Luận văn Thạc sĩ Nông nghiệp: Xác định lượng giống và tổ hợp phân bón thích hợp trong thâm canh lúa hương thơm số 1 tại huyện Điện Biên tỉnh Điện Biên – Vụ xuân năm 2007
9,335
597
123
lượng. Lượng đạm vừa đủ trong đất làm tăng d iện tích lá, số chồi, làm tăng
năng suất lúa. Quá nhiều phân đạm trong đất sẽ làm cây tăng trưởng mạnh,
cây bị ngã đổ do nhận được ít ánh sáng, còn ở thời kỳ s inh sản, bón quá nhiều
đạm sẽ làm tăng số hạt lép và tạo nhiều chồi con. Nếu không đủ lượng đạm
thì cây lúa sinh trưởng phát triển kém cũng không thể cho năng suất cao [14].
* Phân đạm và cách sử dụng để tăng hiệu quả: Cần chú ý rằng: lượng
phân đạm bón cho cây lúa chỉ được cây hấp thụ khoảng 40%, lượng 60% còn
lại thì 40% b ị mất đ i do bốc hơi, rửa trô i... và 20% còn lại thì lưu giữ
trong
đất có thể một phần được vụ tiếp theo sử dụng). Vì vậy, phải có cách bón để
sao cho cây lúa hấp thụ được nhiều nhất bằng cách: điều chỉnh lượng đạm bón
ở các mùa vụ khác nhau, đối với các chân đất, giống lúa khác nhau và vào
thời điểm nào cho thích hợp... Việc bón phân đạm đúng lượng sẽ cho hiệu quả
cao nhất. Lượng phân đạm cần bón còn phụ thuộc vào giá cả, hiệu quả tăng
năng suất và tùy theo từng loại giống lúa. Việc bón phân đúng lượng sẽ cho
thu nhập cao nhất. Để sử dụng phân đạm cho lúa một cách có hiệu quả nhất
cần áp dụng đồng bộ các yếu tố: Lượng phân và mùa vụ, lượng phân và
giống, cách bón và thời đ iểm bón thì chắc chắn sẽ cho một hiệu quả cao nhất.
Các giống có tiềm năng năng suất cao, chịu thâm canh thì sử dụng
lượng đạm cao cây lúa vẫn hấp thụ, phát triển tốt và không bị lốp đổ. Theo
Bùi Huy Đáp (1981): Các giống cao cây và thấp cây có nhu cầu về đạm cũng
khác nhau. Các giống cây cần đạm từ lúc đẻ nhánh đến khi lúa sắp trỗ, còn
các giống thấp cây cao thì nhu cầu về đạm tăng đều tới lúc lúa trỗ và sau khi
trỗ xong thì nhu cầu về đạm giảm rõ rệt. Với những giống lúa mới, bón phân
sẽ cho năng suất tăng lên nhiều hơn năng suất giống lúa cũ, dù là trồng vào vụ
nào, bón đạm nhiều hay ít.
Lượng phân đạm bón cho cây lúa phải thích hợp: lượng phân bón thích
hợp phụ thuộc vào mùa vụ gieo cấy, độ màu mỡ của đất, tiềm năng năng suất
của giống lúa, giá cả phân bón, thời gian và cách bón phân. Ngoài việc phải
tuân thủ theo quy trình kỹ thuật của các giống lúa, còn phải quan sát, cân nhắc
lượng và thời đ iểm bón phân đạm dựa vào chân đất, thời tiết và màu sắc bộ lá
lúa (dùng bảng so màu lá lúa).
Bón phân đúng giai đoạn sinh trưởng của cây lúa: Yêu cầu về đạm của
cây lúa thay đổi theo thời gian s inh trưởng. Cây lúa cần nhiều đạm trong thời
kỳ đẻ nhánh, nhất là thời kỳ đẻ nhánh cực đại. Khi kết thúc thời kỳ phân hóa
đòng, hầu như cây lúa đã hút trên 80% tổng lượng đạm cho cả chu kỳ sinh
trưởng [13].
* Phân đạm và cách bón đạm để tăng hiệu quả : Một trong những yếu
tố quan trọng để tăng hiệu quả bón đạm cho cây lúa là cách bón, hay nói cách
khác là bón đạm như thế nào.
