Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng công tác thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật tại Sở Tư pháp tỉnh Hòa Bình
6,653
454
127
64
Chương 3:
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
THẨM ĐỊNH DỰ THẢO VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA
TỈNH HÒA BÌNH
Hiện nay, các quy định về thẩm định dự thảo văn bản QPPL mới dừng lại ở
việc nêu yêu cầu, sự cần thiết, nội dung, hồ sơ và quy trình thẩm định, còn việc
làm
cách nào, sử dụng phương pháp, công cụ, hay kỹ thuật gì để đo lường được những
nội dung cần thẩm định thì vẫn chưa được quy định cụ thể. Vì vậy, việc nghiên
cứu
phương pháp và kỹ thuật trong việc thẩm định nhằm nâng cao chất lượng VBQPPL
là một nội dung quan trọng.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi,
công khai, minh bạch là một trong những yêu cầu quan trọng của nhiệm vụ xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân,
vì Nhân dân đã được Đảng ta xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và được Bộ Chính trị cụ thể hóa bằng các mục
tiêu, nhiệm vụ, quan điểm chỉ đạo tại Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005
về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020” và hiện nay được Chính phủ thể chế hóa, chi tiết hóa
trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020
tại
Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011.
Theo đó, một trong 06 nhiệm vụ của công tác cải cách hành chính là nhiệm
vụ cải cách thể chế, trong đó nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật;
đổi
mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật nhằm bảo đảm tính hợp
hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, cụ thể và khả thi của các văn bản quy phạm pháp
luật
được Chính phủ đặt lên hàng đầu. Nhiệm vụ này bao gồm:
“a) Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật trên cơ sở Hiến pháp năm
1992 được sửa đổi, bổ sung;
b) Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, trước hết
là quy trình xây dựng, ban hành luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định, thông tư
và
65
văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương nhằm bảo đảm tính hợp
hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, cụ thể và khả thi của các văn bản quy phạm pháp
luật;
c) Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách,
trước hết là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự
công bằng trong phân phối thành quả của đổi mới, của phát triển kinh tế - xã
hội;
d) Hoàn thiện thể chế về sở hữu, trong đó khẳng định rõ sự tồn tại khách
quan, lâu dài của các hình thức sở hữu, trước hết là sở hữu nhà nước, sở hữu tập
thể,
sở hữu tư nhân, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu khác
nhau trong nền kinh tế; sửa đổi đồng bộ thể chế hiện hành về sở hữu đất đai,
phân
định rõ quyền sở hữu đất và quyền sử dụng đất, bảo đảm quyền của người sử dụng
đất;
đ) Tiếp tục đổi mới thể chế về doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là xác
định rõ vai trò quản lý của Nhà nước với vai trò chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà
nước; tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước với chức năng quản trị
kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; hoàn thiện thể chế về tổ chức và kinh
doanh vốn nhà nước;
e) Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về xã hội hóa theo hướng
quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo đời sống vật chất và
tinh
thần của nhân dân; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia cung ứng các
dịch
vụ trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh;
g) Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế về tổ chức và công tác
của các cơ quan hành chính nhà nước; sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản
quy phạm pháp luật về tổ chức và công tác của Chính phủ, Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân các cấp;
h) Xây dựng, hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa Nhà
nước và nhân dân, trọng tâm là bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
lấy ý kiến của nhân dân trước khi quyết định các chủ trương, chính sách quan
trọng
và về quyền giám sát của nhân dân đối với công tác của cơ quan hành chính nhà
nước”.
66
Thời gian qua, lĩnh vực cách thể chế của tỉnh Hòa Bình đã đạt được nhiều
kết quả đáng kể. Tuy nhiên, kết quả này không ổn định và có xu hướng giảm hạng.
Mặt khác, để tiếp tục duy trì và cải thiện thứ hạng đối với lĩnh vực này góp
phần cải
thiện về điểm số, nâng cao thứ hạng đối với công tác cải cách hành chính của
toàn
tỉnh nói chung thì việc đưa ra phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật là cần thiết
trong giai đoạn hiện nay.
