Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Đào tạo đội ngũ giảng viên tại trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội
9,116
878
126
52
chuyển giao công nghệ ..vv ở các cơ sở đào tạo bên ngoài. Nhu cầu này, hàng
năm tại nhà trường là tương đối lớn. Số đơn đề nghị chờ xem xét vẫn còn khá
nhiều, Lãnh đạo Nhà trường thường tổ chức họp xét những trường hợp đáp
ứng tiêu chuẩn, phù hợp với chiến lược phát triển lâu dài của trường.
Qua số liệu tổng hợp của Phòng tổ chức- hành chính của nhà trường
cho thấy: từ năm 2012 đến 2014 nhu cầu đào tạo của nhà trường có xu hướng
tăng. (cụ thể xem Bảng 2.7)
Bảng 2.7: Nhu cầu về đào tạo giảng viên
ĐVT: Lượt người
(Nguồn: Phòng TC-HC)
Qua bảng trên ta nhận thấy nhu cầu đào tạo của nhà trường luôn cao
hơn số lượng được cử đi đào tạo nguyên nhân là do: hoạt động đào tạo của
nhà trường ngày càng mở rộng và phát triển nên việc điều động giảng viên đi
đào tạo gặp nhiều khó khăn nên số lượng người được đi đào tạo không bao
giờ được cử đi hết, một số người phải ở lại làm việc để đảm bảo cho hoạt
động giảng dạy của nhà trường được diễn ra bình thường. Đồng thời do nguồn
kinh phí của nhà trường cho hoạt động đào tạo bồi dưỡng còn hạn chế nên
cũng ảnh hưởng đến số lượng giảng viên được tham gia đào tạo, bồi dưỡng.
TT Chỉ tiêu Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014
I Nhu cầu đào tạo
1 Giảng viên 82 90 95
II
Số lượng người được
cử đi đào tạo
1 Giảng viên 78 84 70
53
Bảng 2.8: Tổng hợp kết quả về xác định nhu cầu đào tạo tại Trường Cao
đẳng nghề Cơ điện Hà Nội
ĐVT: phiếu
STT Nội dung
Mức đánh giá
Tổng
cộng
1 2 3
Kém
Bình
thường
Tốt
1
Nhu cầu đào tạo được xác
định dựa trên cơ sở phân
tích kết quả thực hiện công
việc của giảng viên
45 41 34 120
2
Nhu cầu đào tạo được xác
định trên cơ sở tìm hiểu
nguyện vọng của giảng viên
44 39 37 120
3
Nhà trường lựa chọn loại
hình đào tạo phù hợp để
nâng cao kết quả thực hiện
công việc của giảng viên
32 48 40 120
(Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả)
Thông qua khảo sát 120 phiếu đánh giá tại Nhà trường kết quả như sau:
Việc xác định nhu cầu đào tạo dựa vào tìm hiểu nguyện vọng của giảng
viên rất xác đáng. Tuy nhiên, theo khảo sát của tác giả thì có đến 83 phiếu
(chiếm 69%) giảng viên được hỏi ý kiến cho rằng nhà trường chưa làm tốt
công tác này (bảng 2.8). Việc xác định nhu cầu đào tạo được xác định dựa
trên cơ sở phân tích kết quả thực hiện công việc của giảng viên, ý kiến của
giảng viên cũng cho rằng nhà trường chưa làm tốt, cụ thể có 86 phiếu (chiếm
72%) ý kiến như vậy (bảng 2.8). Còn tiêu chí nhà trường lựa chọn loại hình
54
đào tạo phù hợp để nâng cao hiệu quả thực hiện công việc của nhân viên thì
có 80 phiếu (chiếm 66%) ý kiến của giảng viên cho rằng nhà trường chưa làm
tốt (bảng 2.8).
Việc xác định nhu cầu đào tạo hiện nay của nhà trường là chưa thực sự
tốt. Nhà trường thường đào tạo theo thói quen, công tác xác định nhu cầu đào
tạo chưa được làm một cách có bài bản, thường là tự phát theo nhu cầu. Do
vậy, một số chương trình đào tạo chưa thực sự đem lại hiệu quả như mong
muốn của người làm công tác đào tạo.
Nguyên nhân còn nhiều hạn chế trong tiến hành công tác xác định nhu
cầu đào tạo:
- Đội ngũ cán bộ chuyên trách còn chưa được đào tạo chuyên nghiệp,
làm việc kiêm nhiệm, dựa trên tự học hỏi và kinh nghiệm làm việc là chính.
