Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ trong quản lý nhà nước - Từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng
3,622
584
98
64
Chưa có chính sách riêng cho cán bộ nữ, đặc biệt là cán bộ nữ dân tộc
Mông, Dao, sán chỉ, Lô lô, chính sách ưu tiên trong tuyển dụng, quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng nguồn cán bộ cho tỉnh. Do đó nguồn cán bộ
dân tộc ít người tham gia tổ chức bộ máy nhà nước còn rất hạn chế.
Trong lao động việc làm, mặc dù chênh lệch về tỷ lệ không nhiều, nhưng
thu nhập thực tế của nam giới vẫn cao hơn ở nữ giới. Trong chỉ đạo, điều
hành cá biệt có Sở, ngành còn chưa quan tâm đến lĩnh vực công tác bình đẳng
giới của ngành, chưa bố trí cán bộ và tạo điều kiện cho hoạt động bình đẳng
giới và tiến bộ của phụ nữ. Việc xây dựng và ban hành các văn bản hướng
dẫn chậm; chưa bố trí kinh phí cho các hoạt động bình đẳng giới.
Đội ngũ cán bộ Hội LHPN cấp cơ sở cao tuổi, năng lực hạn chế chưa
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; một số cán bộ trẻ, cán bộ mới tham gia công tác
Hội còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn và kỹ năng vận động quần chúng, chưa
năng động, sáng tạo, linh hoạt vận dụng, tích cực đổi mới về nội dung, phương
thức hoạt động.
Kỹ năng phát hiện vấn đề, tham mưu đề xuất, xây dựng kế hoạch, cụ
thể hoá nội dung, chương trình của Hội cấp trên gắn với nhiệm vụ chính trị
và tình hình thực tiễn của địa phương còn hạn chế.
Những hạn chế nêu trên đã ảnh hưởng tiếp đến việc phát huy vai trò của Hội
LHPN tỉnh trong xây dựng bộ máy nhà nước.
Thứ hai, hạn chế trong xây dựng, ban hành và thực thi chính sách, pháp luật
Một số cán bộ Hội LHPN còn thiếu kinh nghiệm trong việc phát hiện
vấn đề và tham mưu đề xuất với cấp uỷ, chính quyền giải quyết những vấn đề
bức xúc liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của phụ nữ; kỹ
năng xây dựng kế hoạch, cụ thể hoá nội dung, chương trình của Hội cấp trên
gắn với nhiệm vụ chính trị và tình hình thực tiễn của địa phương còn hạn chế;
việc nắm bắt và phản ánh tình hình tư tưởng, dư luận xã hội của các tầng lớp
65
phụ nữ chưa kịp thời; tỷ lệ hội viên, phụ nữ mù chữ là người dân tộc thiểu số
ở các xă vùng sâu, vùng xa, biên giới còn cao.
Trong chỉ đạo tổ chức thực hiện còn hiện tượng hành chính, rập khuôn,
dàn trải; tính chủ động của các cấp Hội chưa cao. Một số địa phương còn tâm
lý trông chờ vào chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể từ cấp trên, ít sáng tạo trong triển
khai thực hiện. Công tác nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của hội viên, phụ nữ có
nơi, có lúc chưa kịp thời. Chậm đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng,
giáo dục pháp luật, đạo đức lối sống. Thiếu chủ động phản ánh và quyết liệt
đấu tranh với các hành vi xâm hại thân thể và nhân phẩm của phụ nữ. Các giải
pháp hỗ trợ phụ nữ giảm nghèo, phát triển kinh tế bền vững thiếu đồng bộ.
Công tác phản biện xã hội của Hội còn rất lúng túng, chủ yếu là việc Hội
đưa ra những nhận xét, phân tích lý lẽ có căn cứ khoa học và thực tế làm rõ bản
chất của vấn đề chính sách, pháp luật theo quan điểm giới và kiến nghị thiết kế
các quy định pháp luật bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho phụ nữ
và trẻ em mà được các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, sửa đổi
hoặc bổ sung. Do vậy, những phản biện thời gian qua của Hội chủ yếu tập trung
vào 3 khía cạnh: các vấn đề liên quan đến phụ nữ với tư cách là những biện pháp
thúc đẩy đảm bảo các cơ quan chức năng thực thi đúng chính sách, pháp luật của
nhà nước quy định; các chính sách dành cho phụ nữ, nam giới với tư cách là
người mẹ, người cha và thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong
việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới. Hình thức phản biện chủ yếu là bằng văn
bản, chưa có đối thoại mang tính chất chuyên sâu. Vì vậy trong thời gian tới Hội
LHPN tỉnh cần có các giải pháp để thực hiện vai trò tham gia kiểm soát trong
quản lý nhà nước đạt hiệu quả hơn.