Thời đ iểm thích hợp nhất để bón đạm cho cây lúa vào lúc cấy và lúc
cây lúa bắt đầu làm đòng, cũng không nên bón đạm cho lúa khi vừa cấy xong.
Cách bón phân đạm tốt nhất là trước khi cấy phân đạm được trộn với đất để
cho phân đạm gần rễ hơn.
Khi bón phân cũng phải quan sát không nên bón khi ruộng khô nẻ rồi
cho nước vào ruộng thì một phần phân đạm sẽ biến thành khí bốc hơi bay đi.
Ngược lại nếu bón đạm cho đất ngập nước thường xuyên làm thay đổi dạng
đạm (dạng đạm này dễ chuyển thành thể khí bay lên). Khi quan sát thấy trời
sắp mưa không nên bón đạm vì như vậy lượng đạm vừa bón sẽ dễ bị rửa trô i;
khi chưa nắng nóng gay gắt vào buổi trưa, đầu giờ chiều cũng không nên bón
đạm vì đạm dễ bị bay hơi. Trời quang đãng, vào buổi sáng hoặc chiều tố i là
thời điểm bón đạm tốt nhất.
Cần phải luôn luôn giữ cho đồng ruộng sạch cỏ dại. Trước khi bón
phân đạm cho lúa cần phải làm sạch cỏ dại bởi vì cỏ sẽ cạnh tranh phân đạm
với cây lúa. Cỏ càng mọc nhanh sẽ cạnh tranh với lúa không những chỉ phân
bón mà cả nước, ánh sáng, không gian chứa khí và điều kiện để sâu bệnh phát
sinh phát triển. Cần phải làm cỏ trong vòng 30 ngày sau khi cấy, nếu không
làm cỏ ngay trong giai đoạn này thì năng suất lúa sẽ bị giảm rõ rệt.
Một điểm chú ý khác khi bón thúc phân đạm là không nên bón khi lá
lúa còn ướt bởi phân đạm sẽ dính lại trên lá ướt và với lượng nhiều có thể gây
cháy lá; phân đạm đã hòa tan vào những giọt nước trên lá lúa sẽ bị mất vào
không khí khi các giọt nước đó bốc hơi, khô đi. Cũng không nên bón thúc
phân đạm nếu như thấy có mưa to vì đạm vừa bón sẽ bị trôi đi mất [1 5].
- Đối với phân lân:
P
2
O
5
, do
20kg
30kg P
2
O
5
4
20kg P
2
O
5
20 -
. Nguyễn Văn Luật (2001) [25].
-
: 30 - 120 P
2
O
5
- 90kg P
2
O
5
Supe lân hay lân Nung chảy đều làm tă [25]
- /Kg P
2
O
5
- /Kg P
2
O
5
[4].
* :
Trong cây lúa, tính theo chất khô, tỉ lệ lân nguyên chất (P
2
O
5
) chiếm
xung quanh 0,2% trong rơm rạ và khoảng 0,48% trong hạt gạo. Phân lân tham
gia vào thành phần ADN và ARN của cây lúa, lân có mối quan hệ chặt chẽ
đến sự hình thành d iệp lục, protit và vận chuyển tinh b ột; lân còn đóng góp
vào quá trình hình thành chất béo và tổng hợp prôtêin trong cây. Cũng như
đạm, tỉ lệ lân cao hơn tại các cơ quan non của cây lúa. Lân cũng làm tăng sự
phát triển của bộ rễ, thúc đẩy việc ra rễ, đặc biệt là rễ bên và lông hút. Cây
lúa
hút lân trong suốt thời kỳ sinh trưởng từ khi cây lúc mọc đến khi lúa trỗ,
nhưng hút lân mạnh nhất vẫn là thời kỳ đẻ nhánh và làm đòng, tuy nhiên giai
đoạn đầu nhu cầu về lân của cây lúa là rất thấp.
Cây lúa được bón đầy đủ lân và cân đối đạm sẽ phát triển xanh tốt,
khỏe mạnh, chống đỡ với điều kiện bất thuận như hạn, rét. Cây lúa đủ lân đẻ
khỏe, bộ rễ phát triển tốt, trỗ và chín sớm ngay cả trong điều kiện nhiệt độ
thấp trong vụ đông xuân, hạt thóc mẩy và sáng. Cây lúa thiếu lân cây còi cọc,
đẻ nhánh kém, bộ lá lúa ngắn, phiến lá hẹp, lá có tý thế dựng đứng và có màu
xanh tố i; số lá, số bông và số hạt/bông đều giảm.
