Luận văn Thạc sĩ Quản trị văn phòng: Thực trạng văn hóa công sở tại Công ty cổ phần Hanel Xốp nhựa
1,085
503
89
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
SV: Nguyễn Thị Bích Ngọc Lớp: ĐH QTVP K13D
4
- Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thanh Hà về đề tài: “Văn hóa công sở trong
các cơ quan hành chính cấp tỉnh ở Bắc Ninh hiện nay”(2015)
- Luận văn thạc sĩ của Trần Thị Lan Phương “Phát triển văn hóa công sở tại chi
cục hải quan Hải Dương”(2015). Luận văn đã trình bày về tình hình thực tế tại
Chi cục Hải quan Hải Dương, luận văn thực hiện phân tích và đưa ra các đánh giá
chủ
quan về tình hình phát triển văn hóa hoạt động của Chi cục; Đưa ra quan điểm về
việc
phát triển VHCS tại Chi cục Hải quan Hải Dương và đề xuất một số kiến nghị nhằm
giúp cho việc củng cố và phát triển VHCS tại Chi cục được thiết thực, hiệu quả
hơn.
- Luận văn thạc sĩ của Bùi Thị Quyên về đề tài “Hoàn thiện văn hoá công sở tại
cơ quan Bảo hiểm xã hội thành phố Thái Nguyên”(2013). Luận văn đã trình bày về
cơ
sở lý luận về văn hoá và văn hoá công sở ; Thực trạng văn hoá công sở tại cơ
quan
Bảo hiểm xã hội thành phố Thái Nguyên và đánh giá chung về thực trạng văn hoá
công sở cơ quan Bảo hiểm xã hội thành phố Thái Nguyên sau khi đã điều tra 02
nhóm
đối tượng là cán bộ công chức viên chức Bảo hiểm xã hội và khách hàng; Giải pháp
hoàn thiện văn hoá công sở tại cơ quan Bảo hiểm xã hội thành phố Thái Nguyên về
các nhân tố vật chất i với các nhân tố tinh thần.
- Luận văn cử nhân của Vũ Thị Phụng về đề tài “Một số giải pháp nâng cao văn
hóa công sở trong các cơ quan hành chính nhà nước” (2007).
- Khóa luận tốt nghiệp của Vũ Thị Lan Hương về đề tài “Tìm hiểu quy định của
một số cơ quan Nhà nước về văn hóa giao tiếp, ứng xử của cán bộ, công nhân, viên
chức”.
- Khóa luận tốt nghiệp của Đặng Trần Nha Trang về đề tài “Thực trạng và giải
pháp xây dựng văn hóa công sở tại Ngân hàng TMCP thương mại An Bình” (2015).
- Khóa luận tốt nghiệp của Cao Thị Thùy Linh về đề tài “Vai trò của văn phòng
trong việc xây dựng văn hóa ứng xử tại một số doanh nghiệp vừa và nhỏ” (2015).
- Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Kim Chi về đề tài “Nâng cao hiệu quả
Văn hóa công sở tại Viện Thông tin khoa học – Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh” (2016).
3. Mục tiêu nghiên cứu
Thực trạng văn hóa công sở tại Công ty cổ phần Hanel Xốp nhựa. (theo đề
nghị của giảng viên hướng dẫn)
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận của VHCS như khái niệm VHCS và vai trò của
VHCS tại HNP.
- Khảo sát và đánh giá thực trạng VHCS tại HNP.
- Nghiên cứu và đưa ra những giải pháp hoàn thiện tình hình VHCS tại HNP.
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
SV: Nguyễn Thị Bích Ngọc Lớp: ĐH QTVP K13D
5
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng VHCS tại HNP.
Phạm vi nghiên cứu: Tại HNP từ năm 2014 đến nay.
6. Giả thuyết nghiên cứu:
Việc đi vào tìm hiểu về thực trạng VHCS tại HNP là góp phần đánh giá việc
thực hiện VHCS, tạo thêm nguồn dữ liệu thực tiễn làm cơ sở cho việc hoạch định
những chính sách, giải pháp phù hợp nhằm khắc phục những hạn chế về VHCS tại tại
Công ty cổ phần Hanel Xốp nhựa. Và cũng là góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng
một nền hành chính trong sạch, minh bạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại
hoạt
động có hiệu lực nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai
đoạn mới.
7. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra quan sát, phỏng vấn trực tiếp.
- Phương pháp thu thập và xử lý thông tin.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp.
- Phương pháp ghi chép, chụp ảnh.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu khảo sát. (theo đề nghị của giảng viên hướng
dẫn)
8. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài chia làm 3
chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về văn hóa công sở
- Chương 2: Thực trạng văn hóa công sở tại Công ty cổ phần Hanel Xốp nhựa.
- Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện văn hóa công sở tại Công ty cổ
phần Hanel Xốp nhựa.
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
SV: Nguyễn Thị Bích Ngọc Lớp: ĐH QTVP K13D
6
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA CÔNG SỞ
1.1. Một số quan niệm
1.1.1. Quan niệm về văn hóa
Văn hóa là một một hiện tượng khách quan, là lĩnh vực tồn tại và phát triển gắn
liền với đời sống tinh thần của nhân loại, là đặc trưng riêng của con người. Văn
hóa là
một lĩnh vực rộng lớn, rất phong phú và phức tạp nhưng trong quá trình phát sinh
và
phát triển, đời sống văn hóa của con người vẫn chịu sự quy định của những quy
luật
chung và đều hướng tới những chuẩn mực cụ thể. Quy luật bao giờ cũng có tính
khách
quan, và quy luật xã hội hình thành từ hoạt động có ý thức của con người, các
chuẩn
mực xã hội về lối sống, nếp sống đều do con người đặt ra, chịu sự quy định chặt
chẽ
của các điều kiện khách quan, quy định các hoạt động của chính con người.
Nghiên cứu về các quy luật, chuẩn mực của sự hình thành và phát triển đời sống
văn hóa tinh thần của xã hội và của con người cho thấy văn hóa xã hội phát triển
không ngừng. Con đường phát triển của nó không phải là vòng khép kín hay đường
thẳng mà là theo hình xoắn trôn ốc bởi sự phát triển này không có giới hạn và
hội tụ 3
yếu tố: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Chính vì vậy, quan niệm văn
hóa đa
nghĩa và có rất nhiều cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Các học giả ở mỗi
đất
nước, dân tộc trong mỗi thời kì lịch sử, ngành nghề khác nhau đều có những cách
lý
giải riêng về văn hóa. Cụ thể là ngay từ năm 1952, hai nhà nhân loại học Mỹ là
Alfred
Kroeber và Clyde Kluckhohn đã từng thống kê có tới 164 định nghĩa khác nhau về
văn
hóa trong các công trình nổi tiếng thế giới. Trong cuốn “ Văn hóa Việt Nam và
cách
tiếp cận mới” Giáo sư Phan Ngọc xuất bản năm 1994 cho biết trên thế giới có
khoảng
trên 400 định nghĩa về văn hóa. Điều đó cho ta thấy sự phong phú, đa dạng và
phức
tạp của quan niệm này.
Nhưng ở trong đề tài này, chúng ta không nên coi văn hóa như một hoạt động
riêng biệt mà phải xem xét ở góc độ là một hoạt động nhằm phát huy những nhu cầu
và năng lực bản chất của con người, hướng con người vươn tới những giá trị chân-
thiện-mỹ, là hoạt động nhằm tạo ra những giá trị, chuẩn mực xã hội, xây dựng
nhân
cách của con người. Với góc độ này, văn hoá hiện diện ở mọi hoạt động sản xuất
vật
chất cũng như sản xuất tinh thần của con người, trong mọi quan hệ ứng xử xã hội
hay
thái độ đối với thiên nhiên.
