Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng công tác thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật tại Sở Tư pháp tỉnh Hòa Bình

6,598
454
127
74
chuyển biến rệt về kỷ luật hành chính, tinh thần trách nhiệm đạo đức công vụ;
Xây dựng chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị gắn trách nhiệm
với quyền hạn; xây dựng quy định thưởng phạt nghiêm minh để bảo đảm kỷ cương
hành chính và hiệu quả của công tác quản lý.
Hiện nay, việc phân công nhiệm vụ đối với các cán bộ làm công tác thẩm
định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật tại Sở pháp tỉnh Hoà Bình được thực
hiện một cách ràng, chặt chẽ. Đối với mỗi dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
trong quá trình chuyển sang Sở tư pháp để thẩm định, đều được nhanh chóng phân
công cán bộ nghiên cứu. Tiến độ nghiên cứu dự thảo, kết quả quá trình nghiên cứu
thẩm định, cán bộ chịu trách nhiệm chính đều được theo dõi sát sao, cụ thể trên
phần mềm quản lý chung tại đơn vị; chất lượng thẩm định dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật cũng một tiêu chí quan trọng nhằm đánh giá khả năng, kết quả
thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của các cán bộ chuyên trách điều này đã góp
phần đẩy mạnh chất lượng nghiên cứu, ý thức kỷ luật trong thẩm định dự thảo văn
bản quy phạm pháp luật của mỗi cán bộ chuyên trách.
3.2.4 Tăng cường phối hợp giữa các chủ thể tham gia vào công tác thẩm định
dự thảo văn bản QPPL của tỉnh Hòa Bình
Xây dựng mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan thẩm định và các cơ quan liên
quan trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và
UBND cấp tỉnh. Bởi lẽ công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
một quy trình khép kín, trong đó các chủ thể ngoài phải thực hiện tốt công việc theo
chức năng, nhiệm vụ của mình còn phải trách nhiệm phối hợp với các quan
liên quan khác nhằm đảm bảo thực hiện tốt công việc. Cụ thể, trong quy trình này,
cần xác định thẩm định là khâu trọng tâm. Cần phải xây dựng mối quan hệ phối hợp
trong đó xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm giữa cơ quan thẩm định với cơ quan
lập kế hoạch xây dựng văn bản, giữa cơ quan soạn thảo với quan thẩm định
giữa quan thẩm định với quan có thẩm quyền ban hành văn bản. Nếu xây
dựng giải quyết được tốt các mối quan hệ phối hợp này, không chỉ chất ợng
của công tác thẩm định được nâng lên mà toàn bộ quy trình xây dựng và ban hành
74 chuyển biến rõ rệt về kỷ luật hành chính, tinh thần trách nhiệm đạo đức công vụ; Xây dựng chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị gắn trách nhiệm với quyền hạn; xây dựng quy định thưởng phạt nghiêm minh để bảo đảm kỷ cương hành chính và hiệu quả của công tác quản lý. Hiện nay, việc phân công nhiệm vụ đối với các cán bộ làm công tác thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật tại Sở tư pháp tỉnh Hoà Bình được thực hiện một cách rõ ràng, chặt chẽ. Đối với mỗi dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trong quá trình chuyển sang Sở tư pháp để thẩm định, đều được nhanh chóng phân công cán bộ nghiên cứu. Tiến độ nghiên cứu dự thảo, kết quả quá trình nghiên cứu thẩm định, cán bộ chịu trách nhiệm chính đều được theo dõi sát sao, cụ thể trên phần mềm quản lý chung tại đơn vị; chất lượng thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật cũng là một tiêu chí quan trọng nhằm đánh giá khả năng, kết quả thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của các cán bộ chuyên trách – điều này đã góp phần đẩy mạnh chất lượng nghiên cứu, ý thức kỷ luật trong thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của mỗi cán bộ chuyên trách. 3.2.4 Tăng cường phối hợp giữa các chủ thể tham gia vào công tác thẩm định dự thảo văn bản QPPL của tỉnh Hòa Bình Xây dựng mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan thẩm định và các cơ quan liên quan trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND cấp tỉnh. Bởi lẽ công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật là một quy trình khép kín, trong đó các chủ thể ngoài phải thực hiện tốt công việc theo chức năng, nhiệm vụ của mình còn phải có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan liên quan khác nhằm đảm bảo thực hiện tốt công việc. Cụ thể, trong quy trình này, cần xác định thẩm định là khâu trọng tâm. Cần phải xây dựng mối quan hệ phối hợp trong đó xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm giữa cơ quan thẩm định với cơ quan lập kế hoạch xây dựng văn bản, giữa cơ quan soạn thảo với cơ quan thẩm định và giữa cơ quan thẩm định với cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản. Nếu xây dựng và giải quyết được tốt các mối quan hệ phối hợp này, không chỉ chất lượng của công tác thẩm định được nâng lên mà toàn bộ quy trình xây dựng và ban hành
75
văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương cũng được đảm bảo hiệu
quả tôt.
