất cả các
ngành các bậc học.
Công tác phổ cập giáo dục và chống mù chữ có nhiều chuyển biến tích cực, toàn
huyện có
12/
12 xã, thị trấn đạt chuẩn về giáo dục tiểu học và chống mù chữ.