Văn hóa được bắt nguồn từ chữ Latinh "Cultus" mà nghĩa gốc là gieo trồng,
được dùng theo nghĩa Cultus Agri là "gieo trồng ruộng đất" và Cultus Animi là
"gieo
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
SV: Nguyễn Thị Bích Ngọc Lớp: ĐH QTVP K13D
7
trồng tinh thần" tức là "sự giáo dục bồi dưỡng tâm hồn con người". [26] , tức là
văn
hóa ám chỉ toàn bộ các giá trị tinh thần và vật chất mà con người sáng tạo ra
trong quá
trình lịch sử của mình.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “văn hóa” được mượn trong tiếng Hán cổ chỉ việc “văn
trị, giáo hóa” để phân biệt với việc dùng võ lực, nghĩa là lấy cái đẹp, kiến
thức để giáo
hóa, giáo dục con người nhưng lại hiểu theo nghĩa “văn hóa” có nguồn gốc từ
phương Tây.
Ở phương Tây năm 1871, quan niệm văn hóa đầu tiên được chấp nhận rộng rãi
trên thế giới do nhà nhân chủng học Edward Burnett Tylor đưa ra: “văn hóa là một
tổng thể phức tạp bao gồm các kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật
lệ,
phong tục và toàn bộ những kỹ năng, thói quen mà con người đạt được với tư cách
là
thành viên của một xã hội” [26]. Định nghĩa Tylor miêu tả thuần túy và khách
quan,
không mang tính chuẩn tắc. Ở đây, văn hóa đã được định nghĩa theo những gì mà
văn
hóa bao hàm, biểu hiện toàn thể đời sống xã hội của con người, các đặc trưng văn
hóa thuộc
về phạm vi tập thể, văn hóa được phổ biến lưu truyền, không do di truyền sinh
học.
Bên cạnh đó, khi nghiên cứu quy luật vận động và phát triển của xã hội loài
người thì C.Mác và Ph.Ăngghen đã cho rằng: “Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn
trong
quá trình lịch sử của mình. Văn hóa là biểu hiện trình độ phát triển xã hội
trong từng
thời kỳ lịch sử nhất định.” Với quan niệm trên, văn hóa được hiểu theo nghĩa
rộng là
bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần: Văn hóa vật chất là năng lực
sáng
tạo của con người được thể hiện và kết tinh trong sản phẩm vật chất; Văn hóa
tinh thần
là tổng thể các tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời sống
tinh thần và
hoạt động tinh thần của con người. Như vậy, nói tới văn hoá là nói tới con
người, tới
việc phát huy những năng lực thuộc bản chất của con người nhằm hoàn thiện con
người, hoàn thiện xã hội. Do vậy, văn hoá có mặt trong mọi hoạt động của con
người.
Nền văn hóa là biểu hiện cho toàn bộ nội dung, tính chất của văn hóa được hình
thành
và phát triển trên cơ sở kinh tế - chính trị của mỗi thời kỳ lịch sử.
Tổng giám đốc UNESCO Federico Mayor định nghĩa về văn hóa trong Thập kỷ
quốc tế phát triển văn hóa năm 1987 -1988 như sau: “Văn hóa là tổng thể sống
động
các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân và các cộng đồng) trong quá khứ và hiện
tại.
Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên các giá trị, các truyền
thống
và các thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”
[21;Tr6]. Định
nghĩa của Mayor có một điểm đáng lưu ý là đã chỉ ra được văn hoá làm nên nét
khác
biệt giữa các cộng đồng dân tộc, tiếp cận với cái bản thể của văn hóa, chỉ ra hệ
thống
giá trị, truyền thống, thị hiếu là yếu tố cốt lõi, là nền tảng tinh thần của nó.
Đặc biệt là
“yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc” đã tạo nên hệ thống các biểu
tượng
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
SV: Nguyễn Thị Bích Ngọc Lớp: ĐH QTVP K13D
8
mang tính đa dạng. Nhưng sự khác biệt giữa các hệ thống biểu tượng không phản
ánh
được hết bản chất nội hàm văn hóa theo cách toàn diện. Vì thế, những sự khác
biệt này
phải được thống nhất trong một chỉnh thể nền văn hóa chung để tạo nên hệ thống
các
giá trị, có thể xem đó là vấn đề mang tính quy luật của sự hình thành và phát
triển của
bất kỳ nền văn hóa nào trên thế giới.
