Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Đào tạo đội ngũ giảng viên tại trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội
9,040
878
126
2
Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã có nhận định “Đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ
cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu
tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp”[2]. Một trong các giải
pháp đó là “Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu
đổi mới giáo dục và đào tạo”[2].
Trên thực tế, đội ngũ nhân lực lao động trong các cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp và các cơ sở dịch vụ ... hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu
mới của nền kinh tế hội nhập. Điều này do nhiều nguyên nhân, nhưng một
trong những nguyên nhân chủ yếu là chất lượng đào tạo trong các trường dạy
nghề nói chung, trong đó có các trường cao đẳng nghề; mà chất lượng này
lại phụ thuộc phần nhiều vào phẩm chất và năng lực của đội ngũ giảng viên
dạy nghề (GVDN) trong các trường này.
Cũng như các trường cao đẳng nghề trong toàn quốc, trong giai đoạn
hiện nay, các trường cao đẳng nghề thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn đang tìm mọi giải pháp quản lý để nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức
nghề nghiệp và năng lực của đội ngũ GVDN nhằm làm cho họ đạt được
Chuẩn giáo viên, giảng viên dạy nghề (Ban hành theo Thông tư số
30/2010/TT-BLĐTBXH, ngày 29/9/2010 của Bộ trưởng Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội). Tuy nhiên, mọi sự nỗ lực của các trường này còn
đang gặp các trở ngại như thiếu cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và các giải pháp
khả thi. Từ đó dẫn đến tình trạng các kết quả đào tạo phát triển đội ngũ
GVDN chưa cao.
Trên thực tế, đội ngũ giảng viên của trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà
Nội còn tồn tại một số hạn chế về chất lượng giảng dạy; về kỹ năng sư phạm và
kỹ năng dạy thực hành nghề trong thực tế sản xuất, khả năng tiếp cận kỹ thuật
3
tiên tiến, công nghệ mới; cần được nâng cao năng lực bổ trợ (ngoại ngữ, tin
học..) để đáp ứng tốt nhu cầu đổi mới và phát triển dạy nghề cho Nhà trường và
có thể giúp Nhà trường đạt tiêu chuẩn là một trong 40 trường nghề chất lượng
cao. Sự hạn chế này do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác
nhau, trong đó có nguyên nhân là do công tác đào tạo đội ngũ giảng viên dạy
nghề của trường còn những hạn chế và bất cập. Vì vậy việc nghiên cứu đề tài
“Đào tạo đội ngũ giảng viên tại trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội” có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tổng quan nghiên cứu liên quan đến đề tài
Dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, các nhà khoa học Việt Nam đã tiếp cận về đào tạo:
+ Cuốn “Đào tạo và sử dụng nhân lực trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam” của Phan Văn Kha do NXB Giáo dục, Hà Nội ấn hành năm 2007 ; Tác
giả đã khái lược tình hình đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực ở Việt Nam giai
đoạn 2001-2005, rút ra những ưu điểm và hạn chế, đồng thời, đưa ra một số đề
xuất để khắc phục thực trạng trên. Công trình chỉ mới tiếp cận công tác đào tạo
và sử dụng lao động sau đào tạo ở tầm vĩ mô, chưa đề cập đến đào tạo của một
tổ chức cụ thể nào.
+ “Bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ nhân lực trong điều kiện mới”,
Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước, mã số KX07-14 (1996), Hà
Nội, do Nguyễn Minh Đường làm chủ nhiệm đề tài đã chỉ ra thực trạng đội
ngũ nhân lực Việt Nam, các yêu cầu mới đối với đội ngũ đó và các giải pháp
đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ nhân lực Việt Nam để đáp ứng các yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội trong đầu Thế kỷ 21.
+ “Nghiên cứu việc bồi dưỡng cán bộ giảng dạy đại học và giáo viên
dạy nghề”, đề tài KH&CN cấp Bộ, mã số B92. 38-18 do Phạm Thành Nghị
làm chủ nhiệm đề tài, năm 1993 đã nêu lên thực trạng đội ngũ giảng viên
giảng dạy đại học và giáo viên dạy nghề đang bị hạn chế về nhiều mặt như
trình độ không đồng đều, tay nghề còn thấp, trình độ sư phạm hạn chế, thiếu
4
hiểu biết thực tế sản xuất và công nghệ mới, trình độ ngoại ngữ và tin học
yếu; đồng thời nêu lên các giải pháp để bồi dưỡng để phát triển ĐNGV, trong
đó có việc xây dựng mô hình đào tạo bồi dưỡng ĐNGV .
