Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ trong quản lý nhà nước - Từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng
3,704
584
98
44
Bảng 2.2. Bảng số liệu cán bộ Hội cấp huyện tỉnh Cao Bằng
Hội LHPN các huyện/thành
Chủ tịch,
Phó Chủ tịch
Cán bộ
Số
lƣợng
Tỷ lệ
%
Số
lƣợng
Tỷ lệ
%
Tổng số
26
100
21
100
Trình độ chuyên
môn
Sơ cấp
0
Trung cấp, Cao đẳng
0
Đại học
26
100
21
100
Trình độ lý luận
Trung cấp
13
50
Cao cấp
13
50
( nguồn: Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Cao Bằng)
Cán bộ chuyên trách Hội LHPN cấp xã có 199 công chức chức danh là
Chủ tịch, cụ thể xem Bảng 2.3.
Bảng 2.3. Số liệu cán bộ Hội cấp xã, phƣờng, thị trấn tỉnh Cao Bằng
Hội LHPN xã/phƣờng/thị trấn
Chủ tịch
Phó Chủ tịch
Số
lƣợng
Tỷ lệ
%
Số
lƣợng
Tỷ lệ
%
Tổng số
199
100
199
100
Trình độ
chuyên môn
Sơ cấp
111
55,8
Trung cấp
154
77,38
55
27,64
Cao đẳng, Đại học
45
22,6
11
5,53
Trình độ lý
luận
Sơ cấp
15
7,5
4
2
Trung cấp
80
40
13
6,5
(nguồn: Hội LHPN tỉnh Cao Bằng)
Với hệ thống tổ chức bộ máy cán bộ Hội LHPN tỉnh Cao Bằng từ tỉnh
đến thôn, xóm, tổ dân phố, đội ngũ cán bộ Hội các cấp có bản lĩnh chính trị
vững vàng, có phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm cao, tâm huyết, nhiệt
45
tình với công việc; có kinh nghiệm thực tiễn, khả năng tiếp thu, quán triệt và
cụ thể hóa các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, triển khai thực hiện các chương
trình, nhiệm vụ công tác Hội.
Hội LHPN các cấp tham gia đóng góp và đề xuất ý kiến trong các ban
chỉ đạo, các Hội đồng tại địa phương về những vấn đề liên quan đến phụ nữ.
Hội LHPN cấp xã là lực lượng nòng cốt đi đầu trong các hoạt động hỗ trợ phụ
nữ phát triển kinh tế, giảm nghèo, bảo vệ môi trường, phòng chống các tệ nạn
xã hội, tích cực tham gia hoạt động nhân đạo, từ thiện ở địa phương.
*V tình hình ph n tnh Cao Bng
Chiếm trên 50,6% dân số và 48,3% lực lượng lao động xã hội, lực lượng
phụ nữ tỉnh Cao Bằng đóng vai trò quan trọng trong các lĩnh vực, góp phần
cùng toàn dân thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân.
Trong gia đình và cộng đồng xã hội, phụ nữ Cao Bằng luôn là người
đảm đang, gánh vác mọi công việc của gia đình, thường xuyên phải đối phó
với mọi diễn biến thiên tai, địch họa, càng thông cảm gắn bó với quê hương,
xóm làng vun đắp thành một khối cộng đồng đoàn kết. Ngày nay, trong quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhiều phụ nữ nông thôn đang
trở thành nữ công nhân có trình độ ở các khu công nghiệp của Sam Sung tại
các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Ninh, các khu công nghiệp tinh Bình Dương... Họ
không chỉ làm việc ở các nhà máy, xí nghiệp mà ngay cả trên đồng ruộng
được cơ khí hóa, tự động hóa sản xuất; nhiều người trở thành nhà quản lý
năng động, điển hình tiên tiến phụ nữ làm kinh tế giỏi… Hiện nay, nhiều cơ
hội mới đang mở ra cho sự phát triển của phụ nữ, tạo cho họ nhiều việc làm
phù hợp và từ đó nâng cao vị thế của họ. Quá trình hình thành chuẩn mực trên
là sự kết hợp giữa những giá trị văn hóa truyền thống của phụ nữ Cao Bằng,
46
cùng với việc phát huy những giá trị tư tưởng, tinh hoa tốt đẹp của thời đại
mới. Mỗi người phụ nữ tạo ra bản lĩnh riêng, từ trí tuệ được nâng cao, nhạy
bén và năng động, cùng với vẻ đẹp nhẹ nhàng, sâu sắc tỏa ra từ tấm lòng nhân
hậu của họ. Họ là những công dân ưu tú, giúp ích cho xã hội, đồng thời là
người vợ hiền, người mẹ tận tâm, là ngọn lửa trong mỗi mái ấm gia đình.