- Hoạt động phân tích công việc tiến hành chưa hoàn thiện, không chi
tiết cụ thể, chỉ có bảng yêu cầu chức năng nhiệm vụ của công việc chung nhất
với từng vị trí (bản mô tả công việc), có bản tiêu chuẩn thực hiện công việc
nhưng việc đánh giá các tiêu chuẩn thường không chính xác so với thực tế.
- Việc đánh giá nhu cầu đào tạo không được thường xuyên qua từng
chương trình đào tạo cũng dẫn đến việc xác định nhu cầu đào tạo chưa sát với
thực tế.
- Chưa có sự chuẩn bị tốt cho công tác đánh giá nhu cầu đào tạo
- Chưa xác định tốt khoảng cách về kết quả thực hiện công việc. Hiện
tại, nhà trường chưa có sự tìm hiểu về kết quả thực hiện công việc mà giảng
viên đạt được trong thực tế bởi người phụ trách về đào tạo chưa làm được
việc trao đổi với giảng viên, bản đánh giá kết quả thực hiện công việc không
được cập nhật thường xuyên mà chỉ tìm hiểu được qua trao đổi với người
quản lý cấp trên.
2.2.2. Xác định mục tiêu đào tạo
Từ nhu cầu đào tạo, nhà trường xác định mục tiêu đào tạo. Với mỗi loại
công việc, vị trí khác nhau, nhà trường có những mục tiêu đào tạo tương ứng.
Cụ thể được tóm tắt tại Bảng 2.9 sau đây:
55
Bảng 2.9: Bảng mục tiêu đào tạo cho các giảng viên được đào tạo của
nhà trường
Đối
tượng
Chương trình
đào tạo, bồi
dưỡng
Yêu cầu, mục tiêu đặt ra
Giảng
viên các
nghề
trọng
điểm khu
vực, quốc
gia
Kỹ năng nghề Đạt chuẩn trình độ kỹ năng theo chuẩn khu vực
Nghiệp vụ SP
quốc tế
Nắm và vận dụng được các phương pháp dạy học
tiên tiến của các nước phát triển trong khu vực và quốc
tế. Có nghiệp vụ sư phạm tương đương với chuẩn quy
định của khu vực
Đào tạo, bồi
dưỡng sử dụng
trang thiết bị
công nghệ mới
Vận hành và biết cách bảo dưỡng, sửa chữa các loại
thiết bị, máy móc được đào tạo.
Ngoại ngữ, tin
học
Trình độ tin học đạt tiêu chuẩn IC3 hoặc tương đương
trở lên và trình độ ngoại ngữ tiếng Anh đạt 450 điểm
TOEIC hoặc tương đương trở lên
Giảng
viên khác
Nâng cao chuyên
môn, nghiệp vụ
sư phạm
Nắm được kiến thức, kỹ năng mới liên quan đến công
việc, kiến thức chuyên môn vững vàng, đáp ứng tốt
công việc, vị trí được phân công và phối hợp trong
công tác khác của nhà trường.
Đào tạo kỹ năng
nghề
Đạt trình độ kỹ năng theo chuẩn quy định của nhà
nước. (Có kỹ năng nghề tương đương trình độ cao
đẳng nghề hoặc bậc 5/7, bậc 4/6 trở lên hoặc là nghệ
nhân cấp quốc gia.)
Đào tạo ngoại
ngữ
Có khả năng đọc, hiểu, viết, nghe và giao tiếp tùy theo
từng trình độ chứng chỉ A, B, C.
56
Đào tạo tin học
Nắm chắc kiến thức lý thuyết, biết sử dụng các phần
mềm ứng dụng cơ bản, đồng thời tác nghiệp thành thạo
trên máy tính đối với các ứng dụng cơ bản liên quan
đến công việc, vị trí cụ thể được phân công.
Đào tạo, bồi
dưỡng sử dụng
trang thiết bị
công nghệ mới
Biết rõ từng ký hiệu chỉ dẫn ghi trên máy và thiết bị.
Hiểu được nguyên lý chuyển động, cấu tạo của máy,
trang thiết bị, có thể sử dụng vận hành thành thạo và
an toàn các trang thiết bị, công nghệ mới để phục vụ
cho giảng dạy.
(Nguồn: Phòng TC-HC)
Như vậy, ở mỗi chương trình đào tạo, nhà trường đều đặt ra những yêu
cầu, mục tiêu cụ thể tương ứng với mỗi nội dung đào tạo.
