Luận văn Thạc sĩ Sinh học: Xây dựng bản đồ phân vùng sinh thái môi trường đất phục vụ quy hoạch phát triển nuôi tôm càng xanh huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp
1,650
75
95
Hình 3: Qui trình thực hiện thành lập dữ liệu hệ thống thông tin địa lý ( GIS)
5.4. Phương pháp xử lý số liệu
Nhập, xử lý các số liệu phân tích bằng phần mềm Excel: Nhập các kết quả thống kê
điều tra đã
thực hiện ở trên; các kết quả phân tích mẫu và xử lý để đưa ra các sai số, độ
tin cậy (f), độ tương quan
(r) của các dãy số liệu, . . .
Xử lý dữ liệu đã số hóa và xây dựng bản đồ bằng Ma
pinfo, Arcinfo
Quản lý và truy vấn số liệu các lớp thông tin trên Arcview.
5.5. Phương pháp chuyên gia
Dựa vào điều kiện của địa phương, xây dựng trong việc lựa chọn các các vấn đề
chính, xây
dựng khung phân vùng, lựa chọn phân vùng và cuối cùng là vạch ra phân vùng chi
tiết…
Tham khảo ý kiến:
- Kỹ sư thuỷ sản: Nguyễn Văn Thông , chức vụ Phó phòng Nông nghiệp phát triển
nông thôn
HTN.
-Tiến sĩ: Hà Nhựt Long, chúc vụ Trưởng bộ m
ôn Thuỷ sản nước ngọt của trường Đại học Cần
Thơ.
5.6. Phương pháp xây dựng vùng thích hợp điều kiện sinh thái môi trường đất để
phục vụ quy
hoạch phát triển nuôi TCX
Cắt bản đồ
Số hóa bản đồ HTN
để khởi tạo cơ sở dữ
liệu nền
Bản đồ số hóa HTN
Xây dựng cơ sở dữ liệu
n
ề
n từ ngu
ồ
n dữ liệu bản
đồ được số
hóa
Chuẩn bị dữ liệu mẫu,
số liệu thực
địa
Nhập vị trí và kết quả
phân tích mẫu
Hiệu chỉnh dữ liệu,
biên tập và in ấn bản
đồ chuyên đề
Hiệu chỉnh dữ liệu
Sử dụng phần mềm
Mapinfo
Bản đồ lưu trong máy tính, có thể cập nhập sửa chữa
bổ sung, ứng dụng trong các mục đích khác
Trên cơ sở hiện trạng, xác định các vùng dẫn dụng các mục tiêu cụ thể cho từng
vùng sinh thái
môi thái môi trường đất , vạch ra những nét chính cho từng vùng nuôi TCX để đem
lại sự phát triển
bền vững cho huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Thực hiện đường lối đổi mới, TĐT đã đạt được những thành tựu quan trọng trên
nhiều
lĩnh vực, nhất là sản xuất Nông – Lâm – Ngư nghiệp đã góp phần phát triển kinh
tế ổn định xã
hội, đạt mức tăng trưởng cao so với trung bình cả nước. Trong đó hoạt động sản
xuất thuỷ sản
đã góp phần không nhỏ, chiếm một tỷ trọng cao trong cơ cấu Nông – Lâm
– Ngư nghiệp của
tỉnh. Đặc biệt trong nuôi trồng thuỷ sản có bước phát triển nhanh về diện tích,
năng suất và sản
lượn, cung, cấp một lượng hàng hoá lớn cho tiêu dùng và xuất khẩu. Mặt khác nuôi
trồng thuỷ
sản cũng đã góp phần đáng kể vào việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở nông thôn. Tuy
nhiên trong
quá trình phát triển vẫn còn đan xen những khó khăn bất cập làm
hạn chế sự tăng trưởng trong
sản xuất thuỷ sản bền vững [31].
Thực hiện chỉ đạo của Tỉnh Uỷ, Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh, Sở Nông nghiệp & Phát triển
nông thôn TĐT đã nghiên cứu xây dựng “Đề án quy hoạch phát triển sản xuất thuỷ
sản đến năm
2010”. Đề án quy hoạch phát triển thuỷ sản là sự tập hợp những ý tưởng, nguyện
vọng phát
triển thuỷ sản thông qua các chương trình hành động, các mục tiêu phát triển cụ
thể nhằm tạo
sự phát triển bền vững trong tương lai. Đề án quy hoạch phát triển thuỷ sản sẽ
tìm ra những
phương pháp tiếp cận hợp lý các phương án sản xuất hiệu quả cao [31, tr. 2].