3.1 Phương hướng
3.1.1 Nâng cao chất lượng thẩm định dự thảo văn bản QPPL của tỉnh Hòa
Bình phải đáp ứng yêu cầu đổi mới công tác xây dựng pháp luật giai đoạn hiện
nay
Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 được Bộ Chính trị
ban hành ngày 24/5/2005 đã đưa ra 6 định hướng hoàn thiện thể chế về các lĩnh
vực, bao gồm: tổ chức và công tác của các thiết chế trong hệ thống chính trị;
bảo
đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân…Trong gần 15 năm qua,
vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn
trên mọi mặt của đời sống xã hội. Một trong những nguyên nhân quan trọng góp
phần tạo nên thành công đó là công tác xây dựng hệ thống pháp luật và thi hành
pháp luật trong thời gian qua đã được đẩy mạnh trên tất cả các lĩnh vực theo các
yêu
cầu, định hướng, giải pháp mà Nghị quyết số 48-NQ/TW đã đề ra.
Mặc dù vậy, hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn còn một số hạn chế, bất cập
như: còn thiếu tính ổn định, nhiều lĩnh vực các văn bản quy phạm pháp luật được
sửa đổi, bổ sung trong thời gian ngắn, dẫn đến khó khăn trong áp dụng pháp luật;
tính thống nhất của hệ thống pháp luật chưa cao, còn tồn tại những văn bản mâu
thuẫn, chồng chéo… Trong giai đoạn hiện nay, tình hình trong nước và quốc tế có
nhiều biến động, diễn biến phức tạp, Việt Nam tiếp tục phải đối diện với nhiều
khó
khăn, thách thức trong khi việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước. Đổi mới chính trị,
67
pháp luật chưa đồng bộ, chưa mở đường cho đổi mới kinh tế… chính vì vậy, đổi
mới công tác xây dựng pháp luật ở nước ta đang là một nhu cầu bức thiết. Thẩm
định dự thảo văn bản QPPL - với vai trò là một phần không thể thiếu của xây dựng
pháp luật vì thế càng trở nên quan trọng và bắt buộc phải đáp ứng yêu cầu đổi
mới
công tác này. Đây cũng là yêu cầu hàng đầu đối với nâng cao chất lượng thẩm định
dự thảo văn bản QPPL của tỉnh Hòa Bình nói riêng cũng như các tỉnh, thành trong
cả nước nói chung.
3.1.2 Nâng cao chất lượng thẩm định dự thảo văn bản QPPL của tỉnh Hòa
Bình gắn liền với việc thực hiện Luật Tổ chức chính quyền địa phương
Chính quyền địa phương là một bộ phận cấu thành hữu cơ của hệ thống chính
quyền nhà nước, có vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà
nước
và phục vụ nhân dân. Hơn 60 năm qua, cùng với sự lớn mạnh của nhà nước cách mạng
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, chính quyền địa phương cũng không ngừng
được củng cố, tăng cường và phát triển, đáp ứng kịp thời yêu cầu cách mạng của
mỗi
thời kỳ, đóng góp to lớn vào sự nghiệp chung của đất nước, của dân tộc. Trong
giai
đoạn đổi mới, chính quyền địa phương đã có bước phát triển mới về chức năng,
nhiệm
vụ, tổ chức bộ máy và cơ chế công tác .