Xây dựng mối quan hệ phối hợp giữa các chủ thể trực tiếp thực hiện thẩm
định: Công tác thẩm định được thực hiện bởi những con người cụ thể là những cán
bộ công chức thực hiện công tác thẩm định văn bản quy phạm pháp luật. Mặc dù,
thẩm định văn bản quy phạm pháp luật là một công tác độc lập, đòi hỏi người thực
hiện phải có trình độ, am hiểu kiến thức pháp luật và xã hội sâu sắc, tuy nhiên trong
quá trình thực hiện cũng các chủ thể trực tiếp thực hiện sẽ có nhu cầu trao đổi thông
tin, cung cấp kiến thức, tranh luận và giúp đỡ lẫn nhau nhằm đảm bảo mục tiêu đề
ra. Do vậy, để thực hiện tốt công việc thẩm định cần thiết phải xây dựng được mối
quan hệ tốt trong chính nội bộ của cơ quan thực hiện thẩm định, có như vậy, công
tác thẩm định sẽ đảm bảo được kết quả tốt nhất.
3.2.5 Đầu tư kinh phí và cơ sở vật chất cho công tác thẩm định
Công tác thẩm định công tác quy trình nghiệp vụ rõ ràng, xác định
được tương đối về quy mô, khối lượng công việc. Để bảo đảm cho quan thẩm
định văn bản QPPL triển khai công việc mang tính chủ động, kịp thời thường
xuyên, nhà nước cần đầu nguồn kinh phí thỏa đáng phù hợp với tính chất, đặc
điểm của công tác này. Đồng thời nguồn kinh phí do nhà nước cấp phải đáp ứng
được đòi hỏi về khối lượng, chất lượng công việc đang đặt ra đối với công tác thẩm
định văn bản QPPL của HĐND, UBND cấp tỉnh. Kinh phí phải được xác định
ràng trong dự toán, nhanh chóng, kịp thời trong cấp phát và thuận lợi trong việc
quyết toán sử dụng ngân sách.
Như vậy, việc tăng đầu về tài chính cho công tác thẩm định văn bản
QPPL trong thời gian tới cần thiết. Cần tăng đầu về tài chính cho những mặt
sau đây: Một là, nguồn tài chính cho rà soát đánh giá văn bản; Hai là, nguồn tài
chính cho việc tổ chức hội nghị, hội thảo, o cáo chuyên đề rút kinh nghiệm về
công tác thẩm định để tìm ra những kinh nghiệm hay; Ba là, tài chính cho việc lấy ý
kiến các chuyên gia, thu thập thông tin đối tượng điều chỉnh của văn bản để cán bộ,
công chức đánh giá tính khả thi, hợp lý của văn bản; Bốn là, tài chính cho công tác
75 văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương cũng được đảm bảo hiệu quả tôt. Xây dựng mối quan hệ phối hợp giữa các chủ thể trực tiếp thực hiện thẩm định: Công tác thẩm định được thực hiện bởi những con người cụ thể là những cán bộ công chức thực hiện công tác thẩm định văn bản quy phạm pháp luật. Mặc dù, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật là một công tác độc lập, đòi hỏi người thực hiện phải có trình độ, am hiểu kiến thức pháp luật và xã hội sâu sắc, tuy nhiên trong quá trình thực hiện cũng các chủ thể trực tiếp thực hiện sẽ có nhu cầu trao đổi thông tin, cung cấp kiến thức, tranh luận và giúp đỡ lẫn nhau nhằm đảm bảo mục tiêu đề ra. Do vậy, để thực hiện tốt công việc thẩm định cần thiết phải xây dựng được mối quan hệ tốt trong chính nội bộ của cơ quan thực hiện thẩm định, có như vậy, công tác thẩm định sẽ đảm bảo được kết quả tốt nhất. 3.2.5 Đầu tư kinh phí và cơ sở vật chất cho công tác thẩm định Công tác thẩm định là công tác có quy trình nghiệp vụ rõ ràng, xác định được tương đối về quy mô, khối lượng công việc. Để bảo đảm cho cơ quan thẩm định văn bản QPPL triển khai công việc mang tính chủ động, kịp thời và thường xuyên, nhà nước cần đầu tư nguồn kinh phí thỏa đáng phù hợp với tính chất, đặc điểm của công tác này. Đồng thời nguồn kinh phí do nhà nước cấp phải đáp ứng được đòi hỏi về khối lượng, chất lượng công việc đang đặt ra đối với công tác thẩm định văn bản QPPL của HĐND, UBND cấp tỉnh. Kinh phí phải được xác định rõ ràng trong dự toán, nhanh chóng, kịp thời trong cấp phát và thuận lợi trong việc quyết toán sử dụng ngân sách. Như vậy, việc tăng đầu tư về tài chính cho công tác thẩm định văn bản QPPL trong thời gian tới là cần thiết. Cần tăng đầu tư về tài chính cho những mặt sau đây: Một là, nguồn tài chính cho rà soát đánh giá văn bản; Hai là, nguồn tài chính cho việc tổ chức hội nghị, hội thảo, báo cáo chuyên đề rút kinh nghiệm về công tác thẩm định để tìm ra những kinh nghiệm hay; Ba là, tài chính cho việc lấy ý kiến các chuyên gia, thu thập thông tin đối tượng điều chỉnh của văn bản để cán bộ, công chức đánh giá tính khả thi, hợp lý của văn bản; Bốn là, tài chính cho công tác
76
làm thêm giờ, ngoài giờ với văn bản gấp, hoặc văn bản khó cần nhiều thời gian
hơn quy định pháp luật hiện hành. Năm là, tài chính bổ sung cho quỹ khen thưởng
để kịp thời động viên cán bộ, công chức có thành tích xuất sắc trong công tác thẩm
định văn bản QPPL.