Trong quá trình ấy, khoảng cách vai trò giữa nam giới và phụ nữ rút
ngắn dần và nội dung của chuẩn mực công, dung, ngôn, hạnh trong xã hội
hiện đại có sự thay đổi. Sự thay đổi đó dựa trên sự kế thừa và phát triển thêm
những giá trị để phù hợp với thời đại mới. Tuy nhiên công tác phụ nữ của tỉnh
Cao Bằng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề cần giải quyết đó là:
Tỷ lệ hộ nghèo do phụ nữ làm chủ là 5.513 hộ chiếm 11,45%, phụ nữ mũ
chữ, tái mù chữ còn gần 15.000 hội viên, phụ nữ. Tình trạng phụ nữ dân tộc
Mông, Dao, Lô Lô, Sán chỉ có tư tương trông chờ ỷ lại, chưa tự lực, tự cường
để tự vươn lên thoát nghèo, mà còn trông chờ vào các chính sách hỗ trợ của
Nhà nước; phong tục tập quán ăn sâu vào tiềm thức, suy nghĩ sản xuất, chăn
nuôi, trồng trọt đủ ăn là được mang tính tự túc tự cấp, ngại đổi mới, sợ khó
khăn, thiếu kinh nghiệm trong việc lập kế hoạch, ý tưởng sản xuất kinh
doanh; điều kiện đi lại của chị em ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn,
trình độ nhận thức hạn chế, một số chị em phụ nữ còn mù chữ nên việc tiếp
cận với kiến thức khoa học kỹ thuật còn nhiều hạn chế.
Ngoài ra, một thực trạng đáng lo ngại trên tuyến biên giới tỉnh Cao
Bằng, đó là tình trạng công dân Việt Nam (trong đó có nhiều nữ công nhân,
đặc biệt là phụ nữ dân tộc thiểu số ở nông thôn, miền núi, vùng biên giới)
vượt biên trái phép sang Trung Quốc làm thuê trái pháp luật có chiều hướng
ngày càng gia tăng, bình quân mỗi năm có trên 5000 phụ nữ sang Trung Quốc
làm thuê trái phép. Hoạt động này chủ yếu diễn ra tự phát, không tuân thủ
47
theo quy định của pháp luật (không có giấy tờ, không đi qua cửa khẩu), họ
thường tập hợp thành từng nhóm người trong cùng một địa bàn vượt biên giới
qua các đường mòn, lối mở hai bên biên giới. Thực trạng này không chỉ diễn
ra đối với quần chúng nhân dân ở địa bàn tỉnh Cao Bằng mà còn có cả công
dân ở các tỉnh khác như: Nghệ An, Thanh Hóa, Thái Bình, Bắc Giang, Bắc
Kạn, Tuyên Quang... Quá trình lao động làm thuê ở Trung Quốc do không có
giấy tờ và cư trú bất hợp pháp nên nhiều trường hợp công dân của ta đã bị các
lực lượng chức năng của phía Trung Quốc bắt, giam giữ, phạt tiền rồi thu gom
trao trả cho ta qua các cửa khẩu hoặc đơn phương bí mật đẩy, đuổi về qua
đường mòn biên giới. Cá biệt có những trường hợp bị tai nạn rủi ro, tử vong
trên đất Trung Quốc song không hề nhận được bất cứ sự hỗ trợ nào của các
doanh nghiệp, các chủ phía Trung Quốc thuê lao động. Thời gian đi làm thuê
thường diễn ra vào mùa nông nhàn, nhiều trường hợp đi liên tục trong cả năm.