Trên tinh thần của UNESCO Nghị quyết Hội nghị lần thứ V của BCHTW khoá
VIII đã nhận định rằng: "Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu vừa
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội" [8;Tr114]. Nhìn chung đội
ngũ
CBCNC trong HNP là lực lượng có bản lĩnh vững vàng, hoạt động có mục đích, có ý
chí phấn đấu mạnh mẽ, tính tự chủ cao, sáng tạo trong công việc, trung thành với
cơ
quan tổ chức. Với quan niệm này, văn hóa đã trở thành nền tảng tinh thần của xã
hội,
biểu hiện sức sống, sức sáng tạo, sức phát triển, sức mạnh tiềm tàng và bản
lĩnh, cốt
cách của dân tộc. Văn hoá được lưu giữ, chắt lọc, kế thừa và phát triển, phát
huy qua
các thế hệ nên đã thấm sâu vào mỗi con người, mỗi cộng đồng dân tộc và xã hội để
làm nền tảng cho sự phát triển tất yếu. Mỗi quốc gia, dân tộc phát triển không
thể chỉ
dựa vào nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, tài chính... mà còn phải chủ động phát
huy
tối đa nguồn lực con người, là làm cho văn hóa thấm sâu vào trong các lĩnh vực
và
hoạt động xã hội, thấm sâu vào mọi lĩnh vực sinh hoạt của con người biến thành
"nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển".
Theo một số học giả, quan niệm văn hóa cũng có những điểm riêng như TS. Đỗ
Minh Cương: “Văn hóa là nguồn lực nội sinh của con người, là kiểu sống và bảng
giá
trị của các tổ chức, cộng đồng người, trước hết là hệ các giá trị chân – thiện –
mỹ”.
[6;Tr18]. Quan niệm này đã chỉ ra rằng văn hóa là phương tiện đắc lực để con
người
“điều chỉnh” bản thân và cuộc sống của mình theo định hướng vươn tới những giá
trị
chân, thiện, mỹ.
Theo Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam -
Bộ Giáo dục và đào tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông
tin, xuất bản năm 1998, thì: "Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do
con người
sáng tạo ra trong lịch sử"[28]. GS.TSKH Trần Ngọc Thêm đưa ra quan niệm về văn
hóa được nhiều người đánh giá là tương đối phù hợp và đầy đủ: “Văn hóa là một hệ
thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy
qua quá
trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự
nhiên và
xã hội của mình.” [26]
Mỗi người nhìn nhận văn hóa dưới một góc độ khác nhau. Vì vậy, việc có nhiều
quan niệm văn hóa khác nhau không có gì là đáng ngạc nhiên, trái lại càng làm
cho
vấn đề được hiểu theo một cách phong phú và toàn diện hơn. Đặc biệt là Chủ tịch
Hồ
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
SV: Nguyễn Thị Bích Ngọc Lớp: ĐH QTVP K13D
9
Chí Minh – một nhà tư tưởng vĩ đại đã đưa ra quan niệm về văn hóa: “Vì lẽ sinh
tồn
cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những
công cụ sinh
hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng toàn bộ những sáng tạo
và phát
minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt
cùng với
biểu hiện của nó, của loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu và
đòi hỏi
của sự sinh tồn”. [27;Tr28]
Với quan niệm trên, Hồ Chí Minh đã thể hiện tầm nhìn xa khẳng định rõ vai trò
to lớn của văn hóa với con người và xã hội cùng những đặc trưng cơ bản của văn
hóa
trước cả định nghĩa về văn hóa của UNESCO năm 1982. Người tiếp cận từ ý nghĩa
của
văn hóa đối với cách mạng nước ta và đã chỉ ra nguồn gốc, cấu trúc và mục tiêu
của văn
hóa. Cũng từ quan niệm này, văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng: văn hóa do con
người
sáng tạo ra và phục vụ cho mục tiêu phát triển toàn diện của con người.
Vào Hội nghị văn hóa toàn quốc tổ chức tháng 11-1946, Hồ Chí Minh đã khẳng
định "Văn hóa soi đường cho quốc dân đi" [1;Tr1] và sau này UNESCO đã xác nhận:
“Văn hóa là hệ điều tiết xã hội” [21;Tr7]. Cụm từ “soi đường” hay “hệ điều tiết”
đều
đã gián tiếp khẳng định vai trò định hướng của văn hóa trong sự nghiệp phát
triển kinh tế
xã hội. Văn hóa là bánh lái của con tàu vượt bao phong ba bão tố để đến bến bờ
ước mơ.