Song song với việc tăng cường mức chi cho các công tác kể trên thì yêu
cầu cần phải một cơ chế quản và cấp phát vốn ngân sách nhanh chóng, khoa
học. Hiện nay, quy trình cấp phát ngân sách nói chung cũng như trong công tác
thẩm định văn bản QPPL nói riêng vẫn còn rườm rà, nặng về xin cho. Do đó, nhiều
khi không tạo được động lực kịp thời động viên cán bộ, công chức làm việc. Đặc
biệt, việc cấp phát kinh phí cho công tác thẩm định thường bị ngưng trệ vào các
tháng 1, tháng 2, tháng 3, tháng 4. Như vậy là trong quý đầu tiên, cán bộ thẩm định
vẫn phải làm việc trong điều kiện “nợ” ngân sách nhà nước. thể nói, quy trình
cấp phát ngân sách như vậy đã tạo một tâm ỷ nại cho cán bộ công chức, thường
đẩy công việc dồn vào cuối năm để dải ngân. Do đó đã ảnh hưởng đến chất lượng
công việc không đảm bảo. Trong thời gian tới, cùng với việc nghiên cứu sửa đổi
luật ngân sách, các quan chức năng cần phải nghiên cứu để thay đổi quy trình
cấp phát ngân sách, đảm bảo chi kịp thời, hiệu quả cho các công tác công vụ nói
chung công tác thẩm định văn bản QPPL nói riêng. Bên cạnh đó, tăng ờng
đẩy mạnh đầu tư sở vật chất và phát triển khoa học, kỹ thuật vào công tác thẩm
định dự thảo VBQPPL như:
Thứ nhất, Nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức về tầm quan trọng của
việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thẩm định văn bản QPPL của
HĐND, UBND cấp tỉnh, mà trước hết là lãnh đạo các Sở, Ban, Ngành trong tỉnh để
từ đó sự ứng dụng tích cực của công nghệ thông tin trong công tác thẩm định
văn bản quy phạm pháp luật. Hiện nay, 100% Sở, ban, ngành của tỉnh Hoà Bình đều
website riêng. Trong đó, website của Sở pháp tỉnh Hoà Bình tại địa chỉ
http://sotuphap.hoabinh.gov.vn/ đăng tải khá đầy đủ, chi tiết các công tác của đơn
vị nói chung cũng như các văn bản liên quan tới công tác thẩm định dự thảo văn
bản quy phạm pháp luật như: báo cáo thẩm định, lịch thẩm định… Đồng thời, mỗi
76 làm thêm giờ, ngoài giờ với văn bản gấp, hoặc văn bản khó cần có nhiều thời gian hơn quy định pháp luật hiện hành. Năm là, tài chính bổ sung cho quỹ khen thưởng để kịp thời động viên cán bộ, công chức có thành tích xuất sắc trong công tác thẩm định văn bản QPPL. Song song với việc tăng cường mức chi cho các công tác kể trên thì yêu cầu cần phải có một cơ chế quản lý và cấp phát vốn ngân sách nhanh chóng, khoa học. Hiện nay, quy trình cấp phát ngân sách nói chung cũng như trong công tác thẩm định văn bản QPPL nói riêng vẫn còn rườm rà, nặng về xin cho. Do đó, nhiều khi không tạo được động lực kịp thời động viên cán bộ, công chức làm việc. Đặc biệt, việc cấp phát kinh phí cho công tác thẩm định thường bị ngưng trệ vào các tháng 1, tháng 2, tháng 3, tháng 4. Như vậy là trong quý đầu tiên, cán bộ thẩm định vẫn phải làm việc trong điều kiện “nợ” ngân sách nhà nước. Có thể nói, quy trình cấp phát ngân sách như vậy đã tạo một tâm lý ỷ nại cho cán bộ công chức, thường đẩy công việc dồn vào cuối năm để dải ngân. Do đó đã ảnh hưởng đến chất lượng công việc không đảm bảo. Trong thời gian tới, cùng với việc nghiên cứu sửa đổi luật ngân sách, các cơ quan chức năng cần phải nghiên cứu để thay đổi quy trình cấp phát ngân sách, đảm bảo chi kịp thời, hiệu quả cho các công tác công vụ nói chung và công tác thẩm định văn bản QPPL nói riêng. Bên cạnh đó, tăng cường đẩy mạnh đầu tư cơ sở vật chất và phát triển khoa học, kỹ thuật vào công tác thẩm định dự thảo VBQPPL như: Thứ nhất, Nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức về tầm quan trọng của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thẩm định văn bản QPPL của HĐND, UBND cấp tỉnh, mà trước hết là lãnh đạo các Sở, Ban, Ngành trong tỉnh để từ đó có sự ứng dụng tích cực của công nghệ thông tin trong công tác thẩm định văn bản quy phạm pháp luật. Hiện nay, 100% Sở, ban, ngành của tỉnh Hoà Bình đều có website riêng. Trong đó, website của Sở tư pháp tỉnh Hoà Bình tại địa chỉ http://sotuphap.hoabinh.gov.vn/ đăng tải khá đầy đủ, chi tiết các công tác của đơn vị nói chung cũng như các văn bản liên quan tới công tác thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật như: báo cáo thẩm định, lịch thẩm định… Đồng thời, mỗi
77
đơn vị nhà nước trên địa bàn tỉnh Hoà Bình đều được xây dựng hệ thống phần mềm
quản lý - lưu trữ - giao nhận văn bản trên nền tảng Vnptioffice. Việc ứng dụng công
nghệ thông tin trong thực hiện nhiệm vụ nói chung cũng như trong thẩm định dự
thảo văn bản quy phạm pháp luật hiện nay tại tỉnh Hoà Bình phần nào tăng tính
minh bạch, tăng chất lượng, tiến độ.