Việc đặt ra mục tiêu một cách rõ ràng, cụ thể cho từng đối tượng và áp
dụng cho từng loại hình đào tạo giúp cho việc đánh giá kết quả đào tạo sau
này được dễ dàng, thuận lợi, khách quan, công bằng và minh bạch. Đồng thời,
qua đó không những nhà quản lý, tổ chức đào tạo có cơ sở để đánh giá, chính
xác, khách quan, mà ngay chính các giảng viên cũng có thể tự đánh giá được
trình độ chuyên môn, kỹ thuật của mình để rồi từ đó phấn đấu, nỗ lực để đạt
được mức độ theo yêu cầu, mục tiêu đặt ra.
Tuy nhiên qua khảo sát tại nhà trường cho thấy, phần lớn các khóa, lớp
đào tạo đã đặt ra mục tiêu một cách cụ thể, rõ ràng vẫn còn có những khóa,
lớp mục tiêu đào tạo còn chung chung, thiếu cụ thể khó định lượng gây khó
khăn cho việc đánh giá kết quả, cũng như sự hoài nghi về thực chất chất
lượng đào tạo, chưa kể đến việc mở lớp còn mang tính hình thức, chạy theo
phong trào, thành tích miễn sao mở lớp, dự học để có được chứng chỉ hành
nghề, còn bộ phận đơn vị có người dự học có thành tích để báo cáo với cấp
trên về số lớp, số người đã được học, đào tạo, có trình độ chuyên môn được
nâng lên hàng năm theo con số ngày một tăng còn thực chất thì không có gì
thay đổi, chuyển biến. Hơn nữa, nhiều khóa đào tạo so số lượng học viên đông,
57
đối tượng phức tạp với nhiều chuyên môn trình độ nên việc đặt ra các mục tiêu
cụ thể rất khó khăn và không thể dung hòa được với mọi loại đối tượng.
2.2.3. Lựa chọn đối tượng đào tạo
Việc lựa chọn đối tượng tham gia các chương trình đào tạo của nhà
trường chủ yếu dựa vào chức danh, năng lực làm việc và thành tích trong quá
trình công tác của giảng viên. Những đối tượng được lựa chọn cho đi đào tạo
cần đáp ứng đủ tiêu chuẩn năng lực mà nhà trường đặt ra. Hằng năm, trên cơ
sở các số liệu tổng hợp mà các bộ phận tập hợp gửi Phòng Tổ chức - Hành
chính về nhu cầu đào tạo, bộ phận đào tạo sẽ phân loại nhu cầu, các kiến thức,
trình độ chuyên môn, kỹ năng cần thiết phải bổ sung, từ đó dự kiến mở các
lớp hoặc cử đi các khóa đào tạo tại các cơ sở đào tạo bên ngoài. Việc lựa chọn
đối tượng có thể căn cứ vào quy hoạch tổng thể về nhân sự của nhà trường đối
với đội ngũ giảng viên theo yêu cầu tiêu chuẩn của khóa đào tạo và khả năng
thực tế của giảng viên tương ứng với yêu cầu trên. Trường hợp khác thì căn
cứ vào nhận xét đánh giá hàng năm, phân loại giảng viên yếu kém, không đáp
ứng được yêu cầu về chuyên môn, không hoàn thành công việc do trình độ
chuyên môn kỹ thuật hay theo đơn, đề nghị của cá nhân giảng viên hoặc từng
bộ phận đề xuất. Nhìn chung, qua khảo sát thực tế tại nhà trường cho thấy: Từ
năm 2010 đến nay hầu hết các đối tượng cử đi đào tạo hoặc đào tạo tại chỗ là
chính xác, khách quan, không có thắc mắc, khiếu nại gì liên quan đến việc lựa
chọn đối tượng. Qua khảo sát tại nhà trường cho thấy, các khóa lớp đào tạo
đều quy định rất cụ thể các tiêu chuẩn đối tượng đào tạo. Khi lựa chọn nhà
trường cũng đưa ra tiêu chí cho từng đối tượng thuộc các nhóm giảng viên
như: Giảng viên tham gia giảng dạy các nghề cấp độ khu vực, các nghề cấp
quốc gia và các nghề khác.