Địa điểm đến làm thuê tập trung chủ yếu ở địa bàn tỉnh Quảng Tây và tỉnh
Quảng Đông, Trung Quốc. Mức thu nhập cho ngày công lao động dao động
trong khoảng từ 120.000 đến 350.000 VNĐ/người/ngày. Công việc làm thuê
chủ yếu tập trung vào các ngành nghề sử dụng lao động phổ thông ở trình độ
thấp như: phụ xây, làm gạch, làm cỏ mía, cỏ sắn, cấy lúa, phát nương rẫy,
chặt cây, hái quả, bốc vác... hoặc một số ngành nghề có yêu cầu tay nghề cao
hơn như: đào đãi vàng, làm ví da, khâu giầy và một số mặt hàng thủ công mỹ
nghệ khác... Mặc dù cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp và lực lượng
chức năng đã có nhiều chủ trương, giải pháp để tuyên truyền, vận động nhân
dân; tổ chức, ngăn chặn, xử lý các hành vi vượt biên giới trái phép sang Trung
Quốc làm thuê, song hiệu quả còn hạn chế. Thực trạng trên đã gây ảnh hưởng
không nhỏ đến công tác quản lý bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới và giữ gìn
an ninh trật tự trên địa bàn. Và hệ lụy của vấn đề này là người phụ nữ phải
48
sống tha phương, cảnh vợ xa chồng, mẹ một nơi, con một chốn, nhiều phụ nữ
có thể bị lừa bán trở thành nạn nhân trong các vụ buôn bán người... Dù biết
những nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cao nhưng nhiều phụ nữ vẫn phải xuất cảnh trái
phép. Trong đó, nguyên nhân chủ yếu là do cuộc sống còn khó khăn, thu nhập
thấp, công việc chưa ổn định, vì mưu sinh cuộc sống...
Tình trạng mua bán phụ nữ, trẻ em, mua bán trái phép chất ma túy gia
tăng, tình trạng xâm hại tình dục trẻ em diễn ra phức tạp, tình trạng tảo hôn,
hôn nhân cận huyết thống chủ yếu họ hàng, dòng họ ở vùng sâu, vùng xa dân
tộc thiểu số, trình độ dân trí thấp còn diễn ra khá nhiều...Hoạt động hỗ trợ phụ
nữ duy trì việc làm sau học nghề và giảm nghèo bền vững hiệu quả chưa cao;
chủ yếu dựa vào nguồn vốn nhận ủy thác vay vốn từ các Ngân hàng, chưa có
giải pháp về nguồn lực có tính chiến lược, lâu dài. Các mô hình phát triển
kinh tế chưa bền vững, chưa nhân được diện rộng, sản xuất kinh doanh còn
nhỏ lẻ, chưa có sản phẩm hàng hóa nông nghiệp, sản phẩm nông nghiệp ra
chưa có thị trường tiêu thụ ổn định.
Tình hình tôn giáo tên địa bàn tỉnh diễn biến phức tạp, toàn tỉnh có 4
huyện: Bảo Lâm, Hà Quảng, Hòa An, Trà Lĩnh bị ảnh hưởng của tổ chức bất
hợp pháp Dương Văn Mình vẫn còn những tiềm ản phức tạp, số hộ đi theo là
402 hộ đều là dân tộc Mông cư trú tại 39/360 xóm, trong đó có 34/376 chi hội
phụ nữ với 04 cán bộ Hội, 116 hội viên, 568 phụ nữ từ 15 tuổi trở lên tham
gia tổ chức tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình. Gần đây xuất hiện thêm
một số đạo lạ như Pháp luân công, Đức Chúa trời mẹ tuyên truyền, lôi kéo hội
viên, phụ nữ tham gia.
Từ thực tế trên, đòi hỏi các cấp Hội LHPN tỉnh Cao Bằng cần nâng cao
vai trò trong tham gia quản lý nhà nước.