Trong sản xuất, khi bón phân lân cho lúa, lượng lân supe bao giờ cũng
gấp 1, 5-2 lần so với đạm urê và thường bón lót toàn bộ phân lân cùng với
phân chuồng hay phân xanh để cung cấp kịp thời lân cho sự phát triển của
bộ rễ lúa.
Phân lân thường chia làm 2 loại: phân lân tự nhiên và phân lân chế biến.
a) Phân lân tự nhiên có hai dạng: photphorit dạng bột mịn và apatit
nghiền, không có mùi. Nếu là photphorit thì có màu vàng đất, màu xám hoặc
vàng nâu. Nếu là apatit thì có màu xám xanh. Hàm lượng lân nguyên chất
(P
2
O
5
) của hai dạng phân này chiếm không quá 40%. Riêng với apatit có chứa
40-50% vôi và một số nguyên tố vi lượng như: sắt, ðồng, mangan và megiê.
Loại phân này không tan trong nước, khi bón vào đất phân tan dần nhờ nước
có khí cacbonic hay axit yếu. Phân này thường dùng bón lót và có tác dụng
chậm, nó có chứa vôi nên có tác dụng tốt ở đất chua phèn. Ngoài ra còn có
một số loại phân lân tự nhiên khác (còn gọi là phân lèn) được xếp vào loại lân
dễ tiêu được lấy từ hang núi đá vôi: dạng bột phôtphorit thýờng không chứa
đạm và phân và xác chim, dơi sống trong các hang núi.
b) Phân lân chế biến: loại thường dùng trong sản xuất lúa hiện nay là
lân supe, còn gọi là lân Lâm Thao và lân nung chảy hay phân lân Vãn Ð iển là
những loại phân bón trong nước sản xuất.
- Loại phân ở dạng bột và có màu xám hay trắng xám, có mùi chua, tan
được trong nước là supe lân và loại phân này thường bón lót cho đất í t chua.
- Loại phân lân có dạng bột màu xám xanh có ánh thủy tinh, không
mùi, không tan trong nước nhưng tan trong axit yếu là lân nung chảy (hay còn
gọi là técmo phốtphát) do hai doanh nghiệp nhà nước sản xuất là Văn Ð iển và
Ninh Bình, có thể dùng ở nhiều loại đất, đặc biệt nó có tác dụng ở đất chua.
Loại phân chế b iến này thường chứa 18-20% P
2
O
5
tổng số. Phân lân nung
chảy cũng có thêm một số nguyên tố vi lượng.
Ngoài ra trên thị trường có nhập một số loại phân lân nung chảy được
nhập từ các nước: Mỹ, Cộng hòa A-Rập thống nhất, Nhật Bản và Cộng hoa
Liên bang Ðức [16].
- :
* Vai trò của kali đối với việc nâng cao năng suất lúa
Để tăng năng suất cây trồng, tăng chất lượng nông sản, nhiều nghiên
cứu về dinh dưỡng cây trồng được tiến hành theo hướng bón phân cân đối,
quản lý dinh dưỡng tổng hợp. Năng suất của cây trồng nói chung và cây lúa
nói riêng phụ thuộc vào yếu tố hạn chế vì vậy xác định đ ược yếu tố hạn chế
chính là có giải pháp khắc phục sẽ là bước đột phá trong việc gia tăng năng
suất. Điều này đã được minh chứng từ đầu những năm bảy mươi khi phát hiện
lân là yếu tố hạn chế năng suất lúa khi mở rộng d iện tích gieo trồng các giống
lúa mới có nhu cầu lân cao gấp 2 - 3 lần giống lúa cổ truyền như IR5; IR8.