Đề án quy hoạch phát triển sản xuất thuỷ sản đến năm 2010 của TĐT thực hiện
thành
công thì không thể th
iếu được phân vùng sinh thái môi trường nuôi trồng thuỷ sản. Phân vùng
sinh thái môi trường nuôi trồng thuỷ sản, ngoài việc nó liên quan chặt chẽ đến
phân vùng chất
lượng nước phục vụ nuôi trồng thuỷ sản nó còn liên quan đến phân vùng sinh thái
môi trường
đất phục vụ nuôi trồng thuỷ sản.
NTTS đã trở thành thế mạnh kinh tế quan trọng của ĐBSCL. Tổng diện tích có khả
năng
phát triển NTTS của vùng năm 2001- 2005 lên đến 1.304.530 ha, với nhiều loại hì
nh nuôi, khả
năng nuôi mặn lợ mặn 826.780 ha, diện tích có khả năng nuôi nước ngọt là 77.740
ha. Diện tích
nuôi của vùng tăng từ 510.160 ha năm 2001 lên 708.300 ha năm 2005 [10].
Theo số liệu thống kê, năm 1990 ở Việt Nam có hơn 96.000 ha diện tích mặt nước
nuôi
tôm, với sản lượng gần 33.000 tấn/năm. Đến năm 1995, diện tích mặt nước nuôi tôm
tăng lên
hơn 216.657ha, với sản lượng là 55.593 tấn/năm, và đến năm 2004 diện tích mặt
nước nuôi là
587.426ha, với sản lượng trên 290.000 tấn/năm. Trong đó, diện tích nuôi công
nghiệp và bán
công nghiệp là 42.31ha (chiếm khoảng 7, 2% diện tích); còn lại là quảng canh,
quảng canh cải
tiến (báo cáo NTTS năm 2004, Bộ Thủy sản).
1.1. SINH THÁI MÔI TRƯỜNG ĐẤT LÀ GÌ?
C.Linne – nhà khoa học tự nhiên vĩ đại, người cha đẻ của khoa học phân loại và
hệ thống
sinh vật học đã từng chia thế giới thành ba thể tự nhiên là: khoáng vật, thực
vật, động vật. Đến
cuối thế kỷ XIX, nhà khoa học Nga V. Dokuchaev, người khai sinh khoa học thổ
nhưỡng
học lại phân biệt thêm
một thể thứ tư là đất. Sống trong đất, đó là cuộc sống âm thầm trong
bóng tối của muôn vàn sinh vật nhỏ bé và bí ẩn. Đây là một môi trường sống đặc
thù, với cấu
trúc ba thể rắn, lỏng, khí mà trong đó mang chứa cả một thế giới sinh vật vô
cùng đa dạng và
phong phú, từ đơn bào đến đa bào như các nhóm vi khuẩn, tảo, nấm, nhiều vi sinh
vật, vi thực
vật, động vật không xương sống và các nhóm
động vật có xương sống khác [17].
Theo Dokuchaev mỗi loại môi trường đất bao gồm các hệ sinh thái tự nhiên (Nature
body) phân bố trong một không gian nhất định, được hình thành bởi các nhân tố đá
mẹ, sinh
vật, địa hình và tác động của con người [2]. Dokuchaev (1897) định nghĩa đất: ”
Đất là một vật
thể thiên nhiên cấu tạo độc lập, lâu đời do kết quả của quá trình hoạt động tổng
hợp của 5 yếu
tố hì
nh thành gồm: Đá, động vật, thực vật, khí hậu, địa hình và thời gian” [ Cục môi
trường
(1997), Tài liệu tập huấn về quản lý và kinh tế môi trường, cục Môi Trường Hà
Nội].
Jofte và cộng sự đã phát triển: Hệ sinh thái môi trường đất như là một hệ tự
nhiên bao
gồm sinh vật và các vật chất vô sinh, mỗi hệ có một đặc trưng nhất định [2].