49
2.2. Phân tích thực trạng vai trò của Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Cao Bằng
trong quản lý nhà nƣớc
2.2.1. Vai trò trong xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước
Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2015 - 2020 và bầu cử đại biểu Quốc hội
khoá XIV và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021 đã thể hiện sự quan tâm của
các cấp ủy Đảng, chính quyền và nỗ lực phấn đấu của cán bộ nữ trong tỉnh trong
xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước:
- Toàn tỉnh đã có 49 cán bộ nữ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản
lý: (Trong đó 01 đ/c phó Chủ tịch UBND tỉnh, 03 Ủy viên ban Thường vụ
Tỉnh ủy, 48 đ/c giữ chức vụ trưởng, phó các sở, ban, ngành, đoàn thể, chủ
chốt cấp huyện và tương đương). Tỷ lệ nữ giữ chức vụ trưởng, phó phòng
thuộc sở, ngành cấp tỉnh chiếm 42,8%; trưởng, phó các đoàn thể chiếm 60%.
Đồ thị 2.1. Tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy tỉnh Cao Bằng
( Nguồn: Hội LHPN tỉnh Cao Bằng)
.000%
5.000%
10.000%
15.000%
20.000%
25.000%
Nhiệm kz 2010-2015 Nhiệm kz 2015-2020
Cấp tỉnh Cấp huyện Cấp xã
50
Đồ thị 2.2. Tỷ lệ nữ tham gia đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp
(Nguồn: Hội LHPN tỉnh Cao Bằng)
Đồ thị 2.3. Tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo UBND các cấp
( Nguồn: Hội LHPN tỉnh Cao Bằng)
.000%
5.000%
10.000%
15.000%
20.000%
25.000%
30.000%
Nhiệm kz 2011-2016 Nhiệm kz 2016-2021
Quốc hội HĐND tỉnh HĐND cấp huyện HĐND cấp xã
.000%
25.000%
17.500%
15.000%
19.700%
17.300%
.000%
5.000%
10.000%
15.000%
20.000%
25.000%
30.000%
Nhiệm kz 2010-2015 Nhiệm kz 2015-2020
UBND cấp tỉnh UBND cấp huyện UBND cấp xã
51
Đồ thị 2.4. Tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo sở, ngành, đoàn thể
( Nguồn: Hội LHPN tỉnh Cao Bằng)
Đội ngũ cán bộ nữ tham gia cấp ủy, Quốc hội, HĐND các cấp, tham gia
lãnh đạo cấp phó, cấp trưởng từ cơ sở trở lên đã phát huy tốt vai trò của mình
trong xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước. Tham gia ban hành chủ trương, xây
dựng các cơ chế, chính sách quản lý nhà nước và các mục tiêu phát triển kinh
té, xã hội của địa phương góp phần tích cực trong xây dựng bộ máy nhà nước.
Hội LHPN tỉnh chủ động phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp
giới thiệu phụ nữ đủ trình độ, tiêu chuẩn ứng cử đại biểu HĐND các cấp;
tham gia quản lý, lãnh đạo Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể, bồi
dưỡng cán bộ, đảng viên nữ ưu tú là cán bộ nguồn cho Đảng, chính quyền.
Tham gia công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp: Hội
LHPN tỉnh chủ động rà soát tình hình cán bộ nữ đủ điều kiện, tiêu chuẩn ứng
cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp để tạo nguồn giới thiệu; chủ
động giới thiệu nữ ứng cử; phối hợp với Ban Vì sự tiến bộ của Phụ nữ tỉnh
mở lớp tập huấn cho các nữ ứng cử viên lần đầu tham gia ứng cử đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện.
Sở, ngành
Đoàn thể
Cấp xã
.000%
5.000%
10.000%
15.000%
20.000%
25.000%
30.000%
35.000%
Nhiệm kz 2015-
2020
14.600%
26.000%
31.600%
Sở, ngành Đoàn thể Cấp xã
52
Ban Thường vụ Hội LHPN tỉnh phối hợp với Ban Vì sự tiến bộ của Phụ
nữ tỉnh Cao Bằng mở 02 lớp tập huấn cho 275 nữ ứng cử viên lần đầu tham gia
ứng cử đại biểu HĐND cấp tỉnh và cấp huyện nhiệm kỳ 2016 - 2021. Các nữ
ứng cử viên đã được nghe giới thiệu về Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội và
HĐND, những điểm mới về Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội và HĐND năm
2015; kỹ năng xây dựng chương trình hành động vận động bầu cử. Việc áp
dụng phương pháp truyền đạt một cách khoa học của các báo cáo viên, kết hợp
giữa lý luận và thực tiễn, đồng thời có sự trao đổi, thảo luận giữa báo cáo viên
và các nữ ứng cử viên đã nâng cao tính tích cực, giúp cho đại biểu tiếp thu các
nội dung tập huấn có hiệu quả. Qua tập huấn giúp cho các nữ ứng cử viên có
thêm phương pháp, kỹ năng xây dựng chương trình hành động, tự tin trong
hoạt động tiếp xúc cử tri, tuyên truyền vận động bầu cử theo luật định.