+ Đề tài KH&CN cấp Bộ, mã số B96. 52–11 về “Xây dựng mô hình
công tác phát triển bồi d ưỡng cán bộ giảng dạy phục vụ yêu cầu đổi mới giáo
dục và đào tạo ở Việt Nam” do Trần Thị Bạch Mai làm chủ nhiệm đề tài (bảo
vệ năm 1997) đã nêu lên thực trạng đội ngũ giảng viên các trường đại học và
cao đẳng chưa đáp ứng được mục tiêu phát triển giáo dục; đồng thời chỉ ra
các giải pháp để tăng cường năng lực thích ứng của đội ngũ giảng viên với sự
phát triển ngày càng cao của xã hội .
+ Đề tài KH&CN cấp Bộ “Nghiên cứu các giải pháp chuẩn hóa đội
ngũ giáo viên trung học chuyên nghiệp - dạy nghề”, do Nguyễn Đăng Trụ làm
chủ nhiệm, bảo vệ năm 2003 đã chỉ ra các yêu cầu cần phải chuẩn hoá đối với
người giáo viên trung học chuyên nghiệp và dạy nghề ; đồng thời chỉ ra giải
pháp chuẩn hoá đội ngũ đó .
+ Đề tài KH&CN cấp Bộ “Giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên dạy
nghề” do Cao Văn Sâm làm chủ nhiệm, bảo vệ năm 2009 cũng đề cập tới lý
luận phát triển nguồn nhân lực, thực trạng đội ngũ giảng viên dạy nghề và các
giải pháp phát triển đội ngũ này nhằm đáp ứng các yêu cầu mới của phát triển
KT-XH .
- Gần đây, có một số luận án tiến sĩ nghiên cứu về quản lý đội ngũ
giảng viên hoặc phát triển đội ngũ giảng viên trong các c ơ sở giáo dục đại học
phục vụ nhu cầu phát triển KT-XH của các vùng miền cụ thể như:
+ Đề tài “Quản lý phát triển đội ngũ giảng viên trường cao đẳng nghề
đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực vùng đồng bằng sông Cửu Long”, luận án
tiến sĩ chuyên ngành quản lý giáo dục của Nguyễn Mỹ Loan đã bảo vệ tại
Viện Khoa học giáo dục Việt Nam năm 2014 . Luận án chỉ đề cập và phân
tích những vấn đề dưới góc độ quản lý nhà nước về phát triển (số lượng, chất
lượng và cơ cấu) đội ngũ giảng viên trường cao đẳng nghề để đáp ứng nhu
5
cầu đào tạo nhân lực vùng đồng bằng sông Cửu Long, trên cơ sở phân tích
thực trạng phát triển mạng lưới các trường cao đẳng vùng đồng bằng sông
Cửu Long công trình đã làm rõ tính cấp thiết phải phát triển và quản lý đội
ngũ giảng viên cho phù hợp yêu cầu phát triển các trường cao đẳng nghề tại
vùng đồng bằng sông Cửu Long.
+ Bài báo “Phát triển đội ngũ Giáo viên dạy nghề góp phần đổi mới
căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam ” của tác giả Phạm Xuân Thu, Phó
Viện trưởng Viện nghiên cứu Khoa học Dạy nghề. Trong bài tác giả đã nêu ra
được thực trạng của đội ngũ giáo viên dạy nghề hiện nay và đồng thời đưa ra
các giải pháp nhằm phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề góp phần đổi mới
căn bản toàn diện nền giáo dục. giải pháp mang tính chiến lược đó là đào tạo
bồi dưỡng nâng cao trình độ của đội ngũ giáo viên dạy nghề.
+ Bài báo “Giải pháp xây dựng, phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề
đến năm 2015” của PGS.TS Cao Văn Sâm, Phó Tổng cục trưởng – Tổng cục
Dạy nghề. Trong bài báo tác giả đã nhấn mạnh “đối với giáo viên dạy các
nghề trọng điểm khu vực, quốc tế cần đào tạo, bồi dưỡng đạt chuẩn về kỹ
năng nghề, năng lực sư phạm, ngoại ngữ theo chuẩn, chương trình của các
nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới; giáo viên dạy ở các nghề trọng
điểm quốc tế cần đào tạo, bồi dưỡng đạt chuẩn quốc gia về trình độ, kỹ năng
nghề và nghiệp vụ sư phạm; đối với những người có chuyên môn tham gia
dạy nghề cho lao động nông thân cần tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng công nghệ
mới, kỹ năng dạy học và các năng lực khác”
Từ đó cho thấy vấn đề đào tạo phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề,
giảng viên dạy cao đẳng nghề hiện nay không còn là mới nhưng vẫn luôn
được quan tâm vì tính cấp thiết. Trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội đã có
bề dày lịch sử và có nhiều thành tích trong việc đào tạo đội ngũ giảng viên.