Thứ hai, triển khai lấy ý kiến góp ý Dự thảo văn bản QPPL thông qua mạng
internet, xây dựng dữ liệu về văn bản QPPL để khai thác phục vụ cho công tác
thẩm định văn bản QPPL. Việc đưa các dự thảo văn bản lên mạng internet sẽ giúp
cho cho công tác lấy ý kiến về Dự thảo văn bản QPPL của HĐND, UBND thành
phố được rộng rãi, kịp thời. Đồng thời tạo điều kiện để nhân, tổ chức tham gia
góp ý Dự thảo văn bản QPPL của HĐND, UBND thành phố được thuận tiện, đơn
giản. Việc xây dựng hệ sở dữ liệu về văn bản QPPL để khai thác phục vụ cho
công tác thẩm định văn bản QPPL sẽ giúp nâng cao chất lượng các công tác này,
rút ngắn thời gian thẩm định.
Thứ ba, triển khai xây dựng một số phần mềm dùng chung từ cấp thành phố
đến cấp như: Hệ thống thư tín điện tử; Trang thông tin điện t phục vụ điều
hành; Hệ thống quản văn bản hồ công việc; Hệ thống thông tin tổng hợp
kinh tế - xã hội; Phòng họp trực tuyến…Công tác này giúp đẩy mạnh quan hệ phối
hợp giữa các quan, ban, ngành thành phố trong công tác thẩm định văn bản
QPPL của HĐND, UBND cấp tỉnh. Đổi mới việc lưu trữ hồ thẩm định… trên
máy tính tạo điều kiện thuận lợi cho việc tra cứu cũng như phục vụ công tác kiểm
tra về công tác xây dựng, ban hành, kiểm tra văn bản… của cơ quan nhà nước
thẩm quyền.
Thứ tư, kiện toàn hệ thống cán bộ và bộ phận chuyên trách công nghệ thông
tin tại các Sở, Ban, Ngành. cơ chế phối hợp hiệu quả giữa cán bộ chuyên trách
công nghệ thông tin cán bộ chuyên môn tham gia vào công tác thẩm định văn
bản QPPL của HĐND, UBND cấp tỉnh. Tạo điều kiện cho cán bộ, công chức được
đào tạo về kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin trong xử lý công việc. Quy định
về tiêu chuẩn, trách nhiệm, quyền lợi, yêu cầu đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm
77 đơn vị nhà nước trên địa bàn tỉnh Hoà Bình đều được xây dựng hệ thống phần mềm quản lý - lưu trữ - giao nhận văn bản trên nền tảng Vnptioffice. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện nhiệm vụ nói chung cũng như trong thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật hiện nay tại tỉnh Hoà Bình phần nào tăng tính minh bạch, tăng chất lượng, tiến độ. Thứ hai, triển khai lấy ý kiến góp ý Dự thảo văn bản QPPL thông qua mạng internet, xây dựng dữ liệu về văn bản QPPL để khai thác phục vụ cho công tác thẩm định văn bản QPPL. Việc đưa các dự thảo văn bản lên mạng internet sẽ giúp cho cho công tác lấy ý kiến về Dự thảo văn bản QPPL của HĐND, UBND thành phố được rộng rãi, kịp thời. Đồng thời tạo điều kiện để cá nhân, tổ chức tham gia góp ý Dự thảo văn bản QPPL của HĐND, UBND thành phố được thuận tiện, đơn giản. Việc xây dựng hệ cơ sở dữ liệu về văn bản QPPL để khai thác phục vụ cho công tác thẩm định văn bản QPPL sẽ giúp nâng cao chất lượng các công tác này, rút ngắn thời gian thẩm định. Thứ ba, triển khai xây dựng một số phần mềm dùng chung từ cấp thành phố đến cấp xã như: Hệ thống thư tín điện tử; Trang thông tin điện tử phục vụ điều hành; Hệ thống quản lý văn bản và hồ sơ công việc; Hệ thống thông tin tổng hợp kinh tế - xã hội; Phòng họp trực tuyến…Công tác này giúp đẩy mạnh quan hệ phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành thành phố trong công tác thẩm định văn bản QPPL của HĐND, UBND cấp tỉnh. Đổi mới việc lưu trữ hồ sơ thẩm định… trên máy tính tạo điều kiện thuận lợi cho việc tra cứu cũng như phục vụ công tác kiểm tra về công tác xây dựng, ban hành, kiểm tra văn bản… của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thứ tư, kiện toàn hệ thống cán bộ và bộ phận chuyên trách công nghệ thông tin tại các Sở, Ban, Ngành. Có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin và cán bộ chuyên môn tham gia vào công tác thẩm định văn bản QPPL của HĐND, UBND cấp tỉnh. Tạo điều kiện cho cán bộ, công chức được đào tạo về kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin trong xử lý công việc. Quy định về tiêu chuẩn, trách nhiệm, quyền lợi, yêu cầu đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm
78
vụ của cán bộ, công chức đối với việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công
việc.
Thứ năm, quán triệt quan điểm chỉ đạo của Chính phủ: đầu tư cho ứng dụng
công nghệ thông tin trong công tác của quan nhà nước là đầu phát triển; ưu
tiên bố trí ngân sách cho ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác của cơ quan
nhà nước nói chung trong công tác thẩm định văn bản QPPL của HĐND,
UBND cấp tỉnh nói riêng. Kinh phí đầu tư cho ứng dụng công nghệ thông tin trong
công tác của cơ quan nhà nước bao gồm kinh phí ngân sách nhà nước và các nguồn
kinh phí huy động khác. Tăng cường tìm kiếm, tranh thủ các nguồn vốn hỗ trợ của
Trung ương, các dự án tài trợ của nước ngoài và trao đổi, hợp tác với các tỉnh, thành
phố trong nước về công nghệ thông tin liên quan đến công tác xây dựng, ban hành
văn bản QPPL của HĐND, UBND cấp tỉnh.