Năm 2015, Luật Tổ chức chính quyền địa phương được thông qua và chính
thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016. Đây là sự khẳng định rõ nét tư
tưởng
xây dựng Nhà nước pháp quyền “của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân”,
“toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”. Việc ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của chính quyền tại địa phương vì thế phải bảo đảm gắn kết chặt chẽ
với
Luật Tổ chức chính quyền địa phương, từ đó phát huy hiệu quả công tác thực tiễn,
phù hợp với đặc điểm, điều kiện và yêu cầu quản lý cụ thể ở từng địa phương. Do
đó, nâng cao chất lượng thẩm định dự thảo văn bản QPPL cũng vì vậy mà không
thể tách rời Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
3.1.3 Nâng cao chất lượng thẩm định dự thảo văn bản QPPL của tỉnh Hòa
Bình phải được đặt trong tổng thể yêu cầu nâng cao chất lượng xây dựng văn
bản QPPL nói chung
68
Một trong những nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp
luật được quy định tại Điều 5 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật là: “đảo
đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp
luật trong hệ thống pháp luật”. Sự ra đời, tồn tại của bất kỳ văn bản quy phạm
pháp
luật nào cũng phải đặt trong chỉnh thể chung của hệ thống pháp luật. Việc xây
dựng
các văn bản QPPL có đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ với các văn bản có hiệu lực
pháp lý cao hơn và các văn bản hiện hành thì mới có tính khả thi cao, đáp ứng
kịp
thời yêu cầu quản lý nhà nước ở địa phương, tạo môi trường và hành lang pháp lý
cho việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Là một trong những giải pháp đảm
bảo
chất lượng văn bản quy phạm pháp luật, việc nâng cao chất lượng thẩm định dự
thảo văn bản QPPL của tỉnh Hòa Bình vì thế cần đặt trong tổng thể yêu cầu nâng
cao chất lượng xây dựng văn bản QPPL nói chung.
3.1.4 Nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự thảo văn bản QPPL cần đổi
mới tổ chức bộ máy, lề lối làm việc, nâng cao chất lượng thực thi công vụ và
xây dựng đội ngũ công chức chuyên nghiệp, hiện đại
Đội ngũ cán bộ, công chức có vai trò đặc biệt quan trọng trong xây dựng và
hoàn thiện bộ máy chính quyền cơ sở, trong việc thực thi quyền lực nhà nước, bảo
đảm sự ổn định và phát triển của đất nước. Đây chính là nhân lực - nguồn lực
quan
trọng nhất đối với mọi cơ quan, tổ chức. Nếu áp dụng các biện pháp nâng cao chất
lượng công tác thẩm định dự thảo văn bản QPPL nhưng không chú trọng tới phát
triển, đổi mới bộ máy con người thì sẽ là một thiếu sót, thất bại lớn. Việc đầu
tư và
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đảm nhiệm công tác thẩm định văn
bản QPPL là hướng đầu tư có hiệu quả, vừa có tính cấp bách vừa có tính lâu dài
nhất. Bên cạnh đó, cần trú trọng nâng cao chất lượng thực thi công vụ, xây dựng
đội ngũ công chức đủ tâm, đủ trí, đủ sức để có thể đáp ứng yêu cầu của nước nhà
trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3.2 Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm
định dự thảo VBQPPL
3.2.1 Hoàn thiện thể chế
69
Với mục tiêu tạo khuôn khổ pháp lý với nhiều đổi mới về xây dựng, ban hành
văn bản quy phạm pháp luật nhằm xây dựng và vận hành hệ thống pháp luật thống
nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, dễ tiếp cận, hiệu lực và hiệu quả phục vụ đắc
lực
cho sự nghiệp phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội
nhập quốc tế sâu rộng; trên quan điểm chỉ đạo tiếp tục thể chế hóa Nghị quyết số
48-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, đổi mới cách xây dựng
chương trình và quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp pháp luật
theo hướng dân chủ, hiện đại, hiệu quả, bảo đảm phù hợp với tinh thần và nội
dung
của Hiến pháp năm 2013, bảo đảm sự đồng bộ với các dự án luật về tổ chức bộ máy
nhà nước, kế thừa những nội dung còn phù hợp của Luật Ban hành VBQPPL năm
2008, 2004 và một số quy định của Luật năm 1996; ngày 22/9/2015 tại kỳ họp thứ 9
Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Để
quy định chi tiết một số điều cũng như các biện pháp thi hành Luật 2015, ngày
14/5/2016 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 34/2016/NĐ-CP để hướng dẫn thi
hành.