Winkler (1968) xem đất “Là một vật thể sống” hay “Một m
ôi trường sinh thái hoàn
chỉnh”.
GS- TSKH Lê Huy Bá cũng đã nhận định: Cũng như mọi môi trường sinh thái khác,
môi trường sinh thái đất
cũng có những hệ thống riêng biệt của nó. Mỗi môi trường sinh thái đất cũng có
thể có một hay nhiều hệ
sinh thái tồn tại mà trong đó các nhân tố sinh vật như vi sinh vật phân giải yếm
khí, háo khí, thiếu khí, vi
sinh vật tổng hợp, thực vật không diệp lục, rễ cây, động vật sống trong đất và
trên mặt đất . . . Tất cả tạo
nên một hệ, liên quan khăng khít với nhau, cùng tồn tại và phát triển trong m
ôi trường đất. Hệ sinh thái này
bị phá huỷ khi các mắt xích quan trọng trong hệ bị tiêu huỷ [2], mối quan hệ
giữa đất với các yếu tố khác
trong môi trường theo quan điểm đất là một môi trường sinh thái có thể minh hoạ
qua hình 1.1
Từ các nghiên cứu khu hệ sinh vật đất sẽ có những đề xuất góp phần cải tạo và
tăng độ
phì của đất, đất hoang, đất bạc màu, góp phần đánh giá sắp xếp các vùng địa lý
tự nhiên, các
vùng sinh thái, quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp [17], lâm nghiệp, thuỷ
sản...
Cấu tử đất Môi trường vật lý
Tác động của con người Hệ động vật
Các nguồn năng lượng Hệ thực vật
Tầng mùn
Mẫu chất
Đá mẹ
Hình 1.1: Sơ đồ biểu thị khái niệm đất là một môi trường sinh thái
1.2. PHÂN VÙNG SINH THÁI
Khi nó đến phân vùng thì có rất nhiều kiểu phân vùng như: phân vùng văn hoá,
phân
vùng đánh bắt cá bờ biển, phân vùng động đất, phâ
n vùng hành chánh, phân vùng kinh tế – xã
hội, phân vùng nước, phân vùng sinh thái…
Trong phân vùng sinh thái lại có rất nhiều kiểu vì trong tự nhiên và hoạt động
sống của
con người có rất nhiều hệ sinh thái như: HST nông nghiệp, HST môi trường đất,
HST nuôi
trồng thuỷ sản, HST rừng ngập mặn, HST nhiệt đới,… Mỗi kiểu phân vùng hệ sinh
thái, đều có
đặc thù riêng để làm tiêu chí, cơ sở xem xét để phân vùng sinh thái.
- Viện quy hoạch thiết kế nông nghiệp (1996), dựa vào các tiêu chí: Vị trí địa
lý, địa
hình, khí hậu thuỷ văn, thổ nhưỡng, khả năng sử dụng đất đã phân vùng sinh thái
nông nghiệp
Việt Nam thành 5 miền sinh thái: Miền sinh thái nông nghiệp phía bắc; Miền sinh
thái nông
nghiệp Bắc trung bộ – đông Trường Sơn; Miền sinh thái nông nghiệp Tây Trường Sơn
– Nam
Đất
bộ; Miền sinh thái nông nghiệp Bắc biển Đông; Miền sinh thái nông nghiệp Nam
biển Đông [5,
phụ lục].
- Một nghiên cứu mới được công bố vào ngày 2, tháng 07, năm 2007 trong tạp chí
Bioscience, báo cáo này có tiêu đề “ Các vùng sinh thái biển của thế giới: Phân
vùng sinh học
các khu vực ven bờ và thềm lục địa - Marine Ecoregions of the World: A
bioregionalization of
coast and shelf areas”, do nhà khoa học về hải dương học Mark Spalding của The
Nature
Conservancy và Helen Fox, cùng với nhà sinh vật học biển làm việc cho tổ chức
World
Wildlife Fund cùng với nhiều người khác cùng nghiên cứu.
