Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Thực hiện chính sách người có công trên địa bàn huyện Minh Long, tỉnh Quảng Ngãi
5,971
361
115
12
chiến tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở thời kỳ cách mạng
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam được quy định tại Pháp lênh ưu
đãi người có công với cách mạng.
1.1.2. Khái niệm ưu đãi xã hội và ưu đãi người có công
Việt Nam trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước, bên cạnh việc
đẩy mạnh về kinh tế thì Việt Nam cũng quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội,
đảm bảo ổn định xã hội trong đó chăm lo đến lực lượng lớn những người đã
cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng, bảo vệ tổ quốc là vấn đề cấp
thiết hiện nay. Có thể nói ưu đãi xã hội là vấn đề quan trọng thu hút sự quan
tâm
của Đảng và nhà nước ta, nó không những thể hiện trách nhiệm của các cấp các
ngành mà còn phản ánh truyền thống đạo lý cao đẹp của Nhân dân ta đối với
những người có công đóng góp cho đất nước.
Dưới góc độ kinh tế: Ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ về mặt vật chất cũng như
tinh thần đối với những người có công.
Dưới góc độ pháp lý: Ưu đãi xã hội là hệ thống các quy định của nhà
nước về các hình thức, nội dung, biện pháp chăm sóc, đãi ngộ và đảm bảo điều
kiện vật chất và tin thần của những người hoạt động cách mạng, liệt sỹ, gia đình
liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, những người hoạt động kháng chiến, người có
công.
Vì vậy, có thể cho rằng “Ưu đãi xã hội được hiểu là sự phản ánh trách
nhiệm của Nhà nước, của cộng đồng xã hội, đãi ngộ đặt biệt, ưu tiên hơn mức
bình thường về mọi mặt trong đời sống vật chất và tinh thần đối với một số
người có công lao đặc biệt đối với đất nước và đang gặp khó khăn trong cuộc
sống” [Phạm Xuân Nam: Đổi mới chính sách xã hội - Luận cứ và giải pháp,
NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 1997].
Mục tiêu của ưu đãi xã hội: Là ghi nhận, đầu tư tái sản xuất ra những giá
13
trị tinh thần cao đẹp của dân tộc, thể hiện ở việc: Ghi nhận và tri ân những cá
nhân, tập thể có những cống hiến đặc biệt cho cộng đồng, xã hội; tạo ra công
bằng xã hội; tái sản xuất ra những giá trị tinh thần cao đẹp, giữ gìn truyền
thống
cao đẹp của dân tộc; đảm bảo ổn định cho thể chế đất nước, từ chổ có chính sách
thích hợp mọi người mới có thể an tâm về gia đình của mình, sẳn sàng hi sinh
cho sự nghiệp của đất nước. Thực hiện tốt ưu đãi xã hội góp phần đảm bảo công
bằng xã hội, tiến bộ xã hội và tiến tới xây dựng một xã hội phồn thịnh, ấm no,
hạnh phúc.
Quan điểm của ưu đãi xã hội: Là hệ thống chính sách quan trọng đặc biệt
trong hệ thống an sinh xã hội, trong việc tái sản xuất ra giá trị tinh thần của
thế
hệ sau, giữ gìn chính trị và truyền thống đạo đức; là hệ thống chính sách tái
sản
xuất ra giá trị tinh thần cao đẹp của dân tộc, giúp thế hện trẻ thấy được công
lao
của thế hệ đi trước, từ đó tự hào về dân tộc và cố gắn pháp huy truyền thống ấy,
gia đình người có công yên tâm trong sản xuất, tin tưởng hơn về thể chế chính
trị, giáo dục trách nhiệm của mọi công dân đối với xã hội và đất nước.
Đối tượng hưởng ưu đãi xã hội gồm: những người có cống hiến đặc biệt
trong công cuộc bảo vệ tổ quốc; những người có cống hiến đặc biệt trong quá
trình xây dựng đất nước như: giáo sư, bác sĩ, anh hùng lao động, ....Ưu đãi xã
hội
được áp dụng đối với mọ công dân, không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo,
thành phần kinh tế.