Sau khi Luật 2015, Nghị định số 34/2016/NĐ-CP được ban hành việc phổ
biến, quán triệt và tổ chức thực hiện trên địa bàn được triển khai nghiêm túc,
đã tạo
sự chuyển biến về nhận thức và nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành,
người
đứng đầu các cơ quan, đơn vị đối với công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật. Quá trình triển khai thực hiện Luật 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-
CP, ở tỉnh Hòa Bình căn cứ vào khoản 3 Điều 28 Luật 2015 ban hành Quyết định số
31/2011/QĐ-UBND ngày 29/10/2017 về Quy định một số nội dung liên quan đến
công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Hòa
Bình. Bên cạnh, những thuận lợi thì vẫn còn gặp một số khó khăn, vướng mắc. Do
vậy, đề xuất một số giải pháp để giải quyết những khó khăn vướng mắc về thể chế
như sau:
Thứ nhất: pháp luật cần nêu rõ phạm vi ban hành, chương trình ban hành
VBQPPL của HĐND và UBND. Luật Ban hành VBQPPL cần quy định: HĐND và
70
UBND chỉ tập trung ban hành VBQPPL để giải quyết những vấn đề bức xúc nhất
của địa phương và những vấn đề mà văn bản luật giao địa phương quy định chi
tiết,
tránh trường hợp VBQPPL của địa phương ban hành nhắc lại những quy định của
cơ quan Trung ương. Thực tế hiện nay, tại các cơ quan nhà nước ở địa phương,
nhất
là đối với cấp huyện và xã, việc ban hành ra các văn bản quy phạm pháp luật giải
quyết những vấn đề của địa phương mình chủ yếu vẫn là nhắc lại những quy định
được ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan trung ương, gây
nên tình trạng có quá nhiều văn bản quy phạm pháp luật, làm cho hệ thống văn bản
trở nên quá tải và thiếu sự thống nhất.
Thứ hai: theo quy định của Luật Ban hành VBQPPL thì cơ quan Tư pháp có
vai trò phối hợp cùng Văn phòng HĐND và UBND trong việc dự kiến chương trình
xây dựng VBQPPL, nhưng ở giai đoạn sau khi các ngành đã gửi dự kiến ban hành
văn bản QPPL của ngành mình, lúc này cơ quan Tư pháp sẽ không thể hiện hết
được vai trò của mình trong việc phối hợp xây dựng dự kiến chương trình
VBQPPL, thậm chí có đôi lúc còn thụ động. Chính vì vậy, đề nghị sửa đổi quy định
về cơ quan chủ trì xây dựng chương trình ban hành VBQPPL ở địa phương theo
hướng tăng cường vai trò của cơ quan Tư pháp trong việc lập dự kiến chương trình
xây dựng VBQPPL của các ngành trước khi gửi dự kiến đến văn phòng HĐND và
UBND. Điều này vừa góp phần tạo nên một chương trình xây dựng VBQPPL có
chất lượng, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn đồng thời phát huy được tối đa vai
trò
của cơ quan Tư pháp địa phương trong công tác xây dựng và ban hành VBQPPL ở
địa phương.
Thứ ba: cần phải khẳng định việc thẩm định tính khả thi của dự thảo
VBQPPL là bắt buộc. Hiện nay, Luật Ban hành VBQPPL không quy định phải
thẩm định nội dung tính khả thi của dự thảo VBQPPL. Trên thực tế, việc thẩm định
về tính khả thi của dự thảo văn bản là rất quan trọng vì nếu không xem xét đến
khía
cạnh này thì sẽ để lọt các văn bản không có tính khả thi, không phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội, làm ảnh hưởng lớn đến niềm tin của tổ chức và nhân dân
đối
với tính nghiêm minh của pháp luật. Hơn nữa, trong điều kiện hiện nay, việc thẩm
71
định, thẩm tra tính khả thi của dự thảo văn bản tuy không phải là công việc đơn
giản, song cũng không quá nan giải khi pháp luật quy định cơ quan chủ trì soạn
thảo
phải có trách nhiệm khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội ở địa phương
liên
quan đến dự thảo ngay từ giai đoạn ban đầu. Bên cạnh đó, pháp luật cũng đã cải
tiến
cách thức tổ chức thẩm định, thẩm tra theo hướng huy động cao hơn trí tuệ của
các
chuyên gia trong công tác thẩm định, thẩm tra. Vì vậy, pháp luật cần phải khẳng
định thẩm định và thẩm tra tính khả thi của dự thảo VBQPPL là bắt buộc trong các
nội dung dự thảo và cơ quan thẩm định, thẩm tra phải đồng thời chịu trách nhiệm
cùng với cơ quan soạn thảo về tính khả thi của dự thảo đó.