1.1.2. Quan niệm về công sở
Có thể nói, công sở bắt nguồn từ tổ chức và luôn hoạt động với tư cách là một
tổ chức của xã hội con người (khác với các tổ chức tự nhiên), được hình thành và
phát
triển cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của từng thời kỳ nhất định.
Trên phương diện lịch sử, thuật ngữ “công sở” được sử dụng ở Phương Tây từ
cuối thế kỷ thứ XVIII cùng với thuật ngữ “cơ quan”. Nó được hiếu theo cả nghĩa
rộng
và nghĩa hẹp gồm: một là cơ quan quản lý, hai là trụ sở làm việc của các cơ
quan. Còn
xét về thuật ngữ công sở ở Việt Nam. Trước hết là xét về mặt ngữ nghĩa thì
“công” là
chung, “sở” là trụ sở. Dựa trên cơ sở này, trong cuốn Từ điển từ và ngữ Việt Nam
thì
GS Nguyễn Lân đã định nghĩa “công sở là chỗ làm việc của cơ quan nhà nước”.
Trong Từ Điển Tiếng Việt do GS. Hoàng Phê chủ biên cũng cho rằng “công sở là trụ
sở cơ quan, xí nghiệp nhà nước”.
Tuy nhiên, ở trong nhiều trường hợp trong thực tế, trong lĩnh vực tổ chức và
quản lý nhà nước, thuật ngữ này được sử dụng để chỉ khía cạnh vật chất, địa điểm
hoạt
động, hay còn gọi là trụ sở, nơi công vụ được tiến hành hoặc dịch vụ công được
cung
cấp. Cụ thể là theo Quyết định số 213/2006/QĐ-TTg ngày 25/9/2006 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quy chế Quản lý công sở của cơ quan hành chính nhà nước thì
có
trình bày rõ là công sở quy định trong quy chế kèm theo là nơi làm việc bao gồm:
nhà
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
SV: Nguyễn Thị Bích Ngọc Lớp: ĐH QTVP K13D
10
làm việc và các công trình phục vụ hoạt động của cơ quan trong khuôn viên đất
của
công sở đó. Tại khoản 1 điều 70 của Luật cán bộ, công chức 2008 có nêu rõ hơn về
khái niệm này “Công sở là trụ sở làm việc của cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập, có tên gọi
riêng, có
địa chỉ cụ thể, bao gồm công trình xây dựng, các tài sản khác thuộc khuôn viên
trụ sở
làm việc” [15]. Để xem xét toàn diện hơn về thuật ngữ “công sở”, em xin đưa ra
vài
quan niệm như sau:
Theo nghĩa cổ điển: Công sở là một tổ chức được đặt dưới sự quản lý trực tiếp
của nhà nước để tiến hành công việc chuyên ngành của nhà nước.
Xét về mặt nội dung công việc: hoạt động công sở nhằm thoả mãn các lợi ích
chung của cộng đồng, do vậy cần được sự bảo vệ kiểm tra của Nhà nước và chỉ có
Nhà
nước mới thoả mãn các nhu cầu này. [10;Tr4]
Xét về hình thức tổ chức: công sở là một tập hợp có tổ chức, có phương tiện vật
chất và người được nhà nước hỗ trợ để thực hiện nhiệm vụ của mình. Hình thức tổ
chức công sở do Nhà nước quy định và lệ thuộc và phương thức điều hành của bộ
máy
Nhà nước. Hiện nay ở nước ta có các loại công sở như công sở hành chính, công sở
sự
nghiệp [10;Tr4]. Như vậy, bản chất của công sở là một loại tổ chức và do đó có
đặc
trưng của một tổ chức.
Xét về ý nghĩa tổ chức Nhà nước: công sở là trụ sở làm việc của cơ quan Nhà
nước, do Nhà nước lập ra để giải quyết công vụ. [10;Tr4]. Ở đây, khái niệm công
sở
gần nghĩa với cơ quan trong hệ thống bộ máy nhà nước.