Ưu đãi người có công có thể hiểu là trách nhiệm của nhà nước thông qua
việc xây dựng những hệ thống chính sách cụ thể về sự ưu tiên và cơ chế thực
hiện sự ưu tiên đó. Vận động mọi người dân, các tổ chức chính trị - xã hội với
truyền thống tốt đẹp sẵn có, tổ chức các phong trào, đóng góp công sức để tạo cơ
sở vật chất cho sự ưu đãi đối với người có công với cách mạng. Người có công
được cộng đồng được cộng đồng danh cho họ sự ưu đãi cụ thể thông qua công
14
tác đối với người có công trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Đây là sự thể hiện
trách nhiệm của nhà nước, của cộng đồng xã hội, là sự đãi ngộ đặc biệt, được ưu
tiên hơn mức bình thường, đó có thể là sự ưu tiên về đời sống vật chất, văn hóa
hay đời sống tinh thần.
Ưu đãi người có công là sự “đền ơn đáp nghĩa” của cộng đồng, là sự
phản ánh trách nhiệm của nhà nước, là sự đãi ngộ, ưu tiên đặc biệt về đời sống
vật chất, văn hóa, tinh thần đối với những công dân có nhiều hy sinh, cống hiến
đối với đất nước nhằm tạo mọi điều kiện, khả năng góp phần ổn định và nâng
cao đời sống.
1.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước về người có công
Quản lý là hoạt động có từ xa xưa khi con người biết lao động theo từng
nhóm đòi hỏi có sự tổ chức, điều khiển và có sự phối hợp hành động. Bản thân
khai niệm Quản lý mang tính đa nghĩa có sự khác biệt giữa nghĩa rộng và nghĩa
hẹp. Hơn nữa, do sự khác biệt về thời đại, xã hội, chế độ, nghề nghiệp nên quản
lý cũng có nhiều giải thích, lý giải khác nhau. Cùng với sự phát triển của
phương
thức xã hội hóa sản xuất và sự mở rộng trong nhận thức của con người, xuất phát
từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, rất nhiều học giả trong và ngoài nước đã
đưu ra nhiều cách giải thích khác nhau về quản lý. Các trường phái quản lý học
đã đưa ra định nghĩa về quản lý như sau:
Theo F.W Taylor (1856-1915) cho rằng: Quản lý là hoàn thành công việc
của mình thông qua người khác và biết được một cách chính xác họ đã hoàn
thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất.
Theo Henrry Faylor (1888-1925) cho rằng: Quản lý là một tiến trình bao
gồm tất cả các khâu: lập kế hoạch, tổ chức, phân công điều khiển và kiểm soát
các nỗ lực của cá nhân, bộ phận và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vật chất
khác của tổ chức để đạt được mục tiêu đề ra.
15
Từ các quan điểm trên có thể đi đến một khái niệm tổng quát như sau:
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể lên các khách thể
nhằm đạt được mục tiêu đã định trước.
Từ khái niệm quản lý nêu trên thì quản lý trong xã hội nói chung là quá
trình tổ chức điều hành các hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm đạt được mục
tiêu và yêu cầu nhất định đựa trên các quy luật khách quan. Khái niệm quản lý
nhà nước có thể hiểu theo nghĩa hẹp như sau: Chủ yếu là quá trình tổ chức, điều
hành của hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước đối với quá trình xã hội và
hành vi hoạt động của con người theo pháp luật nhằm đạt được mục tiêu yêu cầu
quản lý nhà nước.
Theo thuật ngữ Hành chính Học viện Hành chính Quốc gia đưa ra: “Quản
lý nhà nước là thuật ngữ chỉ hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước của các cơ
quan trong bộ máy nhà nước nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại
của nhà nước trên cơ sở quy luật phát triển xã hội nhằm mục đích ổn định và
phát triển của đất nước”.
Trên cơ sở khái niệm về quản lý, quản lý nhà nước, người có công có thể
đưa ra khái niệm quản lý nhà nước về người có công như sau: Quản lý nhà nước
về người có công là quá trình tổ chức điều hành của hệ thống các cơ quan hành
chính nhà nước nhằm thực hiện tốt trách nhiệm của nhà nước trong việc thực
hiện chính sách đối với người có công, ưu đãi đặt biệt về đời sống vật chất, văn
hóa, tinh thần đối với những người có những hi sinh, cống hiến đối với đất nước.