Vấn đề bón lân đã được khuyến cáo và dần trở thành tập quán trong canh tác
các giống lúa mới, lân trở thành đòn bẩy năng suất và cùng với giải pháp thủy
lợi là những đ iều kiện tiên quyết trong mở rộng diện tích gieo trồng giống lúa
mới, đặc biệt ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, góp phần đáng kể vào
việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
Vào đầu những năm 1990 cùng với việc gia tăng các giống cây trồng có
ưu thế lai như lúa, ngô và nhiều giống cây trồng khác; nghiên cứu về dinh
dưỡng cây trồng đã tiếp cận và triển khai hàng loạt vấn đề mang tính toàn
diện về liều lượng phân bón, cách bón, thời điểm bón, loại phân phù hợp, tỉ lệ
phối hợp giữa các loại phân và nhu cầu phân bón của các loại cây trồng gắn
với giống. Từ những kết quả này đã phát hiện kali trở thành yếu tố hạn chế
đối với cây trồng trên nhiều loại đất, đặc biệt đối với các giống lúa lai, lúa
thuần trung quốc, các giống lúa chịu thâm canh có nhu cầu kali cao hơn nhiều
so với các giống lúa thuần. Cũng cần phải nói thêm rằng hạn chế do thiếu kali
trước đây chỉ được xác định trên các loại đất có thành phần cơ giới nhẹ như đất
bạc màu, đất cát biển, đất xám hoặc bạc màu trên đá cát. Việc phát hiện kali
cũng là yếu tố hạn chế năng suất cây trồng trên nhiều loại đất khác nhau đã
hình thành tiến bộ kỹ thuật bón cân đối N.P.K và quản lý dinh dưỡng cây trồng
tổng hợp. Tiến bộ kỹ thuật này được áp dụng rộng rãi trong cả nước, đặc biệt
đối các vùng thâm canh, góp phần tăng năng suất lúa 0,6 - 1,2 tấn/ha [2].
Kali là một trong 3 yếu tố dinh dưỡng quan trọng nhất đối với cây lúa,
lúa hút kali nhiều nhất sau đó mới đến đạm, để thu đ ược 1tấn thóc cây lúa lấy
đi 22 - 26 kg kali nguyên chất, tư ơng đương 36,74 - 43,42kg KC l (loại phân
chứa 60% KCl), kali là nguyên tố điều khiển chất lư ợng, tham gia vào hầu hết
các quá trình hình thành các hợp chất và vận chuyển các hợp chất đó, kali làm
cho tế bào cứng cáp, tăng tỉ lệ đường, giúp vận chuyển chất dinh dưỡng nhanh
chóng về hoa, tạo hạt tốt [7], [26], [33], [29], [42].
Thí nghiệm đồng ruộng của IRRI được tiến hành tại 3 đ iểm khác nhau
trong 5 năm (1968 - 1972) cho thấy: Phân kali có ảnh hư ởng rõ tới năng suất
lúa ở cả 2 vụ trong năm. Trong mùa khô trên nền 140N; 60P
2
O
5
, bón 60
K
2
O/ha năng suất đạt 6,78 tấn/ha, cho bội thu năng suất do bón kali là 12,8kg
thóc/kg K
2
O. Trong mùa mưa trên nền 70N; 60P
2
O
5
, bón 60 K
2
O/ha năng
suất đạt 4,96 tấn/ha cho bội thu năng suất do bón kali trung bình năm vụ đạt
440kg thóc, với hiệu suất phân bón là 6,1kg thóc/kg K
2
O. Trên đất phù sa sông
Hồng trong thâm canh lúa ngắn ngày, để đạt năng suất lúa trên 5 tấn/ha ở vụ
mùa và trên 6 tấn/ha ở vụ xuân, nhất thiết phải bón phân kali. Để đạt năng suất
lúa xuân 7 tấn/ha cần bón 102 - 135kg K
2
0/ha/vụ (trên nền193kg N/ha, 120
P
2
O
5
/ha) và năng suất lúa mùa 6 tấn cần bón 88 - 107 kg K
2
O/ha/vụ (trên nền
160N, 88 P
2
O
5
). Hiệu suất phân kali có thể đạt 6,2 - 7,2kg thóc/kg K
2
O [5], [9].
Vai trò cân đối đạm - kali càng lớn khi lượng đạm sử dụng càng cao. Không
bón kali hệ số sử dụng đạm chỉ đạt 15 - 30%, trong khi bón kali hệ số này
tăng lên đến 39 - 49%. Như vậy, năng suất tăng không hẳn là do kali (bởi bón
kali riêng rẽ không tăng năng suất) mà là kali đã đ iều chỉnh dinh dưỡng đạm,
làm cho cây hút được nhiều đạm và các chất dinh dưỡng khác hơn. Trong vụ
Đông Xuân ở miền bắc, nhiệt độ thấp, thời t iết thường âm u nên hiệu lực phân
kali cao hơn, do đó cần bón kali nhiều hơn ở vụ này [7].