- Cho đến nay, trên thế giới đã và đang
có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến
phân vùng nuôi thuỷ sản, đặc biệt vấn đề phân vùng chất lượng nước cho việc nuôi
thuỷ sản
nhằm mang lại môi trường tối ưu cho các loài thuỷ sản. Các nghiên cứu môi trường
đưa ra các
tiêu chuẩn thích hợp cho từng loại thuỷ sản đặc trưng như: Tôm, cá,… trong đó
bao gồm tiêu
chuẩn môi trường cơ bản như: Nhiệt độ, pH, hàm lượng oxy hoà tan trong nước, các
chất độc
[7
]. Bên cạnh đó, tuỳ từng loài thuỷ sản, tuỳ tính chất của từng vùng và môi
trường khu vực mà
từng quốc gia, từng khu vực có lĩnh vực nghiên cứu đặc thù riêng.
- Về việc phân vùng sinh thái môi trường nuôi tôm càng xanh chưa có nghiên cứu
cụ thể
mà chỉ lồng ghép chung trong chương trình phân vùng sinh thái môi trường nuôi
trồng thuỷ sản
song song đó khu vực phân bố của TCX trên thế giới có phần hạn chế ( xem phần
3.1 của
chương 3), nên việc phân vùng sinh thái m
ôi trường nuôi tôm càng xanh trên thế giới chưa
được nghiên cứu sâu.
Việt Nam, TCX là một trong những loài thuỷ sản nước ngọt có giá trị kinh tế cao
nên rất
được trú trọng. Có rất nhiều nghiên cứu về TCX cũng như có nhiều dự án về phân
vùng phát
triển như: TCX và tôm Sú của Dương Tấn Lộc (2001), của Lê Văn An, Nguyễn Trung
Nghĩa.
Kết quả nghiên cứu công nghệ di truyền điều khiển giới tính TCX nhằm
nâng cao năng suất
chất lượng sản phẩm( GS. TS Trần Mai Thiên và các cộng sự năm 2006)… Còn những
vấn đề
liên quan đến việc quy hoạch hợp lý và phát triển bền vững nghề nuôi trồng thuỷ
sản Việt Nam
còn rất hiếm. Trước đây có Lê Xuân Thuyên (2001), nghiên cứu về phân vùng sinh
thái nuôi
tôm cho bán đảo Cà Mau. Gần đây những nghiên cứu về đánh giá hiệu quả kinh tế
của các mô
hình nuôi thuỷ sản ở vùng Đông Nam
Bộ của Viện Thuỷ Sản II cũng đã bước đầu nghiên cứu
phân vùng thuỷ sản cho các tỉnh ven biển ĐBSCL (Lê Huy Bá và cộng tác viên,
2003).
Nuôi trồng thuỷ sản đang từng bước trở thành một trong những ngành sản xuất hàng
hoá
chủ lực, phát triển rộng khắp và có vị trí quan trọng và đang tiến đến xây dựng
các vùng sản
xuất tập trung ở nước ta nói chung và ở TĐT nói riêng. Thời kỳ này thuỷ sản trở
thành ngành
sản xuất hàng hoá đã được khẳng định từ giữa những năm 80 và gặt hái thành quả.
Từ năm
1990 trở lại đây nuôi tôm
cho xuất khẩu là một đột phá quan trọng, do đó phân vùng nuôi tôm
rất thiết yếu [7]. Tuy nhiên, việc phát triển diện tích nuôi trồng với tốc độ
nhanh hoàn toàn
mang tính tự phát. Các nghiên cứu về hình thức nuôi cũng như vùng nuôi chưa được
quan tâm
và đầu tư đúng mức. Do đó vấn đề phân vùng quy hoạch phát triển chưa kịp thực tế
nuôi nên
làm cho hiệu quả nuôi trồng thuỷ sản chưa cao song song đó ảnh hưởng xấu đến m
ôi trường
sinh thái khu vực. Để thúc đẩy nghề nuôi thuỷ sản phát triển theo hướng tăng
hiệu quả, đảm bảo
môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái, đòi hỏi phải quan tâm đến một số yêu cầu
nghiên cứu
khoa học trọng điểm liên quan đến vấn đề phân vùng sinh thái nuôi tôm và quy
hoạch vùng
nuôi.