Tuy nhiên trong bối cảnh đất nước có nhiều thay đổi về chính sách, hệ thống
luật pháp về dạy nghề, yêu cầu về chuẩn hóa trình độ đội ngũ giáo viên ngày
càng cao thì việc đi sâu vào nghiên cứu lý luận và thực tiễn để tìm ra những
6
giải pháp có tính chất khả thi cho công tác đào tạo đội ngũ giảng viên đáp ứng
được yêu cầu thực tiễn đặt ra cho nhà trường trong bối cảnh hội nhập như
hiện nay là vấn đề rất cần thiết và mang tính thực tiễn.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về đào tạo đội ngũ giảng viên dạy nghề.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng đào tạo đội ngũ giảng viên tại trường
Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo đội ngũ giảng
viên của trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội nhằm nâng cao chất lượng
đào tạo của nhà trường.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích, làm rõ hệ th ống cơ sở lý luận về đào tạo đội ngũ giảng viên;
- Phân tích làm rõ thực trạng đào tạo đội ngũ giảng viên tại trường Cao
đẳng nghề Cơ điện Hà Nội. Từ đó rút ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên
nhân trong đào tạo giảng viên tại trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội;
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo đội ngũ giảng
viên của trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội nhằm nâng cao chất lượng
đào tạo của nhà trường.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đào tạo đội ngũ giảng viên trong trường
Cao đẳng nghề.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Nghiên cứu đào tạo đội ngũ giảng viên tại trường
Cao đẳng nghề Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội.
+ Về thời gian: Thực hiện nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng
đào tạo đội ngũ giảng viên tại Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội trong giai đoạn
2012 – 2015 và đề ra giải pháp cho giai đoạn 2016 - 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
7
5.1. Phương pháp thu thập thông tin số liệu:
- Thu thập số liệu sơ cấp: tác giả trực tiếp thu thập thông qua các phiếu
điều tra, khảo sát. Trong đó đã thiết kế và thu thập và xử lý thông tin của 120
phiếu hỏi, đối với cán bộ quản lý, giảng viên của Trường cao đẳng nghề cơ
điện Hà Nội về các vấn đề liên quan đến công tác đào tạo giảng viên.
+ Thu thập số liệu thứ cấp:
Số liệu từ Website và phòng Đào tạo của trường để đánh giá tình hình
chung của trường với tư cách là địa bàn nghiên cứu.
Số liệu thống kê của Phòng Tổ chức cung cấp dữ liệu chính thức đánh
giá những nhân tố ảnh hưởng và thực trạng công tác đào tạo, phát triển
ĐNGV của trường từ giai đoạn 2012 đến nay.
5.2. Phương pháp phân tích - tổng hợp; Phương pháp phân tích - so sánh;
Phương pháp dự báo, phương pháp thống kê, phương pháp điều tra xã hội học.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục bảng biểu, danh mục
viết tắt, tài liệu tham khảo, phụ lục thì nội dung của luận văn được kết cấu
gồm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về đào tạo đội ngũ giảng viên.
Chương 2: Thực trạng đào tạo đội ngũ giảng viên tại Trường Cao
đẳng nghề Cơ điện Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo đội ngũ giảng viên tại
Trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội.
8
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Giảng viên
Theo Từ điển Tiếng Việt của GS Hoàng Phê chủ biên thì: “GV là người
giảng dạy ở đại học, cao đẳng hay lớp huấn luyện cán bộ”[28, tr 243]. Như
vậy, theo cách hiểu thông thường giảng viên là người làm nhiệm vụ giảng dạy
trong các trường đại học và cao đẳng.
Theo Luật Giáo dục được Quốc hội thông qua ngày 14/06/2005 thì
giảng viên là nhà giáo làm nhiệm vụ giảng dạy ở các cơ sở giáo dục đại học,
để phân biệt với giáo viên – người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong
nhà trường, cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề
nghiệp, cụ thể trong Luật giáo dục đã quy định như sau: “Nhà giáo giảng dạy
ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp gọi là
giáo viên, ở cơ sở giáo dục ĐH gọi là giảng viên” [14,tr25].