3.2.6 Nâng cao chất lượng việc tổ chức thẩm định
Bởi bất kỳ một công tác nào muốn thực hiện có hiệu quả trước tiên cần phải
định hình được phương pháp và cách thức tiến hành phù hợp. Thẩm định văn bản
quy phạm pháp luật cũng vậy. Nếu cơ quan có thẩm quyền thẩm định có được một
quy trình, phương pháp, cách thức tiến hành phù hợp thì công tác này sẽ đạt được
hiệu quả tốt và ngược lại, nếu công tác thẩm định được tiến hành không khoa học,
dàn trải, sẽ ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định của cơ quan này trên thực tế.
Thứ nhất: Việc phân công, tiếp nhận hồ sơ thẩm định cần được tiến hành hợp
lý, khoa học
Qua thực tiễn thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của HĐND
UBND cấp tỉnh như đã phân tích trong phần thực trạng, thể thấy việc tiếp nhận
phân công hồ sơ thẩm định cần được tiến hành hợp lý, khoa học ngay từ giai
đoạn đầu của quy trình thẩm định. Cụ thể, cơ quan thẩm định cần có một quy trình
tiếp nhận, phân công và phân loại hồ sơ nhanh chóng và tiết kiệm thời gian nhất. Để
làm tốt điều này cơ quan thẩm định nên ứng dụng công nghệ thông tin vào quy trình
xử công văn hồ hành chính. Nếu áp dụng phương thức này, chỉ cần một vài
thao tác trên mạng nội bộ cơ quan, hoặc qua email lãnh đạo cơ quan thẩm định
78 vụ của cán bộ, công chức đối với việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công việc. Thứ năm, quán triệt quan điểm chỉ đạo của Chính phủ: đầu tư cho ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác của cơ quan nhà nước là đầu tư phát triển; ưu tiên bố trí ngân sách cho ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác của cơ quan nhà nước nói chung và trong công tác thẩm định văn bản QPPL của HĐND, UBND cấp tỉnh nói riêng. Kinh phí đầu tư cho ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác của cơ quan nhà nước bao gồm kinh phí ngân sách nhà nước và các nguồn kinh phí huy động khác. Tăng cường tìm kiếm, tranh thủ các nguồn vốn hỗ trợ của Trung ương, các dự án tài trợ của nước ngoài và trao đổi, hợp tác với các tỉnh, thành phố trong nước về công nghệ thông tin liên quan đến công tác xây dựng, ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND cấp tỉnh. 3.2.6 Nâng cao chất lượng việc tổ chức thẩm định Bởi bất kỳ một công tác nào muốn thực hiện có hiệu quả trước tiên cần phải định hình được phương pháp và cách thức tiến hành phù hợp. Thẩm định văn bản quy phạm pháp luật cũng vậy. Nếu cơ quan có thẩm quyền thẩm định có được một quy trình, phương pháp, cách thức tiến hành phù hợp thì công tác này sẽ đạt được hiệu quả tốt và ngược lại, nếu công tác thẩm định được tiến hành không khoa học, dàn trải, sẽ ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định của cơ quan này trên thực tế. Thứ nhất: Việc phân công, tiếp nhận hồ sơ thẩm định cần được tiến hành hợp lý, khoa học Qua thực tiễn thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND cấp tỉnh như đã phân tích trong phần thực trạng, có thể thấy việc tiếp nhận và phân công hồ sơ thẩm định cần được tiến hành hợp lý, khoa học ngay từ giai đoạn đầu của quy trình thẩm định. Cụ thể, cơ quan thẩm định cần có một quy trình tiếp nhận, phân công và phân loại hồ sơ nhanh chóng và tiết kiệm thời gian nhất. Để làm tốt điều này cơ quan thẩm định nên ứng dụng công nghệ thông tin vào quy trình xử lý công văn hồ sơ hành chính. Nếu áp dụng phương thức này, chỉ cần một vài thao tác trên mạng nội bộ cơ quan, hoặc qua email lãnh đạo cơ quan thẩm định có
79
thể xử phân công công văn hồ ngay trên máy tính đã được bảo mật thể
xử lý được công văn trong thời gian nhanh nhất. Trên địa bàn tỉnh Hoà Bình đã
một s đơn vị thực hiện tốt điều này như: (UBND thành phố Hoà Bình, Sở tài
chính, Sở Tài nguyên môi trường; Hội đồng nhân dân; Sở xây dựng… Việc áp
dụng công nghệ thông tin sẽ giúp cho thời gian thẩm định được rút ngắn, hoặc dành
thời gian nhiều hơn cho quá trình nghiên cứu, tổ chức họp, lấy ý kiến chuyên gia
được tốt hơn. Ngoài ra việc phân công cán bộ làm công tác thẩm định, các Sở
pháp địa phương cần thực hiện đúng người, đúng đối tượng và trình độ tương ứng
với tính chất độ phức tạp của dự thảo văn bản, về lâu dài nên tiến hành chuyên
môn hóa trong công tác thẩm định, cùng với các giải pháp khác góp phần nâng cao
chất lượng thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của HĐND UBND
cấp tỉnh.