* Đặc điểm dinh dưỡng kali của lúa
Giống lúa lai có yêu cầu về kali cao hơn đạm, hút kali mạnh nhất vào
giai đoạn làm đòng đến trỗ bông hoàn toàn [27].
Thời gian lúa hút kali dài hơn hút đạm và lân. Lúa hút kali tới tận cuố i
thời gian sinh trưởng [40]. Nhu cầu kali của cây lúa rõ nhất ở hai thời kỳ: Đẻ
nhánh và làm đòng. Thiếu kali vào thời kỳ đẻ nhánh ảnh hư ởng mạnh đến
năng suất lúa. Tuy nhiên, lúa hút kali nhiều nhất ở thời kỳ làm đòng, từ cuố i
đẻ nhánh đến trỗ lúa lai hấp thu kali nhiêù hơn lúa thuần. Sau khi trỗ bông
lúa thuần hấp thu giảm hẳn trong khi lúa lai vẫn hấp thu kali mạnh
(670gam/ha/ngày) chiếm 8,7% tổng lượng hấp thu. Kali đ ược sử dụng trong
nguyên sinh chất tế bào như một tác nhân kích thích các hoạt động chuyển
hóa vật chất vô cơ thành hữu cơ đồng thời thúc đẩy quá trình vận chuyển sản
phẩm quang hợp từ lá vào hoa và hạt. Sự có mặt của kali thời kỳ sau trỗ ở lúa
lai là một ưu thế thúc đẩy quá trình vào mẩy của hạt giúp nâng cao năng suất.
Lúa lai có khả năng đồng hóa dinh dưỡng cao nhất là đạm và kali. lượng hút
đạm thường từ 20 - 22 kg N/tấn thóc, và lượng hút kali cũng t ương tự , trong
một số trường hợp còn cao hơn. Để đạt năng suất cao c ần thiết phải bón sớm
nhất là trong vụ xuân. Bón kali là yêu cầu bắt buộc với lúa lai ngay cả trên đất
giầu kali [2].
* Bón phân khoáng kali cho lúa trên đất phù sa sông Hồng
Trên đất phù sa sông Hồng việc xác định lư ợng phân bón, đặc biệt là
phân kali có hiệu quả là một vấn đề quan trọng, có rất nhiều ý kiến khác nhau
về vấn đề này.
Giữa năng suất lúa và lượng kali lấy đi có mối quan hệ thuận [28], [35].
Lượng kali cây lúa hút (kg K
2
O) để tạo được một tấn thóc ở các vùng
khác nhau trên thế giới giao động trong phạm vi 20 - 40 kg K
2
O [34]. Ở vùng
nhiệt đới lượng kali cây hút để tạo được một tấn thóc dao động từ 35 - 50 kg
K
2
O, trung bình 44kg K
2
O [31]. Ở Trung Quốc để đạt 15 tấn thóc/ha/năm,
tổng lượng kali cây hút từ 405 - 521kgK
2
O/ha/năm [41]. Các kết quả nghiên
cứu bước đầu ở Việt nam cho thấy, lư ợng kali cây hút để tạo được 1tấn thóc
không giống các tài liệu của nư ớc ngoài mà mỗi tác giả lại khác. Theo
Nguyễn Vy, với 2 vụ lúa năng suất 9 - 10 tấn/ha/năm lượng kali cây hút trung
bình 200 - 250 kg K
2
O/ha. Trên đất phù sa sông Hồng lư ợng kali cây lúa hút
để tạo 1 tấn thóc là 14,2 - 21,8 kg K
2
O [28], 28,4 - 32,7 kg K
2
O [12].
Dự trữ kali trong đất lớn hơn đạm và lân nhiều. Đất phù sa sông Hồng
có hàm lượng kali cao [24]. Trong đất luôn có sự chuyển hóa giữa các dạng
kali theo một cân bằng động [36], [21]. Trong hoàn cảnh nhiệt đới, phong hóa
mạnh, có nhiều khả năng hàm lư ơng kali tổng số nói lên khả năng cung cấp
kali của đất [30]. Trong điều kiện ngập nư ớc bộ rễ lúa hút kali một cách dễ
dàng [31]. Tuy nhiên, một số kết quả nghiên cứu trên đất phù sa sông Hồng
gần đây cho thấy lượng kali đất có thể cung cấp cho cây lúa ngắn ngày không
cao hơn lượng đạm [28], [3].