Thứ tư: hiện nay, Luật sửa đổi, bổ sung Luật ban hành VBQPPL năm 2020
đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ
9 thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2020 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2012. Tuy
nhiên, việc quy định 15 ngày đối với việc thẩm định dự thảo văn bản QPPL phức
tạp, cần thành lập Hội đồng thẩm định cần được nghiên cứu xem xét lại. Bên cạnh
đó cần quy định mức thời gian tối thiểu cho công tác thẩm định trong trường hợp
ban hành VBQPPL đột xuất ngoài chương trình, kế hoạch.
Thứ năm: bổ sung quy định về trách nhiệm của các chủ thể tham gia vào quá
trình thẩm định, thẩm tra. Hiện nay việc cơ quan thẩm định không tiến hành thẩm
định, thẩm định mang tính hình thức… đều chưa có chế tài xử lý cụ thể. Việc
buông
lỏng chế tài đối với các chủ thể này sẽ gây nên tâm lý chủ quan, cẩu thả và thậm
chí
bỏ qua khâu thẩm định và thẩm tra trong quá trình công tác ban hành văn bản quy
phạm pháp luật của các chủ thể có liên quan. Chính vì vậy, việc bổ sung trách
nhiệm của các chủ thể đối với công tác thẩm định và thẩm tra dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật cần thiết phải đặt ra.
3.2.2 Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo và hướng dẫn nghiệp vụ
thẩm định dự thảo văn bản QPPL
Xây dựng và ban hành văn bản QPPL là công tác quan trọng không thể
thiếu trong quản lý nhà nước. Để ban nhà được những văn bản QPPL có chất
lượng, chính quyền tỉnh cần có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao và tương
72
xứng đối với công tác ban hành văn bản QPPL nói chung và thẩm định dự
thảo văn bản QPPL của UBND cấp tỉnh nói riêng. Để thực hiện được điều này,
người đứng đầu cấp ủy, HĐND, UBND tỉnh cần quán triệt về tầm quan trọng
và vị trí của công tác ban hành văn bản QPPL của địa phương trong quản lý
điều hành cũng như sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Lãnh đạo tỉnh cần có sự chỉ đạo các cấp, các ngành, đặc biệt là người đứng
đầu các cơ quan chuyên môn tham mưu cho UBND tỉnh thực hiện chức năng
quản lý nhà nước trên các lĩnh vực nâng cao nhận thức về việc ban hành văn bản
QPPL. UBND tỉnh cần ban hành văn bản riêng về quy trình xây dựng văn bản
QPPL của UBND tỉnh Hòa Bình trong đó xác định rõ trách nhiệm của người đứng
đầu các cơ quan trong công tác xây dựng văn bản QPPL. Cụ thể đối với các dự
thảo văn bản QPPL trình UBND tỉnh ban hành, người đứng đầu cơ quan tham mưu
phải trực tiếp chỉ đạo và ký Tờ trình ủy ban. Các cuộc họp của UBND tỉnh để
thảo luận và quyết định ban hành văn bản QPPL bắt buộc phải có sự tham gia của
người đứng đầu cơ quan tham mưu và các cơ quan đơn vị có liên quan.