Nội dung của quản lý nhà nước về người có công báo gồm: Xây dựng,
ban hành, tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách pháp
luật, các văn bản quy phạm pháp luật trong thực hiện chính sách đối với người
có công; Tổ chức bộ máy thực hiện chính sách đối với người có công; Tổ chức,
chỉ đạo việc đào tạo bồi dưỡng, tập huấn quản lý nhà nước và cán bộ quản lý
16
chính sách đối với người có công; Hướng dẫn, kiểm tra thực hiện chính sách,
pháp luật về ưu đãi đối với người có công; Quy định chế độ, định mức, phương
thức trang cấp dụng cụ chỉnh hình và phương tiện trợ giúp cho người có công;
Phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương, các đoàn thể chính trị - xã hội tổ chức
các phong trào đền ơn đáp nghĩa, quản lý “Quỹ đền ơn đáp nghĩa”; Quy hoạch
và hướng dẫn quy hoạch mạng lưới cơ sở nuôi dưỡng, điều dưỡng người có
công, công trình ghi công liệt sĩ; Quy định việc quản lý các công trình ghi công
liệt sĩ; Hướng dẫn công tác tiếp nhận, quy tập hài cốt liệt sĩ; thông tin về mộ
liệt
sĩ; Xác định người được hưởng chính sách, mức trợ cấp và giấy chứng nhận cho
các đối tượng; Tổ chức lưu trữ, quản lý và khai thác toàn bộ hồ sơ cá nhân của
các đối tượng người có công với cách mạng để phục vụ cho yêu cầu quản lý đối
tượng và chi trả trợ cấp hàng tháng.
1.1.4. Khái niệm chính sách và chính sách người có công
Chính sách có thể được đề ra và thực hiện ở những tầng nấc khác nhau, từ
các tổ chức quốc tế đến từng quốc gia, từ nhà nước đến các đơn vị, tổ chức chính
trị xã hội, doanh nghiệp,.. nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra cho mỗi tổ chức
đó và chúng chỉ có hiệu lực thi hành trong tổ chức đó. Có nhiều cách tiếp cận
khác nhau về chính sách như:
- Chính sách là một quá trình hành động có mục đích mà một cá nhân
hoặc một nhóm theo đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề
(James Anderson 2003).
- Chính sách là một chuỗi (tập hợp) những hành động có mục đích nhằm
giải quyết một vấn đề (Anderson 1984);
- Chính sách là một hành động mang tính quyền lực nhà nước nhằm sử
dụng nguồn lực để thúc đẩy một giá trị ưu tiên (Considine 1994);
- Chính sách là một công việc được thực hiện liên tục, bởi những nhóm
17
hoạch định, nhằm sử dụng các thể chế công để kết nối, phối hợp và biểu đạt giá
trị họ theo đuổi (Considine 1994);
- Chính sách là quá trình mà một xã hội tạo ra và quyết định có tính bắt
buộc những hành vi nào được chấp nhận và hành vi nào không (Wheelan 2011);
- Chính sách là một phần của khung khổ các ý kiến, mà qua đó, chúng ta
được điều chỉnh bởi một cách thức hợp lý, giữa các khía cạnh đa chiều của cuộc
sống (Colebatch 2002).
- Theo từ điển bách khoa Việt Nam: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ
thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời
gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và
phương hướng của chính sách tuỳ thuộc vào tính chất, đường lối, nhiệm vụ
chính trị, kinh tế, văn hoá...
”1
Có thể hiểu: Chính sách là chương trình hành động do các nhà lãnh đạo
hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm
quyền của mình.
Về chính sách ưu đãi đối với người có công ở Việt Nam, có quan điểm
cho rằng: “Chính sách đối với người có công là đường lối, chủ trương của
Đảng và Nhà nước căn cứ và nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ, dựa vào sự
phát triển kinh tế - xã hội, nhằm mục tiêu ghi nhận công lao, sự đóng góp, hi
sinh cao cả của những người có công, tạo điều kiện, khả năng đền đáp, đền bù
phần nào về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần đối với người có công.
Theo thuật ngữ Lao động - Thương binh và xã hội thì: “Chính sách
người có công là những quy định chung của nhà nước bao gồm mục tiêu,
phương hướng, giải pháp về việc ghi nhận công lao, sự đóng góp, sự hi sinh
1
Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, tr.475.