Như vậy, với nhiều cách hiểu và tiếp cận khác nhau, song có thể thống
nhất định khái niệm về giảng viên như sau: Giảng viên là nhà giáo, người làm
nhiệm vụ giảng dạy ở cơ sở giáo dục đại học, trường cao đẳng nghề.
Ngoài ra, giảng viên còn được định nghĩa theo 3 chức năng chính là:
nhà giáo - nhà khoa học - nhà cung ứng dịch vụ xã hội.
* Giảng viên – Nhà giáo
Đây là vai trò truyền thống, nhưng quan trọng và tiên quyết đối với một
giảng viên. Một giảng viên giỏi trước hết phải là người thầy giỏi. Thế nào là
một người thầy giỏi? Đó là một người uyên bác về kiến thức chuyên ngành mà
mình giảng dạy? – Đúng nhưng chưa đủ, uyên bác về kiến thức chuyên môn
mới chỉ là điều kiện cần, chứ chưa phải điều kiện đủ cho một thầy giáo giỏi.
Theo các nhà giáo dục thế giới thì một giảng viên toàn diện là người có
(được trang bị) 4 nhóm kiến thức/ kỹ năng sau: Kiến thức chuyên ngành; Kiến
9
thức về chương trình đào tạo; Kiến thức và kỹ năng về dạy học; Kiến thức về
môi trường giáo dục, hệ thống giáo dục, mục tiêu giáo dục, giá trị giáo dục…
Đây có thể coi là khối kiến thức cơ bản nhất làm nền tảng cho các hoạt động
dạy và học. Chỉ khi mỗi giảng viên hiểu rõ được các sứ mệnh, giá trị cốt lõi,
và các mục tiêu chính của hệ thống giáo dục và môi trường giáo dục thì việc
giảng dạy mới đi đúng định hướng và có ý nghĩa xã hội.
*Giảng viên – nhà khoa học
Ở vai trò thứ hai này, giảng viên thực hiện vai trò khoa học với chức
năng giải thích và dự báo các vấn đề của tự nhiên và xã hội mà loài người và
khoa học chưa có lời giải. Nghiên cứu khoa học, tìm cách ứng dụng các kết
quả nghiên cứu khoa học về thực tiễn đời sống và công bố các kết quả nghiên
cứu cho cộng đồng ( cộng đồng khoa học, xã hội nói chung, trong nước và
quốc tế) là ba chức năng chính của một nhà khoa học. Từ đây có hai xu hướng
nghiên cứu chính: nghiên cứu cơ bản ( basic research) và nghiên cứu ứng
dụng ( applied research). Khác với nghiên cứu cơ bản mang tính giải thích và
dự báo các vấn đề chưa khai phá của thiên nhiên và xã hội, nghiên cứu ứng
dụng là loại nghiên cứu hướng đến việc ứng dụng các kết quả của nghiên cứu
cơ bản vào giải quyết các vấn đề cụ thể của xã hội. Thông thường nghiên cứu
cơ bản được coi là vai trò chính xác của các giảng viên đại học. Còn nghiên
cứu ứng dụng mang tính công nghệ thường là kết quả của mối liên kết giữa
các nhà khoa học và nhà ứng dụng ( các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội).
Do vậy nghiên cứu ứng dụng thường có màu sắc của các dự án tư vấn được
đặt hàng bởi cộng đồng doanh nghiệp ( và do doanh nghiệp tài trợ).
Nghiên cứu khoa học phải đi kèm với công bố kết quả nghiên cứu.
Điều này có hai ý nghĩa: Thứ nhất, công bố kết quả nghiên cứu trên các tạp
chí chuyên ngành uy tín chính là thước đo chất lượng có ý nghĩa nhất đối với
một công trình nghiên cứu. Thứ hai, chỉ khi được công bố rộng rãi và đi vào
ứng dụng nghiên cứu khoa học mới hoàn thành sứ mệnh xã hội của mình. Và
như vậy trong vai trò nhà khoa học, giảng viên đại học không chỉ phải nắm
10
vững kiến thức chuyên môn, phương pháp nghiên cứu mà còn phải có kỹ
năng viết báo khoa học.