Tiêu chuẩn đối với giảng viên tham gia giảng dạy các nghề trọng điểm
cấp độ khu vực, cấp độ quốc gia:
Tiêu chuẩn: Có bằng tốt nghiệp đại học hoặc đại học chuyên ngành sư
phạm kỹ thuật trở lên, chuyên ngành phù hợp với nghề giảng dạy, có kiến
58
thức các nghề liên quan, trình độ ngoại ngữ (B), tin học (C) trở lên, có kinh
nghiệm giảng dạy ít nhất 5 năm.
Nội dung được tham gia đào tạo, bồi dưỡng: Được tổ chức theo kế
hoạch đào tạo của Tổng cục Dạy nghề hoặc theo kế hoạch đào tạo của nhà
trường tùy vào tình hình thực tế hàng năm.
- Nâng cao trình độ, kỹ năng nghề: thời gian từ 3 tháng đến 2 năm tùy
vào chương trình đào tạo.
- Nâng cao trình độ nghiệp vụ sư phạm dạy nghề, sư phạm quốc tế:
Thời gian có thể 3 tháng, 6 tháng tùy loại hình đào tạo.
- Đào tạo ngoại ngữ, tin học: Với đặc điểm giảng viên dạy nghề
trọng điểm cấp độ khu vực ASEAN và quốc tế là giảng viên dạy các
chương trình đào tạo nghề được chuyển giao từ các nước tiên tiến trong
khu vực ASEAN và quốc tế. Vì vậy việc nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin
học cho đội ngũ giảng viên này là yêu cầu bắt buộc. Trên cơ sở đó hang
năm nhà trường thường bố trí cho đội ngũ giảng viên này tham gia các
khóa đào tạo về ngo ại ngữ, tin học để họ có thể đáp ứng được nhiệm vụ,
công việc của mình.
Nói tóm lại, nhờ những biện pháp tích cực của nhà trường từ năm
2012 đến năm 2014 nhà trường đã chọn lựa và quyết định đào tạo được 88
giảng viên tham gia giảng dạy các nghề trọng điểm cấp độ khu vực, cấp
quốc gia đi đào tạo tại các khóa đào tạo, bồi dưỡng. Trong đó có 9 người
được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm dạy nghề, 7 người được cử đi
đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ sư phạm quốc tế, 11 người đào tạo
nâng cao kỹ năng nghề, 26 người đào tạo ngoại ngữ, 35 người đào tạo tin
học (xem Bảng 2.10).
59
Bảng 2.10: Lựa chọn đối tượng đào tạo là giảng viên tham gia giảng dạy
các nghề trọng điểm cấp độ khu vực, cấp quốc gia.
ĐVT: Lượt người
STT Nội dung đào tạo Năm 2012
Năm 2013
Năm
2014
Tổng
1
Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp
vụ sư phạm dạy nghề
5 2 2
9
2
Đào tạo, bồi dưỡng sư
phạm quốc tế
1 2 4
7
3
Đào tạo nâng cao kỹ năng
nghề
4 4 3
11
4
Đào tạo, bồi dưỡng ngoại
ngữ
12 8 6 26
5 Đào tạo, bồi dưỡng tin học 13 12 10 35
(Nguồn: Phòng TC-HC)
* Tiêu chuẩn đối với đối tượng là giảng viên tham gia giảng dạy các
nghề không thuộc các nghề trọng điểm cấp độ khu vực, cấp quốc gia
- Đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, kỹ năng nghề:
Được áp dụng cho các giảng viên mới được tuyển dụng, giảng viên có kinh
nghiệm giảng dạy dưới 3 năm, giảng viên chưa đạt chuẩn nghiệp vụ sư phạm
theo Thông tư số 30/2010/TT-BLĐTBXH quy định về chuẩn giáo viên dạy nghề.
- Đào tạo sử dụng trang thiết bị máy móc mới: Áp dụng cho giảng viên
tham gia giảng dạy các nghề có nhập loại máy móc, thiết bị công nghệ mới,
có quy trình vận hành mới, phức tạp.