Xét trên phương diện pháp lý: Công sở là một pháp nhân, được sử dụng quyền
lực công để giải quyết công việc theo luật định.
Như vậy, chúng ta có thể đưa ra định nghĩa tổng quát về công sở: tổ chức của
hệ thống bộ máy nhà nước hoặc là các tổ chức mang tính chất công ích được nhà
nước
công nhận thành lập chịu sự điều chỉnh cùa luật hành chính và các luật khác, bao
gồm
các cán bộ, công chức được tuyển dụng, bổ nhiệm theo quy chế công chức hoặc theo
thể thức hợp đồng để thực hiện công vụ nhà nước.Công sở là các tổ chức thực hiện
cơ
chế điều hành, kiểm soát công việc hành chính; là nơi soạn thảo và xử lý các văn
bản
để thực hiện công vụ, đảm bảo thông tin cho bộ máy quản lý nhà nước, là nơi phối
hợp
hoạt động của các thành viên và bộ phận trong tổ chức theo một cơ chế nhất định
hợp
pháp và thực hiện nhiệm vụ được giao; là nơi tiếp nhận đề nghị,yêu cầu, khiếi
nại của
dân. Do đó, công sở là một bộ phận quan trọng hợp thành của thiết chế bộ máy
quản lý
nhà nước.
Viện nghiên cứu hành chính thuộc Học viện hành chính quốc gia đã xuất bản
cuốn “Thuật ngữ hành chính” vào năm 2002 và có đưa ra quan niệm về công sở nghĩa
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
SV: Nguyễn Thị Bích Ngọc Lớp: ĐH QTVP K13D
11
rộng, là chỉ các cơ quan Nhà nước nói chung, bao gồm các cơ quan trong hệ thống
quyền lực Nhà nước (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp); các cơ quan trong hệ
thống quyền lực Nhà nước (Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực
thuộc
Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp); các cơ quan tòa án và viện kiểm sát nhân
dân
các cấp;
Nghĩa hẹp, công sở được hiểu là các cơ quan hành chính Nhà nước (bao gồm
Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan trực thuộc). Còn trong một
phạm
vi hẹp nữa, công sở được dùng đồng nghĩa với trụ sở - địa điểm làm việc của một
cơ
quan [12;Tr21]
Dựa vào tính chất nội dung: Công sở hành chính và công sở sự nghiệp. Trong
cuốn “Hỏi đáp về Quản lý hành chính nhà nước” (Nhà xuất bản Lý luận - Chính trị
năm 2008) do TS. Nguyễn Hữu Khiển, TS. Trần Thị Thanh Thủy làm Chủ biên nhận
định "Công sở hành chính là tổ chức của hệ thống bộ máy nhà nước hoặc tổ chức
công
ích được nhà nước công nhận, bao gồm cán bộ, công chức được tuyển dụng, bổ nhiệm
theo quy chế công chức hoặc theo thể thức hợp đồng để thực hiện công vụ nhà
nước.
Công sở hành chính có vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và có cơ cấu tổ
chức do
luật công chức quy định, được sử dụng công quyền để tổ chức công việc Nhà nước
hoặc dịch vụ công vì lợi ích chung của xã hội, cộng đồng". Công sở sự nghiệp: là
tổ
chức đặt dưới sự quản lý của nhà nước, thực hiện các hoạt động có tính chất
nghiệp vụ
riêng biệt, phụ vụ cho sản xuất kinh doanh và cho sinh hoạt, nói cách khác đó là
những đơn vị cơ bản để thực hiện nhiệm vụ của ngành.