Đến nay đã cơ bản khắc phục được hiện tượng thiếu lân đối với các vùng
trồng lúa, bón lân là việc làm quen thuộc của nông dân trồng lúa. Vấn đề còn
lại là khắc phục hiện tượng thiếu kali, đặc biệt là tỷ lệ N: K được đánh giá là
quan trọng trong việc xác định lượng phân kali bón cho lúa [43], như ng về giá
trị tuyệt đối thì ý kiến còn khác nhau: Theo các tác giả nước ngoài, tỷ lệ này
là
1:1 hay 1:1,25, thay đổi tùy theo đất [40]. Theo tác giả trong nư ớc, tỷ lệ N :
K
là 1: 0,3 hay 1: 0,5 [33]. Có lẽ ứng với mức thâm canh trung bình. Mức phân
bón 120N, 90P
2
O
5
và 120 K
2
O là mức bón có ý nghĩa nhất đối với lúa lai trên
đất phù sa sông Hồng đồng thời cho năng suất cao hơn đối chứng là 26% và
hiệu suất kg thóc/kg K
2
O là 7,2 [6] như vậy tỉ lệ này cần đạt là 1,2 : 0,9 : 1,2.
Trên đất phù sa sông Hồng, Vụ Xuân cần bón 8 - 10 tấn phân chuồng, bón
120 - 130kg N, 80 - 90kg P
2
O
5
và 30 - 60kg K
2
O/ha [7]. Lúa lai có khả năng
đồng hóa cao nhất là đạm và kali, lương hút kali thường 20 - 22kgK
2
O/tấn
thóc, hiệu suất phân kali đạt 10 - 13kg thóc [2]. Có thể dùng tỷ lệ N: K cây
lúa hút của công thức không bón phân hoặc chỉ bón phân chuồng làm cơ sở để
bón phân cân đói hợp lý [3].
Theo IPI, 1993 [40] Lúa sử dụng khối lượng nước rất lớn, vì vậy nước
tưới có thể là nguồn kali chính cho lúa. Hàm lượng kali trong nước tưới
25ppm tương đ ương bón 60kg K
2
O/ha, khi hàm lượng kali trong nước tới đạt
40ppm có thể đáp ứng nhu cầu kali cho lúa ở mức 10 tấn/ha.
Khuyến cáo bón kali cho lúa ở Viện kali quốc tế cũng chủ yếu dựa vào
mức năng suất và khả năng cung cấp kali của đất. Tùy theo đất lúa, mùa khô
để đạt năng suất lúa 4 - 8 tấn/ha cần bón 30 - 150kg K
2
O/ha. Mùa mưa để đạt
năng suất 4 - 6 tấn/ha cần bón 30 - 100 kg K
2
O/ha. Ở Trung Quốc thí nghiệm
đạt năng suất lúa cao 7 - 8 tấn/ ha/ vụ đã bón 135 - 150kg K
2
O/ha. Người đạt
năng suất lúa kỷ lục đã bón 280kg K
2
O/ha [40]. Mô hình thâm canh lúa lai
cao sản tại Xuân Trường - Nam Đ ịnh vụ Xuân 2005, để đạt 14 tấn/ha lư ợng
kali sử dụng 283 kg K
2
0/ha và lượng đạm cũng tương tự, tỷ lệ N:K là 1:1
(Báo cáo “Mô hình trình diễn lúa cao sản My Sơn 2, My Sơn 4, D.ưu 527
bằng quy trình canh tác tiên tiến của Trung Quốc. Nhằm xác định tiềm năng
năng suất lúa vụ Xuân của Nam Định”).
Trên đất phù sa sông Hồng, khi năng suất dưới 2,5 tấn/ha hiệu lực kali
thường không rõ, năng suất 2,5 - 4,5 tấn/vụ, bón 20 - 30kg K
2
0/ha hiệu lực rõ,
năng suất lớn hơn 4,5 tấn/ha/vụ nhất thiết phải bón phân kali [25].