Thứ hai: Đổi mới, linh hoạt trong tổ chức phiên họp thẩm định.
Tổ chức họp thẩm định là công tác rất quan trọng trong quá trình thẩm định
dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của HĐND UBND cấp tỉnh. Tuy nhiên để
thực hiện tốt vấn đề này đòi hỏi cơ quan thẩm định cần chú trọng nâng cao chất
lượng của các cuộc họp này, cụ thể:
Thành phần họp cần đảm bảo đủ thành phần, đúng đối tượng: Đối tượng họp
thẩm định phải đảm bảo đủ thành phần như: Lãnh đạo, trưởng phòng chuyên môn
quan thẩm định, chuyên viên nghiên cứu trực tiếp, các chuyên gia, cơ quan tổ
chức liên quan (nếu có). Việc đảm bảo đủ thành phần, đối tượng giúp cho việc lấy ý
kiến được hiệu quả tránh việc tổ chức đi tổ chức lại việc thẩm định.
Nội dung họp không nên dàn trải mà tập trung vào những vấn đề quan trọng,
có sự mâu thuẫn chồng chéo trong các văn bản quy phạm pháp luật hoặc có nhiều ý
kiến khác nhau; chú trọng đến tính khả thi, sự cần thiết của việc ban hành văn bản...
Thời gian họp số lần họp cần được điều chỉnh cân đối, phù hợp với tính
chất, nội dung khó của từng của văn bản: Đối với các văn bản phức tạp cần nhiều
thời gian hơn ngược lại với những văn bản đơn giản thì việc tổ chức các phiên
họp cần được rút ngắn.
79 thể xử lý phân công công văn hồ sơ ngay trên máy tính đã được bảo mật là có thể xử lý được công văn trong thời gian nhanh nhất. Trên địa bàn tỉnh Hoà Bình đã có một số đơn vị thực hiện tốt điều này như: (UBND thành phố Hoà Bình, Sở tài chính, Sở Tài nguyên môi trường; Hội đồng nhân dân; Sở xây dựng… Việc áp dụng công nghệ thông tin sẽ giúp cho thời gian thẩm định được rút ngắn, hoặc dành thời gian nhiều hơn cho quá trình nghiên cứu, tổ chức họp, lấy ý kiến chuyên gia được tốt hơn. Ngoài ra việc phân công cán bộ làm công tác thẩm định, các Sở Tư pháp địa phương cần thực hiện đúng người, đúng đối tượng và trình độ tương ứng với tính chất và độ phức tạp của dự thảo văn bản, về lâu dài nên tiến hành chuyên môn hóa trong công tác thẩm định, cùng với các giải pháp khác góp phần nâng cao chất lượng thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND cấp tỉnh. Thứ hai: Đổi mới, linh hoạt trong tổ chức phiên họp thẩm định. Tổ chức họp thẩm định là công tác rất quan trọng trong quá trình thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND cấp tỉnh. Tuy nhiên để thực hiện tốt vấn đề này đòi hỏi cơ quan thẩm định cần chú trọng nâng cao chất lượng của các cuộc họp này, cụ thể: Thành phần họp cần đảm bảo đủ thành phần, đúng đối tượng: Đối tượng họp thẩm định phải đảm bảo đủ thành phần như: Lãnh đạo, trưởng phòng chuyên môn cơ quan thẩm định, chuyên viên nghiên cứu trực tiếp, các chuyên gia, cơ quan tổ chức liên quan (nếu có). Việc đảm bảo đủ thành phần, đối tượng giúp cho việc lấy ý kiến được hiệu quả tránh việc tổ chức đi tổ chức lại việc thẩm định. Nội dung họp không nên dàn trải mà tập trung vào những vấn đề quan trọng, có sự mâu thuẫn chồng chéo trong các văn bản quy phạm pháp luật hoặc có nhiều ý kiến khác nhau; chú trọng đến tính khả thi, sự cần thiết của việc ban hành văn bản... Thời gian họp và số lần họp cần được điều chỉnh cân đối, phù hợp với tính chất, nội dung khó của từng của văn bản: Đối với các văn bản phức tạp cần nhiều thời gian hơn và ngược lại với những văn bản đơn giản thì việc tổ chức các phiên họp cần được rút ngắn.
80
Thứ ba: Cơ quan thẩm định cần có những chính sách thu hút các chuyên gia
và nhà khoa học tham gia vào công tác thẩm định
Các chuyên gia và các nhà khoa học là những người có kiến thức chuyên sâu
về lĩnh vực liên quan quan đến nội dung văn bản. Do vậy, việc thu hút thành phần
này việc làm rất cần thiết góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng
văn bản thẩm định. Cụ thể trong các cuộc họp thẩm định quan soạn thảo nên
thường xuyên mời các chuyên gia các nhà khoa học tham gia, cho ý kiến. Mặt
khác, quan thẩm định cũng cần có những chính sách cụ thể nhằm thu hút lực
lượng này tham gia nhằm nâng cao chất lượng thẩm định văn bản quy phạm pháp
luật của HĐND và UBND cấp tỉnh.
Thứ : Việc tiếp thu phản hồi ý kiến thẩm định cần được tuân thủ triệt để.
Để nâng cao vị trí, vai trò của công tác thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật của HĐND UBND cấp tỉnh, cần phải có những biện pháp để việc tiếp thu,
phản hồi ý kiến của cơ quan thẩm định được tuân thủ triệt để, cụ thể:
Đối với quan thẩm định: Cần có sự trao đổi thường xuyên với cơ quan
soạn thảo ngay từ giai đoạn thẩm định đến giai đoạn sau thẩm định nhằm tăng
cường sự tương tác giữa hai cơ quan này để nắm được những vấn đề còn vướng
mắc về dự thảo cũng như những vấn đề cơ quan soạn thảo chưa tiếp thu chỉnh sửa,
từ đó những kiến nghị kịp thời đối với cơ quan soạn thảo và cơ quan, người
thẩm quyền để có những biện pháp xử lý phù hợp.
Đối với cơ quan soạn thảo: Cần nghiêm chỉnh tiếp thu ý kiến và có phản hồi
đối với cơ quan thẩm định, nếu không tiếp thu, phản hồi phải văn bản nêu rõ lý
do, trong quá trình tiếp thu chỉnh sửa thường xuyên trao đổi với cơ quan thẩm định
để làm rõ những vấn đề còn chưa rõ cần cơ quan thẩm định giải thích thêm để việc
tiếp thu chỉnh sửa đạt được hiệu quả tốt nhất.
Thứ năm: Nâng cao hơn nữa chất lượng văn bản thẩm định.
Văn bản thẩm định kết quả của cả một quá trình thẩm định, do vậy việc
nâng cao chất lượng của văn bản này hết sức cần thiết. Để thực hiện được điều
này, ngoài việc thực hiện một quy trình thẩm định hợp khoa học, quan thẩm
80 Thứ ba: Cơ quan thẩm định cần có những chính sách thu hút các chuyên gia và nhà khoa học tham gia vào công tác thẩm định Các chuyên gia và các nhà khoa học là những người có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực liên quan quan đến nội dung văn bản. Do vậy, việc thu hút thành phần này là việc làm rất cần thiết góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng văn bản thẩm định. Cụ thể trong các cuộc họp thẩm định cơ quan soạn thảo nên thường xuyên mời các chuyên gia và các nhà khoa học tham gia, cho ý kiến. Mặt khác, cơ quan thẩm định cũng cần có những chính sách cụ thể nhằm thu hút lực lượng này tham gia nhằm nâng cao chất lượng thẩm định văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND cấp tỉnh. Thứ tư: Việc tiếp thu phản hồi ý kiến thẩm định cần được tuân thủ triệt để. Để nâng cao vị trí, vai trò của công tác thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND cấp tỉnh, cần phải có những biện pháp để việc tiếp thu, phản hồi ý kiến của cơ quan thẩm định được tuân thủ triệt để, cụ thể: Đối với cơ quan thẩm định: Cần có sự trao đổi thường xuyên với cơ quan soạn thảo ngay từ giai đoạn thẩm định đến giai đoạn sau thẩm định nhằm tăng cường sự tương tác giữa hai cơ quan này để nắm được những vấn đề còn vướng mắc về dự thảo cũng như những vấn đề cơ quan soạn thảo chưa tiếp thu chỉnh sửa, từ đó có những kiến nghị kịp thời đối với cơ quan soạn thảo và cơ quan, người có thẩm quyền để có những biện pháp xử lý phù hợp. Đối với cơ quan soạn thảo: Cần nghiêm chỉnh tiếp thu ý kiến và có phản hồi đối với cơ quan thẩm định, nếu không tiếp thu, phản hồi phải có văn bản nêu rõ lý do, trong quá trình tiếp thu chỉnh sửa thường xuyên trao đổi với cơ quan thẩm định để làm rõ những vấn đề còn chưa rõ cần cơ quan thẩm định giải thích thêm để việc tiếp thu chỉnh sửa đạt được hiệu quả tốt nhất. Thứ năm: Nâng cao hơn nữa chất lượng văn bản thẩm định. Văn bản thẩm định là kết quả của cả một quá trình thẩm định, do vậy việc nâng cao chất lượng của văn bản này là hết sức cần thiết. Để thực hiện được điều này, ngoài việc thực hiện một quy trình thẩm định hợp lý khoa học, cơ quan thẩm
81
định cần chú trọng đến việc đầu tư cho việc nghiên cứu dự thảo văn bản, nâng cao
chất lượng của đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định. Việc thực hiện các giải pháp
này phải được tiến hành đồng bộ, trong đó chú trọng đến nhân tố con người, bởi suy
cho cùng nhân tố con người luôn là nhân tố quyết định.
81 định cần chú trọng đến việc đầu tư cho việc nghiên cứu dự thảo văn bản, nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định. Việc thực hiện các giải pháp này phải được tiến hành đồng bộ, trong đó chú trọng đến nhân tố con người, bởi suy cho cùng nhân tố con người luôn là nhân tố quyết định.
82
Tiểu kết chương 3
Các giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật được đưa ra dựa trên sự tổng hợp từ quá trình nghiên cứu luận, phân
tích tình hình thực tiễn tại tỉnh Hòa Bình của tác giả luận văn. thể thấy đây
vấn đề lớn, đòi hỏi squan tâm, nỗ lực của từng quan cũng như sự phối hợp
đồng bộ từ cơ quan xây dựng, soạn thảo, thẩm định ban hành cho đến cơ quan kiểm
tra, giám sát, rà soát văn bản quy phạm pháp luật. Nhìn chung, mỗi cấp, ngành cần
phải tự xác định được nhiệm vụ tăng cường năng lực và hiệu quả công tác khi tham
gia vào quy trình xây dựng, ban hành, giám sát, kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm
pháp luật và không được mặc định rằng thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật không chỉ là nhiệm vụ của riêng Sở tư pháp.