Trong xu thế hội nhập kinh tế, quốc tế, đòi hỏi hàng hoá phải có chất lượng cao,
sản
phẩm k
hối lượng lớn ổn định, đáp ứng tiêu dùng và xuất khẩu. Vấn đề bảo vệ môi trường
trong
nuôi trồng thuỷ sản là một vấn đề có tầm chiến lược cần trú trọng quan tâm. Để
bảo vệ môi
trường trong phát triển nuôi trồng thuỷ sản HTN, cần: Tiến hành quy hoạch phát
triển NTTS và
quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của huyện. Phân chia vùng sinh thái trọng
điểm vùng nuôi
trồng t
huỷ sản đặc biệt nuôi TCX, phân vùng sinh thái ngập lụt, phân vùng sinh thái đầm
trũng
chua phèn để có thể đầu tư đồng bộ phát triển kinh tế nuôi trồng thuỷ sản của
huyện.
Việc phân vùng nuôi trồng thuỷ sản ĐBSCL nói chung HTN nói riêng không thể tách
rời
tính chất của đất đặc biệt là những vùng đất phèn vùng ĐTM, Tứ Giác Long Xuyên,…
Khi nói đến phân vùng đất lại có rất nhiều nghiên cứu về phân vùng đất, với các
mục
đích khác nhau như: Phân vùng đất nông nghiệp, phân vùng đất để xây dựng, phân
vùng đất để
phát triển kinh tế,… Ví dụ: Đề tài khoa học “ Thu t
hập, kiểm chứng các tài liệu đã có, nghiên
cứu bổ sung lập bản đồ phân vùng đất yếu Hà Nội phục vụ phát triển bền vững Thủ
đô” [8]. Do
đó đề tài “ Phân vùng sinh thái môi trường đất phục vụ quy hoạch phát triển nuôi
tôm càng
xanh huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp”, sẽ kế thừa các đề tài, các nhiên cứu, các
dự án có liên
quan đến sinh thái m
ôi trường đất; phân vùng sinh thái; thuỷ sản, điều kiện tự nhiên – xã hội
của khu vực nghiên cứu. Một số đề tài, dự án có liên quan đến phân vùng sinh
thái môi trường
đất phục vụ nuôi tôm càng xanh: “Phương án quản lý và sử dụng bền vững tài
nguyên thuỷ sản
Vườn Quốc Gia Tràm Chim, tỉnh Đồng Tháp”, Vườn Quốc Gia Tràm Chim, năm 1999; “Dự
án
phát triển tổng hợp thuỷ lợi vùng Bắc Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp”, Phân Viện khảo
sát quy
hoạch thuỷ lợi Nam Bộ, năm 1999; Dự án đầu tư (2006), “Dự án đầu tư thí điểm hạ
tầng thuỷ
lợi phục vụ nuôi tôm càng xanh trên chân ruộng đại điểm- xã Phú Thành B – huyện
Tam
Nông”, Đồng Tháp …
Để phân vùng sinh thái môi trường đất phục vụ nuôi trồng t
huỷ sản ở HTN một cách
khoa học cần phải có những nghiên cứu đầy đủ về tính chất, đặc điểm thổ nhưỡng,
địa hình -
địa mạo, khí hậu, thuỷ văn, lũ lụt, chất lượng nước, chế độ mưa, thảm thực vật…
Trong đó đất
và nước là hai yếu tố quan trọng nó đáp ứng những nhu cầu sản xuất khác nhau.
Định hướng
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội TĐT nói chung, HTN nói riêng thời kỳ 2001
– 2010, trong
đó xác định “ Phân vùng sinh t
hái môi trường đất phục vụ quy hoạch phát triển nuôi tôm càng
xanh “có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong phục vụ quy hoạch phát triển nuôi
trồng thuỷ sản
[7][38]. Việc phân vùng sinh thái môi trường đất liên quan đến các tài liệu đã
có, khảo sát bổ
sung lập bản đồ phân vùng đất, điều kiện tự nhiên, số liệu cần thiết phục vụ
công tác chỉ đạo,
quản lý, xây dựng cơ chế quản lý, khai thác bản đồ, tài liệu phân vùng đất của
HTN nhằm phục
vụ kịp thời định hướng phát triển của toàn xã hội.
CHƯƠNG 2: TÌM HIỂU VỀ HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN VÀ
KINH TẾ XÃ HỘI CỦA HUYỆN TAM NÔNG
2.1. TÌM HIỂU VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
2.1.1. Vị trí địa lý
Tam Nông là một trong những huyện nằm sâu trong vùng ĐTM thuộc phía bắc của tỉnh
Đồng
Tháp. HTN cách trung tâm hành chính của tỉnh 37 Km và cách TPHCM 220 Km đường
bộ.