18
cao cả của người có công, tạo mọi điều kiện khả năng góp phần ổn định và
nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần đối với người có công”
Như vậy, chính sách người có công thể hiện ngay trong bản chất và
chức năng quản lý của nhà nước. Nhà nước ta vừa là tổ chức chính trị đặc
biệt, đại diện cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động và cũng là đại diện
cho dân tộc. Thực hiện chính sách người có công được hiểu là hoạt động của
các chủ thể do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định nhằm đưa chính
sách người có công vào cuộc sống thông qua các công việc cụ thể theo trình
tự, thủ tục nhất định, như việc tổ chức xác nhận, quản lý và thực hiện các
chính sách, chế độ ưu đãi của nhà nước đối với các đối tượng người có công
và thân nhân.
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về người có công
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa ra đời chưa được bao lâu thì thực dân Pháp quay lại xâm lượt nước ta
một lần nữa. Với tinh thần “... thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu
chống lại quân xâm lược. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến quyết liệt
chống thực dân Pháp, nhiều đồng bào, chiến sỹ đã ngã xuống, hy sinh một phần
xương máu trên các chiến trường. Với truyền thống đạo lý “uống nước nhớ
nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, ngay từ những ngày đầu non trẻ của chính quyền
cách mạng, Đảng, Chính phủ, Bác Hồ và Nhân dân ta đã dành tất cả tình thương
yêu cho các chiến sỹ và đồng bào đã vì độc lập, tự do của Tổ quốc mà bị thương
và hy sinh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng và nêu lên những quan điểm
cơ bản về ưu đãi người có công với cách mạng, hình thành chính sách ưu đãi
thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ. Theo Người: Thương binh, bệnh
binh, gia đình quân nhân, gia đình liệt sỹ là những người có công với Tổ quốc
19
với nhân dân. Cho nên, bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, phải thương
yêu và giúp đỡ họ. Với truyền thống gắn bó, đoàn kết, chung lưng đấu cật
chống thiên tai, địch họa trong hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc ta, đạo lý nhân ái thuỷ chung đã trở thành lẽ sống, là nét đẹp trong
đời sống của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Đạo lý tôn thờ, hậu đãi người có
công với đất nước, với dân tộc của cha ông đã được kế thừa và phát huy trong
thời đại Hồ Chí Minh và là nền tảng sức mạnh để đất nước ta “nở hoa độc lập,
kết quả tự do”, thống nhất non sông về một dải với những chiến thắng hào
hùng ghi sâu trong lịch sử dân tộc và nhân loại.
Chính sách đối với người có công là một trong những chính sách ưu
tiên, xuyên suốt quá trình cách mạng của Đảng và Nhà nước ta. Ngày
16/02/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chính thức ký Sắc lệnh số 20/SL về
quy định chế độ hưu bổng, thương tật và tiền tuất tử sỹ. Đây là văn bản pháp
quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh, liệt sỹ đối
với cuộc kháng chiến và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đến
thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sỹ.
Để thực hiện tốt công tác thương binh tử sĩ trong cả nước, tháng
6/1947, đại biểu Tổng bộ Việt Minh, Trung ương Hội phụ nữ Cứu quốc,
Trung ương Đoàn thanh niên Cứu quốc, Cục chính trị quân đội quốc gia Việt
Nam, Nha Thông tin tuyên truyền và một số địa phương đã họp để bàn về
công tác thương binh liệt sỹ và thực hiện Chỉ thị của Hồ Chủ Tịch. Tại cuộc
họp này đại biểu đã thống nhất chọn ngày 27/7 là ngày “Thương binh toàn
quốc” để gửi thư, quà thăm hỏi, động viên nhắc nhở mọi người phải biết ơn
và hết lòng giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sỹ. Đến tháng 7/1955, Đảng và
Nhà nước ta quyết định đổi ngày “Thương binh Toàn quốc” thành ngày
“Thương binh liệt sỹ” để ghi nhận những hy sinh lớn lao của đồng bào, chiến
sĩ cả nước cho chiến thắng vẻ vang của toàn dân tộc.
20
Sau ngày giải phóng miền Nam, đất nước đã hoàn toàn thống nhất,
bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, Đảng và
Nhà nước ta vẫn xác định công tác thương binh, liệt sỹ là một trong những
vấn đề lớn của đất nước ta. Từ quan điểm đó, Đảng và Nhà nước đã ban hành,
bổ sung, sửa đổi nhiều văn bản pháp luật ưu đãi đối với người có công, khắc
phục một số bất hợp lý, giải quyết một khối lượng lớn công việc do hậu quả
của chiến tranh để lại, hình thành một hệ thống văn bản pháp quy có hiệu lực
thực hiện thống nhất trong cả nước, phục vụ cho yêu cầu của giai đoạn mới.
Bắt đầu từ Chỉ thị số 223/CT-TW ngày 08/7/1975 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng xác định yêu cầu nhiệm vụ của công tác thương binh, liệt
sỹ sau chiến tranh. Sau đó Nhà nước ban hành nhiều Nghị định, Quyết định,
Thông tư nhằm sửa đổi, bổ sung chế độ ưu đãi đối với người có công; xác
nhận chính xác đối tượng người có công để họ được hưởng chế độ trợ cấp
theo quy định của Nhà nước. Cùng với sự đổi mới của đất nước khi thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, công tác ưu đãi người có công với cách mạng
được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm.
Vấn đề ưu đãi người và gia đình có công với cách mạng đã trở thành
nguyên tắc Hiến định và được ghi nhận trang trọng ở Chương V, Điều 67 của
Hiến pháp năm 1992: “Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ được hưởng
các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Thương binh được tạo điều kiện phục
hồi chức năng lao động, có việc làm phù hợp với sức khoẻ và đời sống ổn
định. Những người và gia đình có công với nước được khen thưởng, chăm
sóc”. Nguyên tắc này đã được thể chế trong Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động
cách mạng, liệt sỹ và gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, người hoạt
động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng (gọi tắt là Pháp lệnh ưu
đãi người có công với cách mạng) do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành
ngày 29/8/1994, và được quy định cụ thể tại Nghị định số 28/CP ngày
21
29/4/1995 của Chính phủ. Việc ban hành Pháp lệnh ưu đãi người có công với
cách mạng, nhiều vấn đề còn tồn tại trong chính sách ưu đãi trước đây được
điều chỉnh phù hợp với tình hình mới, như việc áp dụng thống nhất mức trợ
cấp giữa thương binh hưởng lương và thương binh hưởng sinh hoạt phí khi bị
thương; giữa thương binh đang công tác hay nghỉ hưu với thương binh về địa
phương có cùng tỷ lệ thương tật; thực hiện công bằng trong chính sách giữa
người có công thoát ly và không thoát ly, căn bản tách chế độ ưu đãi tồn tại từ
mấy chục năm trong chính sách bảo hiểm xã hội chuyển sang chính sách ưu
đãi xã hội (như thâm niên kháng chiến, phụ cấp đối với cán bộ Lão thành cách
mạng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động...).
Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng đã nêu rõ một nguyên
tắc chung là chế độ ưu đãi phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và được bảo
đảm bằng ngân sách nhà nước. Các nội dung ưu đãi người có công với cách
mạng được luật pháp hoá, trở thành một hệ thống chính sách bao gồm nhiều
mặt của đời sống như (trợ cấp, phụ cấp, chăm sóc sức khỏe, cải thiện nhà ở,
ưu đãi về giáo dục - đào tạo, về việc làm, ruộng đất, tín dụng, miễn giảm
thuế…).
Tiếp nối các văn bản quy định của Nhà nước để thực hiện chính sách
ưu đãi đối với người có công hiện nay các văn bản quy định đang thực hiện
trên cả nước cụ thể đó là: Ngày 16/7/2012 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã
ban hành Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13 sửa đổi bổ sung, một số điều
pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng ; Ngày 09/4/2013 Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 31/2013/NĐ-CP quy định, chi tiết hướng dẫn thi
hành một số điều của pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng; Ngày
15/5/2013 Bộ Lao động - Thương binh và xã hội ban hành Thông tư số
05/2013/TT-BLDTBXH hướng dẫn về thủ tục lập hồ sơ, quản lý hồ sơ, thực
hiện chế độ ưu đãi người có công với cách mạng và thân nhân; Ngày