Thứ ba, hạn chế trong họat động giám sát bộ máy nhà nước
Công tác giám sát có lúc, có nơi còn lúng túng về cách làm. Tổ chức Hội
các cấp chủ yếu thực hiện giám sát thông qua hoạt động kiểm tra công tác Hội
66
hằng năm; văn bản kiến nghị của tổ chức Hội sau giám sát đề nghị với các cơ
quan chức năng chưa được quan tâm đúng mức. Vai trò tham mưu, đề xuất
tham gia xây dựng, phản biện và giám sát của các cấp Hội còn thiếu chủ động
cán bộ Hội từ cấp tỉnh đến cấp xã còn thiếu về kỹ năng, phương pháp thực hiện
giám sát, phản biện.
Nguyên nhân ch quan: Đội ngũ cán bộ chưa bắt kịp xu thế đổi mới và
yêu cầu ngày càng cao của công tác phụ nữ. Một bộ phận cán bộ Hội chưa
nhận thức đầy đủ yêu cầu đổi mới công tác phụ nữ, công tác Hội, về chức
năng đại diện của tổ chức Hội, vai trò và trách nhiệm của mình.
Trình độ, năng lực phát hiện vấn đề, tham mưu, đề xuất chính sách và
giám sát, phản biện xã hội còn hạn chế; chưa bản lĩnh để có tiếng nói mạnh
mẽ bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của phụ nữ. Kinh phí bố trí
cho tổ chức Hội thực hiện còn rất hạn chế, chưa có kinh phí tổ chức các lớp
tập huấn, bồi dưỡng chuyên đề công tác giám sát, phản biện.
Công tác đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ thiếu
chiến lược. Việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Hội còn
chậm; chưa chú trọng nghiên cứu dự báo tình hình để làm cơ sở đề xuất các
giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động Hội và đề xuất các chính sách cho
phụ nữ.
Nguyên nhân khách quan: Việc cụ thể hoá đường lối, chủ trương chính
sách của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phụ nữ và bình đẳng
giới ở một số ít địa phương chưa được cấp uỷ quan tâm đúng mức.
Nhận thức về bình đẳng giới trong xã hội, ngay cả trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên và của chính phụ nữ chưa đầy đủ.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, mặt trái của kinh tế thị trường đã tác
động không nhỏ đến nhận thức, lối sống, chất lượng cuộc sống của phụ nữ,
mối quan hệ gia đình, từ đó ảnh hưởng đến khả năng thu hút, tập hợp phụ nữ,
các hoạt động chăm lo cho hội viên và chất lượng hoạt động Hội.
67
Kết luận chƣơng 2
Qua phân tích thực trạng về tình hình kinh tế, xã hội của tỉnh Cao Bằng
và thực trạng hoạt động của Hội LHPN tỉnh Cao Bằng tham gia quản lý nhà
nước thời gian qua cho thấy hệ thống chính trị của tỉnh Cao Bằng từ tỉnh đến
cơ sở đã có nhiều cố gắng trong việc quản lý, điều hành phát triển kinh tế, xã
hội của địa phương trong đó có vai trò tham gia tích cực của Hội LHPN tỉnh
Cao Bằng đã góp phần quan trọng trong quản lý nhà nước. Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đạt được thì Hội LHPN tỉnh Cao Bằng còn nhiều hạn chế
chưa phát huy hết vai trò của mình trong tham gia quản lý nhà nước. Đòi hỏi
tổ chức Hội LHPN tỉnh Cao Bằng cần có những giải pháp tích cực hơn trong
thời gian tới.