1.1.3. Quan niệm về văn hóa công sở
“Văn hóa công sở” là cụm từ khá quen thuộc trong cuộc sống hiện nay trong
các phương tiện truyền thông, văn bản quản lý nhà nước,... Tùy theo mục đích sử
dụng
mà hiện nay có nhiều định nghĩa về văn hóa công sở cả về mặt học thuật cũng như
thực tế giao tiếp. Tuy nhiên, có thể hiểu một cách “nôm na” rằng, VHCS chính là
văn
hóa trong môi trường làm việc nơi công sở. Dựa trên những cơ sở lý luận trên, ta
có
thể chọn ra một vài định nghĩa tiêu biểu về văn hóa công sở:
Theo nghĩa rộng, VHCS là tổng thể các giá trị tài sản tinh thần và vật chất ở
nơi
công sở. Theo nghĩa này thì PGS.TS Vũ Thị Phụng đã đưa ra quan niệm như
sau: “VHCS là tổng hoà những giá trị hữu hình và vô hình, bao gồm trình độ nhận
thức, phương pháp tổ chức, quản lí, môi trường – cảnh quan, phương tiện làm
việc, đạo đức nghề nghiệp và phong cách giao tiếp ứng xử của cán bộ công chức
nhằm xây dựng một công sở văn minh, lịch sự, hoạt động đúng pháp luật và hiệu
quả cao” [14;Tr10]
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
SV: Nguyễn Thị Bích Ngọc Lớp: ĐH QTVP K13D
12
Còn theo GS.TS Nguyễn Đăng Dung thì VHCS được hiểu: “toàn bộ những giá
trị tạo nên nề nếp, hiệu quả hoạt động của cơ quan bao gồm những giá trị văn hóa
vật
thể (cơ sở vật chất, môi trường làm việc ở công sở, quần áo, trang phục, phù
hiệu của
công chức làm việc tại công sở...) và văn hóa phi vật thể (văn hóa ứng xử, giao
tiếp,
văn hóa lãnh đạo, văn hóa nghe và trả lời điện thoại...)”[7]
Xét từ khía cạnh “công sở bắt nguồn từ tổ chức” thì có rất nhiều học giả cho
rằng VHCS là văn hóa tổ chức trong một công sở cụ thể. Văn hóa tổ chức được quan
niệm là hệ thống những giá trị, niềm tin, sư mong đợi của các thành viên trong
tổ
chức, tác động qua lại như những giả thiết không bị chất vấn về truyền thống và
cách
thức làm việc của tổ chức mà mọi người trong đó đều tuân theo khi làm việc.
Chính
văn hóa tổ chức cho phép người ta phân biệt được các tổ chức với nhau thông qua
những phương thức điều hành khác nhau. Văn hóa tổ chức ảnh hưởng đến hiệu quả
hoạt động của tổ chức, đến phương thức tồn tại và phát triển của tổ chức.
Trong cuốn Từ điển tra cứu về Quản lý nhà nước và quản lý địa phương của
Học viện công vụ Liên bang Nga, VHCS đã được tiếp cận từ góc độ này: “Tập hợp
các định hướng và giá trị, chuẩn mực do truyền thống hay thói quen tạo nên đặc
trưng
riêng của công vụ tại các cơ quan Nhà nước, thể hiện ở mục tiêu của tổ chức,
quan
điểm thái độ của con người đối với công việc, cách xử lý xung đột,...” [11]
Vấn đề VHCS nảy sinh từ vai trò của công sở trong đời sống xã hội và trong
hoạt động của bộ máy hành chính mà nó là một bộ phận cấu thành. Khái niệm trên
đã
nêu lên những khía cạnh quan trọng nhất của VHCS như quan hệ giữa cá nhân trong
giải quyết công việc, các chuẩn mực xử sự, nghi thức tiếp xúc hành chính, phương
pháp giải quyết các bất đồng trong cơ quan, cách lãnh đạo, chỉ huy và ý thức
chấp
hành kỷ luật trong và ngoài công sở của nhân viên,...