*Giảng viên – nhà cung ứng dịch vụ cho xã hội
Đây là một vai trò mà rất nhiều giảng viên đại học Việt Nam đang thực
hiện – nó cũng là một vai trò mà xã hội đánh giá cao và kỳ vọng ở các giảng
viên. Ở vai trò này, giảng viên cung ứng các dịch vụ của mình cho nhà
trường, cho sinh viên, cho các tổ chức xã hội – đoàn thể, cho cộng đồng và
cho xã hội nói chung. Cụ thể đối với nhà trường và sinh viên, một giảng viên
cần thực hiện các dịch vụ như tham gia công tác quản lý, công việc hành
chính, tham gia các tổ chức xã hội, cố vấn cho sinh viên, liên hệ thực tập, tìm
chỗ làm cho sinh viên… Với ngành của mình, giảng viên làm phản biện cho
các tạp chí khoa học, tham dự vào tổ chức các hội thảo khoa học.
Đối với cộng đồng, giảng viên trong vai trò của một chuyên gia cũng
thực hiện các dịch vụ như tư vấn, cung cấp thông tin, viết báo. Trong chức
năng này, giảng viên đóng vai trò là cầu nối giữa khoa học và xã hội, để đưa
nhanh các kiến thức khoa học vào đời sống xã hội. Viết báo thời sự ( khác với
báo khoa học) là một chức năng khá quan trọng và có ý nghĩa lớn trong việc
truyền bá kiến thức khoa học và nâng cao dân trí.
Với chức năng là Nhà giáo, nhà nghiên cứu, nhà cung ứng dịch vụ
người giảng viên phải đầu tư tỷ lệ thời gian nhất định để thực hiện. Hiện nay
có rất nhiều quan điểm khác nhau nhưng thực tế không có câu trả lời chính
xác. Tuy vậy, dù trong quan điểm nào thì giữa quan điểm Giảng viên là nhà
Giảng dạy – Nghiên cứu khoa học – Dịch vụ đều thể hiện rõ nét vì giữa chúng
có mối liên hệ tương hỗ hết sức chặt chẽ, cái này bổ sung và làm phong phú
cái kia. Thực hiện đầy đủ và toàn diện cả ba mối quan hệ nêu trên quả là một
thách thức lớn không chỉ cho từng giảng viên mà cho cả hệ thống giáo dục.
Nhưng nó lại là cái đích để phấn đấu và đầu tư. Hiện nay và trong tương lai
gần một yếu tố quan trọng nữa cũng cần phải được đưa vào mô hình Quốc tế
11
hóa. Nghĩa là vai trò của các giảng viên đại học hay các trường đại học sẽ
không còn giới hạn trong phạm vi quốc gia, mà tầm hoạt động phải hướng
đến một không gian toàn cầu, phi biên giới. Điều này là hiện thực khi hợp tác,
chuyên môn hóa và giao lưu kinh tế - xã hội đang diễn ra trên phạm vi toàn
cầu và ngày càng mãnh liệt. Nhu cầu phát triển đòi hỏi lực đẩy lớn từ hệ
thống giáo dục. Xã hội hội nhập toàn cầu thì giáo dục không thể không hội
nhập nếu không muốn nói là giáo dục phải đi trước trong hội nhập.
Từ các chức năng trên, theo điều 55 Luật giáo dục đại học, các giảng
viên có những nhiệm vụ cơ bản sau đây [15, tr27]:
- Giảng dạy theo mục tiêu, chương trình đào tạo và thực hiện đầy đủ, có
chất lượng chương trình đào tạo.
- Nghiên cứu, phát triển ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ,
bảo đảm chất lượng đào tạo.
- Định kỳ học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên
môn nghiệp vụ và phương pháp giảng dạy.
- Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của giảng viên.
- Tôn trọng nhân cách của người học, đối xử công bằng với người học,
bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của người học.
- Tham gia quản lý và giám sát cơ sở giáo dục đại học, tham gia công
tác Đảng, đoàn thể và các công tác khác.
1.1.2. Đội ngũ giảng viên
Theo từ điển Tiếng Việt của tác giả Nguyễn Văn Đạm (Nhà xuất bản
Văn hóa thông tin năm 1993) thì “Đội ngũ được hiểu là tập hợp những người
có chung hành động, nhiệm vụ thành một tổ chức hướng đạt tới mục tiêu
chung” [19,tr102].
Với cách hiểu trên thì, đội ngũ giảng viên có thể hiểu là tập hợp các
nhà giáo làm nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học ở các cơ sở giáo
dục đại học (trường cao đẳng và trường đại học), họ gắn kết với nhau bằng hệ