68
Chƣơng 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TRONG
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC - TỪ THỰC TIỄN CỦA TỈNH CAO BẰNG
3.1. Giải pháp chung
3.2.1. Hoàn thiện luật pháp, chính sách về bình đẳng giới, tạo điều kiện
cho các cấp Hội phụ nữ tham gia đóng góp ý kiến vào nội dung các văn
bản quy phạm pháp luật
Tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tiến hành rà soát, bổ
sung hoàn thiện cơ chế, chính sách trong việc bảo đảm cho các cấp Hội phụ
nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà nước. Nghiên cứu sửa đổi Luật Bình đẳng
giới, các văn bản pháp luật có liên quan, bảo đảm phù hợp với Hiến pháp,
đồng bộ, thống nhất, đáp ứng yêu cầu tình hình mới.
Xây dựng và thực hiện các chính sách đặc thù hỗ trợ phụ nữ ở vùng cao,
vùng sâu, biên giới, hải đảo, phụ nữ là người dân tộc thiểu số, phụ nữ khuyết
tật, đơn thân, cao tuổi, phụ nữ mang thai và nuôi con nhỏ, lao động nữ di cư,
chuyển đổi nghề.
Đề xuất các chính sách cho nữ cán bộ, công chức, viên chức khi đi học
có con nhỏ; tỷ lệ phụ nữ tham chính; về tuổi nghỉ hưu của cán bộ nữ; cần tiếp
tục bổ dung, hoàn thiện chính sách đối với tài năng nữ, phụ nữ dân tộc thiểu
số. Tạo điều kiện để phụ nữ được tham gia đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình
độ, nghiên cứu khoa học, tiếp cận với khoa học, công nghệ đáp ứng yêu cầu
hội nhập và phát triển của đất nước.
Cơ quan được Chính phủ phân công cần tham mưu ban hành văn bản
hướng dẫn các bộ, ngành, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quán
triệt tinh thần của Chính phủ quy định trách nhiệm của cơ quan hành chính
nhà nước các cấp trong việc bảo đảm cho các cấp Hội phụ nữ các cấp tham
69
gia quản lý nhà nước; đôn đốc, kiểm tra, thanh tra việc triển khai thực hiện.
Cải cách thể chế để tạo lập quyền và cơ hội bình đẳng cho phụ nữ và
nam giới. Cải cách pháp lý sẽ tăng cường bình đẳng giới rõ nét nhất qua: Luật
hôn nhân gia đình, luật chống bạo hành, bạo lực, quyền về đất đai, luật lao
động, quyền chính trị. Việc này sẽ tạo môi trường cho sự bình đẳng về cơ hội
và quyền lực, hai yếu tố thiết yếu để đạt được bình đẳng giới trên các phương
diện khác như giáo dục, y tế và tham gia chính trị.
3.2.2. Nâng cao trách nhiệm và hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan, tổ
chức trong hệ thống chính trị, giữa các cơ quan quản lý nhà nước với Hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam
Thực hiện có hiệu quả Nghị định 56 của Chính phủ, trong đó đối với
cấp Trung ương cần thể hiện vai trò, trách nhiệm quản lý nhà nước của các
bộ, ngành trong việc lồng ghép cơ chế, chính sách và tạo điều kiện cho các
cấp Hội phụ nữ tham gia quản lý nhà nước; đồng thời rõ trách nhiệm của các
bộ, ngành này trong việc tạo điều kiện cho phụ nữ của chính bộ, ngành mình
tham gia quản lý nhà nước; cụ thể hoá các tiêu chí đánh giá việc thực hiện
Nghị định; hỗ trợ về tài chính, cơ sở vật chất bảo đảm cho các cấp Hội tham
gia quản lý nhà nước trên địa bàn.
Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các sở, ngành nâng cao trách nhiệm
phối hợp thực hiện công tác phụ nữ. Tăng cường hỗ trợ cho Hội LHPN thực
hiện hoặc tham gia các đề án, dự án tham gia phát triển kinh tế, xã hội. Phát
huy những những thế mạnh đặc thù của tổ chức Hội là giải quyết những vấn
đề là lợi ích thiết thân của phụ nữ.
Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp tăng cường mối quan hệ phối kết hợp với
các cơ quan, tổ chức xã hội trong nước và nước ngoài để huy động nguồn lực,
đẩy mạnh công tác dạy nghề, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho phụ nữ,
70
đặc biệt chú ý tới đối tượng phụ nữ ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng gặp
nhiều khó khăn, phụ nữ là người dân tộc... nhằm thu hẹp dần khoảng cách về
cơ hội và điều kiện phát triển của phụ nữ ở các vùng, miền.