Cũng từ gốc độ này, tác giả Nguyễn Thị Thu Vân quan niệm VHCS với phạm
vi nghĩa hẹp hơn: “hệ thống các giá trị , các quy tắc giao tiếp ứng xử, chuẩn
mực đạo
đức của cán bộ công chức, các phương thức, cách thức quản lý gắn với viện tìm
kiếm
các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động công sở…”[24;Tr23-30]
Còn TS.Đào Thị Ái Thi cho rằng: “Văn hóa công sở là một dạng đặc thù của
văn hóa xã hội bao gồm các giá trị, chuẩn mực, vẻ đẹp và cách hành xử trong hoạt
động công sở, mà các thành viên trong công sở cùng tiếp nhận để ứng xử với nhau
trong nội bộ công sở và phục vụ cộng đồng với sự tác động của hệ thống quan hệ
thứ
bậc mang tính quyền lực và tính xã hội” [8;Tr16]. Bên cạnh đó, tác giả Minh Phúc
cũng đưa ra quan niệm: “Văn hoá nơi công sở, nói một cách khái quát, là một loạt
hành vi và quy ước mà con người dựa vào đó để điều khiển các mối quan hệ tương
tác của mình với những người khác. Văn hoá công sở còn là một hệ thống được
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
SV: Nguyễn Thị Bích Ngọc Lớp: ĐH QTVP K13D
13
hình thành trong quá trình hoạt động của công sở, tạo nên niềm tin giá trị về
thái
độ của cán bộ làm việc trong công sở, ảnh hưởng đến cách làm việc trong công sở
và hiệu quả hoạt động của nó” [13]
Trong cuốn “Hỏi đáp về Quản lý hành chính nhà nước” (Nhà xuất bản Lý luận
- Chính trị năm 2008) thì các tác giả đã quan niệm “Văn hóa công sở là một sự
pha
trộn riêng biệt của các giá trị, niềm tin, trông đợi và chuẩn mực được phát
triển và
duy trì trong công sở, tạo nên một dấu ấn riêng biệt, giúp phân biệt công sở này
với
công sở khác.’’
Tóm lại, từ những góc độ tiếp cận khác nhau mà chúng ta có nhiều quan niệm
khác nhau về VHCS. Nhưng ta có thể hiểu VHCS là một loại hình văn hóa gồm một
loạt các hành vi và quy ước mà con người dựa vào đó để điều khiển các mỗi quan
hệ,
tương tác của mình với những người khác; là những giá trị vật chất tinh thần thể
hiện
qua nhận thức, qua phương thức tổ chức quản lý các hoạt động công vụ nhằm mục
đích hoàn thành các chức năng, nhiệm vụ được giao để đạt được mục tiêu và hiệu
quả
cao. VHCS còn được hiểu là những quy tắc, chuẩn mực ứng xử mà các thành viên
trong công sở thừa nhận và tuân theo để ứng xử với nhau trong nội bộ công sở và
phục
vụ xã hội. VHCS không chỉ thể hiện đạo đức phẩm chất của các thành viên trong
khi
thực hiện nhiệm vụ mà còn thể hiện trình độ văn hóa của mỗi người, qua đó nêu
bật
lên sự văn minh nền nếp, kỷ cương, tác phong công nghiệp của tổ chức. Bản chất
của
VHCS là hệ thống những quy ước, giá trị mà con người đưa vào đó để điều chỉnh
các
mối quan hệ tương tác giữa con người trong các hoạt động công sở theo hướng tích
cực, nhằm đạt được mục đích chung. Theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, VHCS
được cấu thành bởi nhiều yếu tố như: hệ thống các giá trị; kỹ năng giao tiếp,
ứng xử;
đạo đức, lối sống; tác phong, lề lối làm việc; cơ sở vật chất; các yếu tố ngoại
hiện của
công sở…
1.2. Vai trò của văn hóa công sở
1.2.1. Văn hóa công sở góp phần nâng cao ý thức con người.
Văn hoá công sở cũng giống như bất cứ loại hình văn hoá nào khác, là một loạt
hành vi và quy ước để hướng con người tới những giá trị chân – thiện – mỹ, là
điều
kiện phát triển tinh thần và nhân cách của con người. Văn hóa giúp con người có
thể
hưởng thụ những giá trị vật chất và tinh thần như ý thức, trách nhiệm, nghĩa vụ,
lòng
tự trọng,…Từ đó phát triển tinh thần và nhân cách của mỗi người góp phần vào sự
phát triển của tập thể, là động lực phát triển của mọi hoạt động trong các cơ
quan tổ
chức. Cụ thể hơn là HNP xây dựng được VHCS tiến bộ, văn minh, hiện đại thì sẽ có
nền nếp làm việc khoa học, có kỷ cương, dân chủ, niềm tin cho các thành viên
trong