82 Tiểu kết chương 3 Các giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật được đưa ra dựa trên sự tổng hợp từ quá trình nghiên cứu lý luận, phân tích tình hình thực tiễn tại tỉnh Hòa Bình của tác giả luận văn. Có thể thấy đây là vấn đề lớn, đòi hỏi sự quan tâm, nỗ lực của từng cơ quan cũng như sự phối hợp đồng bộ từ cơ quan xây dựng, soạn thảo, thẩm định ban hành cho đến cơ quan kiểm tra, giám sát, rà soát văn bản quy phạm pháp luật. Nhìn chung, mỗi cấp, ngành cần phải tự xác định được nhiệm vụ tăng cường năng lực và hiệu quả công tác khi tham gia vào quy trình xây dựng, ban hành, giám sát, kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật và không được mặc định rằng thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật không chỉ là nhiệm vụ của riêng Sở tư pháp.
83
KẾT LUẬN
Văn bản quy phạm pháp luật được coi chất lượng khi nội dung của
phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, phù hợp với nguyện vọng lợi ích
của nhân dân lao động; có nội dung hợp pháp, được ban hành đúng thẩm quyền,
hình thức và thủ tục; phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội tại thời điểm văn bản ra
đời đồng thời còn có kỹ thuật pháp lý cao. Bởi lẽ đó, trong quá trình xây dựng - ban
hành văn bản, thẩm định một khâu rất quan trọng, bắt buộc phải đáp ứng đủ các
nội dung cơ bản theo tinh thần Luật Ban hành VBQPPL, đặc biệt là yêu cầu về tính
hợp hiến, hợp pháp, thống nhất của các dự án, dự thảo tính tương thích với các
điều ước quốc tế, góp phần kiểm soát, nâng cao chất lượng văn bản. Quá trình này
đòi hỏi có sự tham gia của nhiều chủ thể trong thời gian dài từ khi xây dựng chính
sách đến khi ban hành văn bản hướng dẫn quy định chi tiết. Do vậy, việc thẩm định
dự thảo văn bản QPPL vừa có vai trò kiểm soát vừa có vai trò nâng cao chất lượng
văn bản; là cơ sở quan trọng để quyết định việc có thể ban hành văn bản hay không;
ý kiến thẩm định là cơ sở để các cơ quan chủ trì soạn thảo các văn bản tiếp thu hoàn
chỉnh cả về mặt nội dung và kỹ thuật lập pháp.
Nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước trong thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, Đảng nhà nước ta
luôn đặt nhiệm vụ hàng đầu phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó hệ
thống văn bản pháp luật của địa phương. Việc tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài
“Chất lượng công tác thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật tại Sở
pháp tỉnh Hoà Bình” nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng của công tác
này trên thực tế là hết sức cần thiết, có ảnh hưởng và tác động tích cực đến chất
lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật nói chung. Qua trình bày về phần
luận chung, phân tích những kết quả đạt được tồn tại hạn chế trong thực tiễn
công tác thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền tỉnh Hoà
Bình, đề tài đã chỉ rõ nguyên nhân của những tồn tại hạn chế đưa ra kiến nghị
nhằm nâng cao chất lượng thẩm định văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh
Hoà Bình nói riêng cả nước nói chung. Tuy nhiên, do vấn đề được nghiên cứu
83 KẾT LUẬN Văn bản quy phạm pháp luật được coi là có chất lượng khi nội dung của nó phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động; có nội dung hợp pháp, được ban hành đúng thẩm quyền, hình thức và thủ tục; phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội tại thời điểm văn bản ra đời đồng thời còn có kỹ thuật pháp lý cao. Bởi lẽ đó, trong quá trình xây dựng - ban hành văn bản, thẩm định là một khâu rất quan trọng, bắt buộc phải đáp ứng đủ các nội dung cơ bản theo tinh thần Luật Ban hành VBQPPL, đặc biệt là yêu cầu về tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất của các dự án, dự thảo và tính tương thích với các điều ước quốc tế, góp phần kiểm soát, nâng cao chất lượng văn bản. Quá trình này đòi hỏi có sự tham gia của nhiều chủ thể trong thời gian dài từ khi xây dựng chính sách đến khi ban hành văn bản hướng dẫn quy định chi tiết. Do vậy, việc thẩm định dự thảo văn bản QPPL vừa có vai trò kiểm soát vừa có vai trò nâng cao chất lượng văn bản; là cơ sở quan trọng để quyết định việc có thể ban hành văn bản hay không; ý kiến thẩm định là cơ sở để các cơ quan chủ trì soạn thảo các văn bản tiếp thu hoàn chỉnh cả về mặt nội dung và kỹ thuật lập pháp. Nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, Đảng và nhà nước ta luôn đặt nhiệm vụ hàng đầu là phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó có hệ thống văn bản pháp luật của địa phương. Việc tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài “Chất lượng công tác thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật tại Sở Tư pháp tỉnh Hoà Bình” nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng của công tác này trên thực tế là hết sức cần thiết, có ảnh hưởng và tác động tích cực đến chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật nói chung. Qua trình bày về phần lý luận chung, phân tích những kết quả đạt được và tồn tại hạn chế trong thực tiễn công tác thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền tỉnh Hoà Bình, đề tài đã chỉ rõ nguyên nhân của những tồn tại hạn chế và đưa ra kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Hoà Bình nói riêng và cả nước nói chung. Tuy nhiên, do vấn đề được nghiên cứu