Trường hợp ủy quyền cho cấp phó tham dự phải được sự đồng ý của lãnh đạo
UBND tỉnh.Đối với công tác thẩm định dự thảo văn bản QPPL, Giám đốc Sở Tư
pháp phải là người trực tiếp phụ trách phòng chuyên môn làm công tác thẩm định
dự thảo văn bản QPPL và là người trực tiếp ký Báo cáo thẩm định. Bởi vì người
đứng đầu của cơ quan tham mưu là người trực tiếp triển khai việc thực hiện các
nhiệm vụ chức năng theo chủ trương chính sách của thành phố. Cho nên sự tham
gia và chỉ đạo trực tiếp của người đứng đầu trong công tác xây dựng văn bản nói
chung và thẩm định dự thảo văn bản nói riêng là yếu tố quan trọng quyết định
chất lượng của công tác ban hành VBQPPL của UBND tỉnh.
3.2.3 Kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức làm
công tác thẩm định dự thảo văn bản QPPL
Thứ nhất, bổ sung thêm số lượng cán bộ làm công tác thẩm định, thẩm tra vì
hiện nay số lượng cán bộ làm công tác thẩm định còn thiếu. Nên áp dụng một số mô
hình bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ hiện đang làm công tác thẩm định, thẩm tra
73
như: bồi dưỡng thêm kiến thức chuyên ngành khác đối với những cán bộ đã tốt
nghiệp chuyên ngành luật, bồi dưỡng kiến thức pháp lý đối với người đã được đào
tạo chuyên ngành khác. Việc đào tạo như vậy sẽ giúp cho các cán bộ làm công tác
có sự am hiểu phong phú hơn về các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo thuận lợi
cho
việc thẩm định được khách quan và khoa học.
Thứ hai, nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác thẩm định, tiêu chuẩn hoá
chức danh cụ thể cho đội ngũ công chức trực tiếp thực hiện thẩm định dự thảo
VBQPPL . Cần chú trọng việc mở các lớp tập huấn, toạ đàm, hội nghị… về công
tác xây dựng văn bản, kỹ thuật soạn thảo văn bản. Đặc biệt, chú trọng việc đào
tạo,
tập huấn kỹ năng thẩm định cho các cán bộ của đơn vị. Bên cạnh đó, cần có những
quy định mang tính hỗ trợ nhằm tạo điều kiện cho những cán bộ, công chức làm
công tác văn bản nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, mở rộng tầm hiểu biết
để phục vụ công tác. Xây dựng, biên soạn các cuốn cẩm nang hỗ trợ về kỹ thuật
soạn thảo văn bản, kỹ năng thẩm định, cẩm nang về kỹ năng kiểm tra văn bản, hệ
thống hoá, pháp điển hoá…
Hiện tại, Sở Tư pháp tỉnh Hoà Bình có 04 cán bộ làm công tác thẩm định văn
bản quy phạm pháp luật; 04/04 đồng chí đều có trình độ Đại học Luật trở nên. Đây
là một thế mạnh của đơn vị trong việc tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá các căn cứ
pháp lý - tính hợp pháp, hợp hiến của một dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
Tuy
nhiên, nhằm nâng cao trình độ của cán bộ công chức đáp ứng yêu cầu thẩm định đa
dạng các dự thảo văn bản pháp luật, hàng năm Sở tư pháp tỉnh Hoà Bình đều tổ
chức các Hội thảo trao đổi kinh nghiệm, tổ chức lấy ý kiến cán bộ thẩm định dự
thảo văn bản quy phạm pháp luật để tìm hiểu và tháo gỡ các vướng mắc trong công
tác; đồng thời tạo điều kiện hết mức cho cán bộ công chức được tham gia các lớp
tập huấn nâng cao nghiệp vụ, các khoá học nâng cao trình độ…
Nâng cao trách nhiệm công tác và đạo đức công vụ của cán bộ, công chức
làm công tác thẩm định. Tăng cường giáo dục nâng cao tinh thần trách nhiệm, đạo
đức công vụ; xây dựng tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp cán bộ, công chức; Nâng
cao ý thức tổ chức kỷ luật phấn đấu thực hiện tốt nhất nhiệm vụ được giao, tạo