Kết quả: Trong các nữ ứng cử viên lần đầu ứng cử tham gia tập huấn có
7/14 (đạt 50%) trúng cử đại biểu HĐND cấp tỉnh và 67/275 (đạt 24,4%)
trúng cử đại biểu HĐND cấp huyện. Tuyên truyền tốt việc triển khai thực hiện
để đảm bảo tiêu chuẩn, tỷ lệ cũng như tham gia hiệp thương giới thiệu người
ra ứng cử của nữ ứng cử viên đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp
theo quy định, qua đó đã phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vai trò của tổ
chức Hội.
2.2.2. Vai trò trong xây dựng, ban hành, thực thi chính sách, pháp luật
Năm 2017, HĐND, UBND tỉnh đã ban hành tổng số 37 văn bản quy
phạm pháp luật. Các văn bản ban hành của tỉnh đảm bảo về căn cứ pháp lý,
đúng thẩm quyền. Các cơ quan chuyên môn đã chủ động trong công tác soạn
thảo, lấy ý kiến góp ý đối với dự thảo; 100% các dự thảo văn bản được Sở Tư
pháp thẩm định trước khi trình cơ quan có thẩm quyền ban hành. Công tác
kiểm tra, rà soát văn bản được tiến hành thường xuyên, đúng trình tự, thủ tục
quy định; qua kiểm tra, 100% vấn đề phát hiện được xử lý hoặc kiến nghị xử
53
lý để sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ thi hành. Việc theo dõi
tình hình thi hành pháp luật được triển khai thường xuyên, trong đó lĩnh vực
hỗ trợ doanh nghiệp được xác định là nhiệm vụ trọng tâm. Trong năm, đã tiến
hành kiểm tra tình hình hỗ trợ doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp và
tình hình hỗ trợ doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng; tổ chức điều tra, khảo
sát mức độ tuân thủ pháp luật về lĩnh vực hỗ trợ doanh nghiệp đối với 100 đối
tượng là cán bộ lãnh đạo, cán bộ trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện công việc
hỗ trợ tại 10 sở, ngành và khảo sát đối với 120 doanh nghiệp với các ngành
nghề sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ thuộc lĩnh vực nông nghiệp,
công nghiệp – thương mại và xây dựng.
Thực hiện công bố TTHC, UBND tỉnh đã ban hành các quyết định công
bố 805 TTHC mới, sửa đổi, bổ sung 76 TTHC, bãi bỏ 596 TTHC. Việc niêm
yết công khai đầy đủ, đúng quy định tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả giải
quyết TTHC đạt trên 70%, tuy nhiên, vẫn còn một số đơn vị niêm yết chưa
đẩy đủ hoặc bổ sung chưa kịp thời. Công khai TTHC trên cổng thông tin điện
tử của tỉnh đạt 100%. Từ năm 2016 đến tháng 10 năm 2017, toàn tỉnh có
53.717 bộ hồ sơ được tiếp nhận và trả kết quả TTHC qua dịch vụ bưu chính
công ích. 100% các dịch vụ hành chính công trực tuyến được cung cấp đạt
mức độ 2, 970/1466 (66,17%) dịch vụ hành chính công được cung cấp trực
tuyến ở mức độ 3.
Hội LHPN các cấp tỉnh Cao Bằng đã tích cực tham gia thảo luận, đóng
góp ý kiến cho việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp
luật; xây dựng, sửa đổi bổ sung chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.
Với vai trò là đại diện, bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ, là tổ chức chính trị,
xã hội tham gia xây dựng Đảng, nhà nước. Hội LHPN tỉnh đã tham gia ý kiến
vào hầu hết các văn bản luật, các Nghị định, thông tư và một số văn bản khác