Vị trí địa lý của HTN chạy dài từ toạ độ 10
0
39
’
đến 10
0
49
’
vĩ độ Bắc và 105
0
21
’
đến 105
0
41
’
kinh
độ Đông.
Ranh giới hành chánh của HTN được phân chia như sau (Bản đồ hành chánh huyện Tam
Nông):
Phía Bắc giáp hai huyện Hồng Ngự và Tân Hồng.
Phía Nam giáp huyện Thanh Bình.
Phía Đông giáp huyện Cao Lãnh, huyện Tháp Mười và tỉnh Long An.
Phía Tây giáp sông Tiền.
HTN nằm ở trung tâm phía bắc của tỉnh Đồng Tháp, có đoạn sông Tiền và Quốc lộ 30
đi
ngang qua, trên khắp địa bàn của huyện đều có mạng lưới giao thông đường bộ,
đường thuỷ, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc giao lưu hà
ng hoá và phát triển kinh tế [13], [29].
Toàn huyện có diện tích tự nhiên là 46.081,860 ha đựơc chia thành 11 xã và 1 thị
trấn, với 48
khóm ấp thể hiện qua bảng 2.1. Đặc biệt trên địa bàn huyện có Vườn Quốc Gia Tràm
Chim thuộc địa
phận 5 xã: Xã Tân Công Sính, xã Phú Đức, xã Phú Thọ, xã Phú Thành B, xã Phú Hiệp
và thị trấn
Tràm Chim [13],[29].
Bảng 2.1: Đơn vị hành chánh – Diện tích các xã trong HTN
Số
TT
Tên xã, thị trấn
Số ấp
Diện tích
tự nhiên
(ha)
Diện tích tự
nhiên
(Km
2
)
Diện tích
(%)
Tổng số
48 46.081,860 460,81 100
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Xã Tân Công Sính
Xã Phú Thọ
Xã Phú Cường
Xã Phú Đức
Xã Phú Thành B
Xã Phú Hiệp
Xã Hoà Bình
Xã An Hoà
Xã Phú Thành A
Xã An Long
Xã Phú Ninh
TT Tràm Chim
4
5
5
3
4
4
5
3
3
5
3
4
763.211
605.420
559.601
504.145
496.564
483.609
312.326
250.373
205.247
171.473
135.704
120.493
76,33
60,54
55,96
50,41
49,66
48,36
31,21
25,04
20,53
17,15
13,57
12,05
16,56
13,14
12,14
10,94
10,78
10.49
6,77
5,43
4,46
3,72
2,95
2,62
Nguồn: Niên Giám Thống Kê HTN, năm 2004
2.1.2. Địa hình, địa mạo
Địa hình toàn HTN mang tính chất của vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long tương đối bằng
phẳng,
không có chênh lệch lớn về độ cao. Tuy nhiên HTN lại nằm trong vùng trũng ĐTM
nên địa hình toàn
huyện tương đối thấp. Có thể chia địa hình HTN thành 3 nhóm chính [13]:
Nhóm 1: Nhóm địa hình cao: Có độ cao + 2,0 m tập trung chủ yếu ở các xã ven
sông Tiền và
rải rác một số nơi trong huyện theo dạng gò đồi.
Nhóm 2: Nhóm địa hình trung bình, có độ cao từ +1,5m đến +
2,0 m phần lớn tập trung ở phía
đông kênh 2/9 và phía bắc của huyện, một số ít rải rác trên địa bàn huyện. Trong
nhóm địa hình trung
bình này HTN có xây dựng “Dự án đầu tư thí điểm hạ tầng thuỷ lợi phục vụ nuôi
tôm càng xanh trên
chân ruộng”.
Nhóm 3: Nhóm địa hình thấp, có độ cao phổ biến từ + 0,9 m đến 1,5m chiếm hơn
60% diên tích của
toàn huyện.
Mặc dù có ba nhóm địa hình như vậy, nhưng trên từng tiểu vùng được giới hạn bởi
các kên
h
rạch chính và các kênh nhánh, chính vì thế mà trên từng tiểu vùng có địa hình
tương đối bằng phẳng,