3.2.3. Nâng cao chất lượng hoat động của tổ chức Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam thực hiện tốt vai trò tham gia quản lý nhà nước
Nêu cao vai trò, trách nhiệm của Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam chủ trì phối hợp triển khai thực hiện như: tổ chức tuyên truyền, phổ
biến chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước nói chung, các văn bản liên
quan đến công tác nữ và bình đẳng giới nói riêng; đẩy mạnh các phong trào
do Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam phát động; kiểm tra, đôn đốc
Hội phụ nữ các cấp triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước; nghiên cứu đổi mới phương thức hoạt động của Hội phụ nữ các
cấp nhằm khuyến khích, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia trong nhiều lĩnh
vực hoạt động và công tác.
Quan tâm, đầu tư công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn
để phụ nữ có điều kiện phát huy khả năng, tham gia công tác quản lý nhà
nước trên các lĩnh vực đời sống - xã hội. Xây dựng đội ngũ cán bộ Hội các
cấp có đủ phẩm chất, năng lực, sáng tạo, tâm huyết, trách nhiệm, giỏi vận
động phụ nữ; tích cực tạo nguồn cán bộ nữ cho hệ thống chính trị.
Nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động Hội cơ sở; đa dạng hóa các
hình thức tập hợp phụ nữ; phát huy quyền làm chủ của hội viên, phụ nữ.
Thực hiện hiệu quả công tác giám sát, phản biện xã hội, tham mưu đề xuất
chính sách góp phần giải quyết các vấn đề thiết thân của phụ nữ. Thực hiện
công tác giám sát, phản biện xã hội theo Quyết định số 217-QĐ/TW của Bộ
Chính trị ở tất cả các cấp, tập trung vào các dự án luật, chương trình, đề án
liên quan đến phụ nữ, trẻ em gái và bình đẳng giới.
71
3.2.4. Tiếp tục nâng cao nhận thức, quan điểm về bình đẳng giới, thực hiện
có hiệu quả công tác cán bộ nữ
Quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương về công tác vì sự tiến bộ phụ
nữ, công tác cán bộ nữ theo tinh thần Nghị quyết của Đảng trong các cấp uỷ
Đảng, chính quyền, đặc biệt là đối với người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo chủ
chốt các cấp, các ngành từ trung ương tới cơ sở. Từ đó nâng cao trách nhiệm,
tạo sự thống nhất trong các cấp uỷ Đảng, các cơ quan, ban, ngành.
Đối với các chức danh lãnh đạo, quản lý và xây dựng quy hoạch các
chức danh trên, ở mọi lĩnh vực, từ trung ương tới cơ sở nhất thiết phải có cán
bộ nữ. Xây dựng quy hoạch gắn với kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và
đề bạt cán bộ nữ. Hàng năm tiến hành rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch
về cán bộ nữ để đảm bảo chất lượng, tỷ lệ, cơ cấu cán bộ nữ trong quy hoạch
chung. Thực hiện luân chuyển cán bộ nữ theo quy hoạch, kết hợp việc luân
chuyển để đào tạo cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý. Khi luân chuyển cần quan tâm
đến đặc điểm riêng của cán bộ nữ.
Chú trọng công tác tạo nguồn cán bộ nữ và đảm bảo tỷ lệ nữ đựơc tuyển
dụng vào các cơ quan, ban, ngành theo quy định. Tăng cường công tác phát
hiện, bồi dưỡng các tài năng nữ từ sớm; đồng thời lãnh đạo các cấp cần tin
tưởng và mạnh dạn giao công việc cho cán bộ, công chức, viên chức nữ nhiều
hơn nữa, tạo điều kiện để các chị rèn luyện, phấn đấu và trưởng thành từ công
việc. Nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ. Trong đó, tập
trung xây dựng chiến lược đào tạo cán bộ nữ theo từng lĩnh vực, từ đó cụ thể
hoá kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ trong các cơ quan, ban, ngành, các
tổ chức đoàn thể và các doanh nghiệp nhà nước
Tiến hành rà soát, nghiên cứu xây dựng chính sách ưu đãi về đào tạo,
cử tuyển đối với cán bộ nữ là người dân tộc thiểu số, cán bộ nữ công tác tại
địa bàn vùng sâu vùng xa, biên giới, hải đảo; chính sách trợ cấp cho nữ trong
72
thời gian tham gia các khoá đào tạo dài hạn, cán bộ nữ đi học có con nhỏ...
Bên cạnh đó cần có chính sách ưu tiên, khuyến khích, tạo điều kiện để tăng tỷ
lệ cán bộ nữ được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao về chuyên môn, nghiệp vụ, về
lý luận chính trị, ngoại ngữ tin học đáp ứng yêu cầu của công tác cán bộ thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2.5. Đề xuất, tham gia xây dựng, phản biện và giám sát luật pháp, chính
sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em
Tập trung tham mưu đề xuất một số chính sách liên quan trực tiếp đến
quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, như: phát triển nhà hay nhóm trẻ dựa vào
cộng đồng; chế độ thai sản đối với phụ nữ nghèo cư trú ở vùng sâu, vùng xa,
là đồng bào dân tộc thiểu số, sinh con đúng chính sách dân số, chính sách đặc
thù đối với cán bộ nữ công tác ở vùng cao, vùng sâu, biên giới, hải đảo, cán
bộ nữ là người dân tộc thiểu số.
Tổ chức giám sát và tham gia kiểm tra, giám sát theo quy định việc
soạn thảo, thực hiện chính sách, pháp luật liên quan đến phụ nữ, gia đình,
bình đẳng giới, an sinh xã hội và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội;
phản hồi kịp thời và đề xuất biện pháp giải quyết phù hợp, đảm bảo chất
lượng, hiệu quả công tác giám sát; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền và huy động sự tham gia trực tiếp của phụ nữ trong quá
trình giám sát.
Phát triển các mô hình tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý cho hội viên,
phụ nữ phù hợp với đối tượng và khả năng của từng cấp Hội; xây dựng mạng
lưới và phát huy hiệu quả hoạt động của cộng tác viên trợ giúp pháp lý, tư vấn
pháp luật của Hội; củng cố, thành lập mới các Trung tâm hoặc Phòng tư vấn
pháp luật; duy trì tính bền vững, nâng chất lượng và mở rộng mô hình câu lạc
bộ Phụ nữ với pháp luật... tại cộng đồng.
73
3.2. Giải pháp cụ thể đối với Hội liên hiệp Phụ nữ tỉnh Cao Bằng
3.2.1.Tuyên truyền, vận động các tầng lớp phụ nữ nâng cao nhận thức về
vai trò, vị trí, tiềm năng của Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Cao Bằng trong
quản lý nhà nước
Hội LHPN tỉnh Cao Bằng tiếp tục phát huy truyền thống quê hương cách
mạng, động viên mọi tầng lớp phụ nữ trong tỉnh nêu cao ý chí tự lực, tự
cường, năng động, sáng tạo, khai thác tốt mọi tiềm năng, thế mạnh của tỉnh,
huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xây dựng tổ chức Hội
LHPN các cấp vững mạnh, tập hợp thu hút đông đả các tầng lớp phụ nữ tham
gia hoạt động Hội.
Tổ chức các hoạt động truyền thông của Hội để nâng cao nhận thức của
hội viên, phụ nữ trong tỉnh về sự cần thiết xây dựng người phụ nữ Cao Bằng
phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, tinh thần, năng lực sáng
tạo,
ý thức công dân, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Lựa chọn nội dung tuyên truyền, giáo dục truyền thống quê hương cách
mạng cho các tầng lớp phụ nữ, khơi dậy niểm tự hào dân tộc Non nước Cao
Bằng là công viên địa chất toàn cầu được tổ chức UNESCO công nhận, về các
di tích Quốc gia đặc biệt của địa phương; giáo dục chính trị, tư tưởng, phổ
biến, giáo dục pháp luật phù hợp với các nhóm phụ nữ, đặc biệt quan tâm
nhóm phụ nữ dân tộc thiểu số, tôn giáo, phụ nữ nông thôn đi làm ăn xa; định
kỳ thông tin thời sự, quyền, nghĩa vụ của công dân, bảo vệ chủ quyền đất
nước. Cải tiến, đa dạng hóa các hình thức quán triệt nghị quyết, truyền thông
trực tiếp thông qua sinh hoạt hội viên, sinh hoạt cộng đồng, các hội nghị, hội
thảo, diễn đàn, đối thoại, đào tạo trực tuyến; ứng dụng công nghệ thông tin, đa
dạng hoá các sản phẩm truyền thông.