- Đào tạo, bồi dưỡng trình độ ngoại ngữ, tin học: Trong kế hoạch dài
hạn nhằm chuẩn hóa đội ngũ giảng viên của nhà trường, nhà trường yêu cầu
tất cả các khoa rà soát, tập hợp và thống kê trình độ tin học của tất cả giảng
viên từ đó có kế hoạch bố trí bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ ngoại ngữ,
60
tin học với yêu cầu đặt ra là phải sử dụng thành thạo các phần mềm ứng dụng
cơ bản để có thể soạn giáo án điện tử, thiết kế đồ họa, các bản vẽ chi tiết máy
và sản phẩm ..vv phục vụ cho các công việc giảng dạy. Nhà trường đã ưu tiên
đào tạo bồi dưỡng về ngoại ngữ, tin học dành cho các giảng viên khoa: điện tử,
điện – tự động hóa ... ở các mức độ, trình độ ngoại ngữ, tin học khác nhau từ cơ
bản cho tới nâng cao. Đây là yêu cầu bắt buộc đối với các đối tượng trên. Vì thế
mọi giảng viên đều phải tự giác trang bị cho mình kiến thức về ngoại ngữ, tin
học, Nhà trường chỉ mở lớp đào tạo khi đủ được một số lượng nhất định, còn lại
các cá nhân phải tự hoàn thiện kiến thức trình độ. Nhà trường giao cho phòng tổ
chức và các bộ phận quản lý trực tiếp kiểm tra giám sát để phát hiện kịp thời
những người không đáp ứng trình độ theo yêu cầu công việc.
Qua kết quả thống kê của Phòng tổ chức – Hành chính nhà trường từ năm
2012 đến năm 2014 nhà trường đã chọn lựa và quyết định đào tạo được 143 lượt
giảng viên tham gia giảng dạy các nghề không thuộc các nghề trọng điểm cấp độ
khu vực, cấp quốc gia đi đào tạo tại các khóa đòa tạo, bồi dưỡng. Trong đó có 56
người được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm dạy nghề, 15 người được cử đi
đào tạo sử dụng trang thiết bị máy móc mới, 13 người đào tạo nâng cao kỹ năng
nghề, 39 người đào tạo ngoại ngữ, 40 người đào tạo tin học (xem Bảng 2.11).
Bảng 2.11: Lựa chọn đối tượng đào tạo là giảng viên tham gia giảng dạy
các nghề không thuộc các nghề trọng điểm cấp độ khu vực, cấp quốc gia
ĐVT: Lượt người
TT
Nội dung đào tạo
Năm
2012
Năm
2013
Năm
2014
1
Đào tạo, b ồi dưỡng nghiệp vụ SPDN 15 23 18
2
Đào tạo sử dụng trang thiết bị máy móc mới 3 5 7
3
Đào tạo nâng cao kỹ năng nghề 4 6 3
61
4
Đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ 5 12 12
5
Đào tạo, bồi dưỡng tin học 15 10 5
(Nguồn: Phòng TC-HC)
Bên cạnh những thành tích đạt được trong việc lựa chọn đối tượng đào
tạo, nhà trường còn bộc lộ một số nhược điểm trong công tác này như sau:
Quy hoạch lựa chọn đối tượng đào tạo trong nhà trường chưa chú trọng
đến cán bộ chuyên môn: phần lớn đối tượng đi học dài hạn, tại chức là do nhu
cầu bản thân, tự sắp xếp thời gian, bỏ kinh phí để tham gia khóa học. Giảng
viên kiêm nhiệm lãnh đạo khoa, bộ môn mới được nhà trường cử đi học và hỗ
trợ kinh phí.
Căn cứ lựa chọn đối tượng đào tạo căn cứ vào trình độ chuyên môn là
chính, chưa xét đến cơ cấu độ tuổi, giới tính mức độ cống hiến cho nhà
trường,…
Việc lựa chọn đối tượng được đi đào tạo của nhà trường hiện nay chủ
yếu do người quản lý trực tiếp hoặc do Ban lãnh đạo lựa chọn. Điều này có
thể làm cho việc lựa chọn đối tượng được đi đào tạo là mang tính chủ quan,
duy ý chí, thiên vị nếu có quan hệ thân cận với cấp trên.
2.2.4. Xây dựng nội dung chương trình đào tạo và lựa chọn phương
pháp đào tạo
2.2.4.1. Nội dung chương trình đào tạo nguồn nhân lực
Căn cứ vào mục tiêu, đối tượng đào tạo mỗi khóa học, lớp học Nhà
trường sẽ có yêu cầu cụ thể về kiến thức, kỹ năng cần trang bị cho học viên,
đồng thời yêu cầu giảng viên được phân công giảng dạy sẽ soạn nội dung,
chương trình của từng môn học, bài học theo nội dung, chương trình tổng thể
của nhà trường. Hầu hết các giảng viên đều có giáo án, bài giảng hay tài liệu
chuẩn bị để truyền đạt cho học viên. Hiện nay, Nhà trường có những nội
dung, chương trình đào tạo cho giảng viên như sau: