Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Mùa thu trong thơ Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư và Quách Tấn

9,211
571
111
90
“Trăng” trong thơ Lư Trọng Lư là vầng trăng thu huyền ảo, trăng của thế
gii mng, mang du n tâm trng của thi sĩ. “Trăng” trong thơ ông không còn
trăng của mây tri, sông nước, trăng của t nhiên nữa mà là trăng của lòng
ngưi, của tình người, trăng đã bị ni tâm hóa sâu sc, nó mang theo nhng xao
động ca tâm hồn thi nhân. Không gian sông nước ngập tràn ánh trăng chính
s c th hóa, hình tượng hóa mt khonh khc tâm trạng nào đó nơi hồn thi sĩ.
Không gian của ánh trăng không chỉ không gian ca su, ca bun
đôi khi, nó lại là không gian to s m o, thực hư, lung linh cho một đêm xuân
tình lãng mn:
“Trăng lội vẫn mơ màng
Trên nhng vòng tóc ri”
(Còn chi na)
“Trăng” trong thơ Lưu Trọng hình như rất ít khi sáng rõ, mà lúc nào
cũng mờ m o ảo, như một lớp sương bao phủ to nên mt vùng không
gian rộng mà như có chút gì cô đơn, quạnh qu:
Em không nghe mùa thu
ới trăng mờ thn thức?”
(Tiếng thu)
Ánh trăng “ mờ thn thức” đã đưa thi sĩ trôi về min mng o xa xôi. Quách
Tấn, qua ánh trăng thi nhân thể hin tm lòng tha thiết nh thương quê nhà:
Ba ng sông m trăng nửa gương
Đôi bờ trúc l gió muôn phương
Rau dòng sui ngt bên kia núi
Kh động lòng thu…cỏ lấp đường”
ng bóng chiu)
90 “Trăng” trong thơ Lư Trọng Lư là vầng trăng thu huyền ảo, trăng của thế giới mộng, mang dấu ấn tâm trạng của thi sĩ. “Trăng” trong thơ ông không còn là trăng của mây trời, sông nước, trăng của tự nhiên nữa mà là trăng của lòng người, của tình người, trăng đã bị nội tâm hóa sâu sắc, nó mang theo những xao động của tâm hồn thi nhân. Không gian sông nước ngập tràn ánh trăng chính là sự cụ thể hóa, hình tượng hóa một khoảnh khắc tâm trạng nào đó nơi hồn thi sĩ. Không gian của ánh trăng không chỉ là không gian của sầu, của buồn mà đôi khi, nó lại là không gian tạo sự mờ ảo, thực hư, lung linh cho một đêm xuân tình lãng mạn: “Trăng lội vẫn mơ màng Trên những vòng tóc rối” (Còn chi nữa) “Trăng” trong thơ Lưu Trọng Lư hình như rất ít khi sáng rõ, mà lúc nào cũng mờ mờ ảo ảo, như một lớp sương mù bao phủ tạo nên một vùng không gian rộng mà như có chút gì cô đơn, quạnh quẽ: “Em không nghe mùa thu Dưới trăng mờ thổn thức?” (Tiếng thu) Ánh trăng “ mờ thổn thức” đã đưa thi sĩ trôi về miền mộng ảo xa xôi. Quách Tấn, qua ánh trăng thi nhân thể hiện tấm lòng tha thiết nhớ thương quê nhà: “Ba ngả sông mờ trăng nửa gương Đôi bờ trúc lả gió muôn phương Rau dòng suối ngọt bên kia núi Khẽ động lòng thu…cỏ lấp đường” (Đọng bóng chiều)
91
Qua không gian ánh trăng, thi gửi gắm được nhiu tâm s, càm xúc
khác nhau. Dưới cái nhìn đa tình của thi nhân, ánh trăng đang lung linh,
màng ri chiếu xung lòng sông:
“Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng”
(Đêm qua nghe qu kêu)
Trong h thng thi liu ca các nhà Thơ mới, h thống ước lệ, tương trưng
của thơ cổ điển không được tôn th na. Các nhà Thơ mới đã sáng tạo ra h
thng thi liu mi theo cái nhìn ch quan của mình. Trong thơ c điển, “gió
chgió, còn Xuân Diu, gió bao nhiêu sắc thái, đó là những “cơn gió
xinh, cơn gió biếc, cơn gió thì thầm”…của s sống tươi nguyên:
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc”
(Vi vàng)
Đó còn là:
“Nhng lung run rẩy rung rinh lá”
(Đây mùa thu tới)
Những cơn gió lnh ca mùa thu chợt đổ v làm cho những cành cây “run
rẩy”. Trong thơ của Xuân Diệu, cũng có những ngn gió vô hình ca thiên nhiên
mà cũng có những ngn gió hu hình ca cm xúc:
“Con đường nh nh, gió xiêu xiêu
L l cành hoang nng tr chiu:
(Thơ duyên)
Đó không còn những làn gió của thiên nhiên, đất tri nữa mà đã trở
thành nhng ngn gió của lòng người trước cnh sc ca mt bui chiu thu.
Lưu Trọng Lư, cùng với ánh trăng mờ bao ph to nên mt không khí thực hư,
91 Qua không gian ánh trăng, thi sĩ gửi gắm được nhiều tâm sự, càm xúc khác nhau. Dưới cái nhìn đa tình của thi nhân, ánh trăng đang lung linh, mơ màng rọi chiếu xuống lòng sông: “Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng” (Đêm qua nghe quạ kêu) Trong hệ thống thi liệu của các nhà Thơ mới, hệ thống ước lệ, tương trưng của thơ cổ điển không được tôn thờ nữa. Các nhà Thơ mới đã sáng tạo ra hệ thống thi liệu mới theo cái nhìn chủ quan của mình. Trong thơ cổ điển, “gió “ chỉ là gió, còn ở Xuân Diệu, gió có bao nhiêu là sắc thái, đó là những “cơn gió xinh, cơn gió biếc, cơn gió thì thầm”…của sự sống tươi nguyên: “Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc” (Vội vàng) Đó còn là: “Những luồng run rẩy rung rinh lá” (Đây mùa thu tới) Những cơn gió lạnh của mùa thu chợt đổ về làm cho những cành cây “run rẩy”. Trong thơ của Xuân Diệu, cũng có những ngọn gió vô hình của thiên nhiên mà cũng có những ngọn gió hữu hình của cảm xúc: “Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu Lả lả cành hoang nắng trở chiều: (Thơ duyên) Đó không còn là những làn gió của thiên nhiên, đất trời nữa mà đã trở thành những ngọn gió của lòng người trước cảnh sắc của một buổi chiều thu. Ở Lưu Trọng Lư, cùng với ánh trăng mờ bao phủ tạo nên một không khí thực hư,
92
mng o những cơn gió nh li to nên nhng âm thanh thật màng
quyến rũ:
“Lá thu rơi xào xạc”
(Tiếng thu)
Quách Tn vẫn được các nhà phê bình xem thi sĩ nặng lòng vi thi ca
c điển. Thơ Quách Tấn qu tht có rt nhiu bài vn mang dáng dp của Đường
thi, Tống thi. Nhưng riêng những bài thơ viết v mùa thu thì hơi thơ cổ đin vn
không lấn át được cách cm nhn, cách nhìn rất cá nhân và đầy sc sáng to ca
thi sĩ trước gió, trăng thu:
Gió rũ canh đi ngàn liễu khóc
Sông đùa lạnh tới bóng trăng run
Thuyn ai tiếng hát bên kia vng
Ghé li cho nhau gi chút buồn”.
(Bên sông)
“Gió rủ canh”,”ngàn liễu khóc”, rồi “sông đùa”, rồi lại “bóng trăng run”,
nhng hình nh ấy dường như chưa bao giờmặt trong thơ ca cổ đin. Tt c
đều rt thc, rt sống động, tươi rói sự sng, gió trăng dường như đang run,
đang khóc trước sông nước ca một đêm thu. Phải cm nhn mùa thu bng
chính đôi mắt và trái tim ca mình mt cách tht sâu lng mi viết được nhng
câu thơ như vậy.
3.2.2. Thi gian chảy trôi đem đến s tàn phai, rơi rụng
Cùng vi không gian, thi gian nghê thuật cũng một hình thc tn ti
ca tác phm. Nó th hin cách cm nhn thi gian của thi nhân, cách nhìn bước
đi thời gian ca ngh sĩ. Lịch s văn học đã cho thấy có nhiu cách chiếm lĩnh
thời gian khác nhau. Trong văn hc trung đại, thời gian đưc nhìn nhn trong
tính chu k, trong s tuần hoàn vĩnh cửu mang tính ước lệ, tượng trưng.
92 mộng ảo là những cơn gió nhẹ lại tạo nên những âm thanh thật mơ màng và quyến rũ: “Lá thu rơi xào xạc” (Tiếng thu) Quách Tấn vẫn được các nhà phê bình xem là thi sĩ nặng lòng với thi ca cổ điển. Thơ Quách Tấn quả thật có rất nhiều bài vẫn mang dáng dấp của Đường thi, Tống thi. Nhưng riêng những bài thơ viết về mùa thu thì hơi thơ cổ điển vẫn không lấn át được cách cảm nhận, cách nhìn rất cá nhân và đầy sức sáng tạo của thi sĩ trước gió, trăng thu: “Gió rũ canh đi ngàn liễu khóc Sông đùa lạnh tới bóng trăng run Thuyền ai tiếng hát bên kia vắng Ghé lại cho nhau gửi chút buồn”. (Bên sông) “Gió rủ canh”,”ngàn liễu khóc”, rồi “sông đùa”, rồi lại “bóng trăng run”, những hình ảnh ấy dường như chưa bao giờ có mặt trong thơ ca cổ điển. Tất cả đều rất thực, rất sống động, tươi rói sự sống, gió trăng dường như đang run, đang khóc trước sông nước của một đêm thu. Phải cảm nhận mùa thu bằng chính đôi mắt và trái tim của mình một cách thật sâu lắng mới viết được những câu thơ như vậy. 3.2.2. Thời gian chảy trôi đem đến sự tàn phai, rơi rụng Cùng với không gian, thời gian nghê thuật cũng là một hình thức tồn tại của tác phẩm. Nó thể hiện cách cảm nhận thời gian của thi nhân, cách nhìn bước đi thời gian của nghệ sĩ. Lịch sử văn học đã cho thấy có nhiều cách chiếm lĩnh thời gian khác nhau. Trong văn học trung đại, thời gian được nhìn nhận trong tính chu kỳ, trong sự tuần hoàn vĩnh cửu và nó mang tính ước lệ, tượng trưng.
93
Thời gian được nói đến thường nhng khong thời gian dài nghìn năm, trăm
năm. Ngược li, thi gian trong Thơ mới luôn trôi chy, vn động không ngng,
không chờ, không đợi và không th đảo ngược.
Phong trào Thơ mới ra đời phát trin trong bi cnh lch s thi
đạimi. Cùng vi s thay đổi cái nhìn v thế giới và con người, các nhà Thơ mới
cũng có sự thay đổi cách cm nhn v thi gian:
Màu thi gian không xanh
Màu thòi gian tím ngt
Hương thời gian không nng
Hương thời gian thanh thanh”.
(Màu thi gian Đoàn Phú Tứ)
Vi các nhà Thơ mới, thi gian không ch là bn mùa xuân, hạ, thu, động,
hoặc năm tháng, phút, giây…mà thời gian hin lên còn bng c màu sắc, hương
sc, thanh sc. Thơ mới đã có s chuyn hóa tun hoàn gia thi gian
không gian mang li mt cm thức không gian. Nhưng về bản các nhà Thơ
mi vn cm nhn thi gian bằng cách đo đếm nó chính xác đến tng phút giây,
thm chí mt phần tư giây:
Nàng hãy vui đi dẫu mt ngày
Du phần ba phút, góc tư giây
Du trong thoáng mắt nhìn như chớp”
(Cu nguyn Nguyn Bính)
Thi gian gn lin vi nhng biến thái trong tâm trng nhân vt tr tình.
Phương thức t chc thi gian trong thơ hết sc mi m và phong phú. Trât t
thi gian nhiu khi b xáo trn, có s giao thoa gia các mng thi gian quá kh
và hin tại…Trong thơ Lưu Trọng Lư, bước đi của thời gian như được hóa thân,
93 Thời gian được nói đến thường là những khoảng thời gian dài nghìn năm, trăm năm. Ngược lại, thời gian trong Thơ mới luôn trôi chảy, vận động không ngừng, không chờ, không đợi và không thể đảo ngược. Phong trào Thơ mới ra đời và phát triển trong bối cảnh lịch sử thời đạimới. Cùng với sự thay đổi cái nhìn về thế giới và con người, các nhà Thơ mới cũng có sự thay đổi cách cảm nhận về thời gian: “Màu thời gian không xanh Màu thòi gian tím ngắt Hương thời gian không nồng Hương thời gian thanh thanh”. (Màu thời gian – Đoàn Phú Tứ) Với các nhà Thơ mới, thời gian không chỉ là bốn mùa xuân, hạ, thu, động, hoặc năm tháng, phút, giây…mà thời gian hiện lên còn bằng cả màu sắc, hương sắc, thanh sắc. Ở Thơ mới đã có sự chuyển hóa tuần hoàn giữa thời gian và không gian mang lại một cảm thức không gian. Nhưng về cơ bản các nhà Thơ mới vẫn cảm nhận thời gian bằng cách đo đếm nó chính xác đến từng phút giây, thậm chí một phần tư giây: “Nàng hãy vui đi dẫu một ngày Dẫu phần ba phút, góc tư giây Dẫu trong thoáng mắt nhìn như chớp” (Cầu nguyện – Nguyễn Bính) Thời gian gắn liền với những biến thái trong tâm trạng nhân vật trữ tình. Phương thức tổ chức thời gian trong thơ hết sức mới mẻ và phong phú. Trât tự thời gian nhiều khi bị xáo trộn, có sự giao thoa giữa các mảng thời gian quá khứ và hiện tại…Trong thơ Lưu Trọng Lư, bước đi của thời gian như được hóa thân,
94
hin hình lên trong nim thn thc nh thương người chinh phu trong lòng
ngưi cô ph:
Em không nghe mùa thu
ới trăng mờ thn thc
Em không nghe ro rc
Hình nh k chinh phu
Trong lòng người cô ph?”
(Tiếng thu)
Thi gian trong Tiếng thu của Lưu Trọng thời gian không đảo
ngưc. nó không bao gi quay li, bi thế mà cùng với bước đi của thi gian ni
lòng của người cô ph càng thn thc, ro rực, mơ về ngưi chinh phu.
Vi Xuân Diệu, bước đi của thi gian mùa thu lại được cm nhn mt
cách tht tinh tế, độc đáo. Thi sĩ đã nhìn thời gian mùa thu trong tng ht dip
lc ca sc thu t màu xanh đang dần chuyển sang màu đỏ để tr thành sc
vàng rơi rụng xuống khu vườn:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh”
(Đây mùa thu tới Xuân Diu)
Tóm li vi cách xây dng thi gian mang tính chất đan cài, đồng hin,
các nhà Thơ mới đã nói được chân thc nht, sâu sc nht ni nim tha thiết ca
lòng mình trước cnh sc mùa thu.
3.3. Đổi mi v th thơ, nhạc điệu, ngôn ng
3.3.1. Th thơ
Với xu hướng đề cao nhng giá tr cũ, các nhà Thơ mới đã xây dựng mt
nền thơ mới trên cơ sở truyn thống thơ ca dân tộc, nhưng với tinh thần đổi mi,
94 hiện hình lên trong niềm thổn thức nhớ thương người chinh phu trong lòng người cô phụ: “Em không nghe mùa thu Dưới trăng mờ thổn thức Em không nghe rạo rực Hình ảnh kẻ chinh phu Trong lòng người cô phụ?” (Tiếng thu) Thời gian trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư là thời gian không đảo ngược. nó không bao giờ quay lại, bởi thế mà cùng với bước đi của thời gian nỗi lòng của người cô phụ càng thổn thức, rạo rực, mơ về người chinh phu. Với Xuân Diệu, bước đi của thời gian mùa thu lại được cảm nhận một cách thật tinh tế, độc đáo. Thi sĩ đã nhìn thời gian mùa thu trong từng hạt diệp lục của sắc thu từ màu xanh đang dần chuyển sang màu đỏ để trở thành sắc lá vàng rơi rụng xuống khu vườn: “Hơn một loài hoa đã rụng cành Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh” (Đây mùa thu tới – Xuân Diệu) Tóm lại với cách xây dựng thời gian mang tính chất đan cài, đồng hiện, các nhà Thơ mới đã nói được chân thực nhất, sâu sắc nhất nỗi niềm tha thiết của lòng mình trước cảnh sắc mùa thu. 3.3. Đổi mới về thể thơ, nhạc điệu, ngôn ngữ 3.3.1. Thể thơ Với xu hướng đề cao những giá trị cũ, các nhà Thơ mới đã xây dựng một nền thơ mới trên cơ sở truyền thống thơ ca dân tộc, nhưng với tinh thần đổi mới,
95
phá v nhng trói buc của thơ cũ, để hồn thơ được bc l mt cách t do,
phóng khoáng theo điệu t nhiên. Cũng như các nhà Thơ mới, Lưu Trọng Lư đã
phá v khuôn kh thi luật thơ cũ để đem lại cho Tiếng thu mt nhịp đập mi,
hòa điệu vi nhp sng ca thời đại. Trong thơ cổ, th ngũ ngôn thưng mi kh
4 dòng và gieo vần chân, đơn vị câu và đơn vị dòng thường trùng khít. Đến vi
Lưu Trọng Lư, khuôn khổ đó đã b phá v.
Bài thơ Tiếng thu bài thơ tiêu biểu cho s cách tân ca th thơ này.
Trong bài thơ, đ gi lên ni buồn man mác, thi sĩ đã khéo ngắt ý thơ, xếp gn
chúng vào những câu thơ năm ch liên tiếp theo kiu nghi vn phù hp vi s
lp láy ý của đoạn thơ, tạo cho bài thơ một cu trúc ni tại đặc sc, nhịp thơ
đưc láy lại như nhịp ca tâm hồn, tưởng như Lưu Trọng đag trải hn mình
trên những trang thơ.
Em không nghe mùa thu
ới trăng mờ thn thc
Em không nghe ro rc
Hình nh k chinh phu
Trong lòng người cô ph
Em không nghe mùa thu
Lá thu kêu xào xc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”.
(Tiếng thu)
Cách gieo vn trong tiếng thu không theo mt quy lut nào cả, đó sự
kết hp hài hòa vn bng trắc để to nên mt bn nhạc du dương, mơ màng,
êm dịu và đầy xao xuyến.
95 phá vỡ những trói buộc của thơ cũ, để hồn thơ được bộc lộ một cách tự do, phóng khoáng theo điệu tự nhiên. Cũng như các nhà Thơ mới, Lưu Trọng Lư đã phá vỡ khuôn khổ thi luật thơ cũ để đem lại cho Tiếng thu một nhịp đập mới, hòa điệu với nhịp sống của thời đại. Trong thơ cổ, thể ngũ ngôn thường mỗi khổ 4 dòng và gieo vần chân, đơn vị câu và đơn vị dòng thường trùng khít. Đến với Lưu Trọng Lư, khuôn khổ đó đã bị phá vỡ. Bài thơ “Tiếng thu” là bài thơ tiêu biểu cho sự cách tân của thể thơ này. Trong bài thơ, để gợi lên nỗi buồn man mác, thi sĩ đã khéo ngắt ý thơ, xếp gọn chúng vào những câu thơ năm chữ liên tiếp theo kiểu nghi vấn phù hợp với sự lặp láy ý của đoạn thơ, tạo cho bài thơ một cấu trúc nội tại đặc sắc, nhịp thơ được láy lại như nhịp của tâm hồn, tưởng như Lưu Trọng Lư đag trải hồn mình trên những trang thơ. “Em không nghe mùa thu Dưới trăng mờ thổn thức Em không nghe rạo rực Hình ảnh kẻ chinh phu Trong lòng người cô phụ Em không nghe mùa thu Lá thu kêu xào xạc Con nai vàng ngơ ngác Đạp trên lá vàng khô”. (Tiếng thu) Cách gieo vần trong tiếng thu không theo một quy luật nào cả, đó là sự kết hợp hài hòa vần bằng và trắc để tạo nên một bản nhạc du dương, mơ màng, êm dịu và đầy xao xuyến.
96
Nhạc điệu trong thơ Quách Tấn rt linh hot, không b bó, áp đặt theo
mt quy lut nào cả. Theo thơ xưa, trong câu thơ thất ngôn, nhịp điệu được ngt
theo nhp 2/2/3 hoặc 4/3 không thay đổi. nhưng câu thơ thất ngôn trong Mùa c
đin ca Quách Tn, nhịp điệu được ngt linh hoạt hơn, đó là nhịp 3/4:
“Đây lòng ta, đó một trời thu”
(Cm thu)
Xuân Diu, ch yếu các th s câu đều đặn, ít bài s câu dài
ngn khác nhau. Nêu th tht ngôn c đin b ràng buc bi nhng niêm lut
cht ch, thì Xuân Diu li rt t do. Bài tht ngôn c đin có nhng gii hn
v s câu thì Xuân Diu th là 4 câu, 8 câu. Cách diễn đạt cũng không bị
ràng buộc vào đề, thc, lun, kết như trong thơ xưa. Tuy nhiên du n ca th
tht ngôn c đin vn còn hn lên th 7 tiếng ca Xuân Diu:
Rng liễu đìu hiu đứng chu tang
Tóc bun buông xung l ngàn hàng
Đây mùa thu tới, mùa thu ti
Với áo mơ phai dệt lá vàng”
(Đây mùa thu tới)
Cách ngt nhịp trong thơ 7 tiếng ca Xuân Diu rt gn vi cách ngt
nhp ca th tht ngôn c điển. Thơ 7 tiếng ca Xuân Diu có cách ngt nhp rt
đa dạng: nhp 4/3; nhp 2/5; nhịp 5/2. Nhưng nhịp ph biến chiếm t l ln
nht là nhp 4/3. Qua phân tích trên cho thy, th 7 tiếng ca Xuân Diu va rt
mi m, lại cũng vừa mang dáng dp ca nhịp thơ cổ điển nhưng hơi thở li
hoàn toàn mi m.
Tóm lại khuynh hướng cách tân ca Xuân Diu v th loi rt mi m,
bên cạnh đó nhà thơ cũng giữ đưc nhng nét rt truyn thng ca dân tc.
Cho nên chúng ta nhn thy Xuân Diu rt mới mà cũng rất truyn thng.
96 Nhạc điệu trong thơ Quách Tấn rất linh hoạt, không bị gò bó, áp đặt theo một quy luật nào cả. Theo thơ xưa, trong câu thơ thất ngôn, nhịp điệu được ngắt theo nhịp 2/2/3 hoặc 4/3 không thay đổi. nhưng câu thơ thất ngôn trong Mùa cổ điển của Quách Tấn, nhịp điệu được ngắt linh hoạt hơn, đó là nhịp 3/4: “Đây lòng ta, đó một trời thu” (Cảm thu) Ở Xuân Diệu, chủ yếu là các thể có số câu đều đặn, ít bài có số câu dài ngắn khác nhau. Nêu ở thể thất ngôn cổ điển bị ràng buộc bởi những niêm luật chặt chẽ, thì ở Xuân Diệu lại rất tự do. Bài thất ngôn cổ điển có những giới hạn về số câu thì ở Xuân Diệu có thể là 4 câu, 8 câu. Cách diễn đạt cũng không bị ràng buộc vào đề, thực, luận, kết như trong thơ xưa. Tuy nhiên dấu ấn của thể thất ngôn cổ điển vẫn còn hằn lên thể 7 tiếng của Xuân Diệu: “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng Đây mùa thu tới, mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng” (Đây mùa thu tới) Cách ngặt nhịp trong thơ 7 tiếng của Xuân Diệu rất gần với cách ngắt nhịp của thể thất ngôn cổ điển. Thơ 7 tiếng của Xuân Diệu có cách ngắt nhịp rất đa dạng: có nhịp 4/3; nhịp 2/5; nhịp 5/2. Nhưng nhịp phổ biến chiếm tỷ lệ lớn nhất là nhịp 4/3. Qua phân tích trên cho thấy, thể 7 tiếng của Xuân Diệu vừa rất mới mẻ, lại cũng vừa mang dáng dấp của nhịp thơ cổ điển nhưng hơi thở lại hoàn toàn mới mẻ. Tóm lại khuynh hướng cách tân của Xuân Diệu về thể loại rất mới mẻ, bên cạnh đó là nhà thơ cũng giữ được những nét rất truyền thống của dân tộc. Cho nên chúng ta nhận thấy Xuân Diệu rất mới mà cũng rất truyền thống.
97
3.3.2. Nhạc điệu thơ
Thơ là lâu đài của nhng âm thanh vang vng mà yếu t đầu tiên to nên
sc ngân vang của lâu đài diệu đó là nhạc điệu. Theo T đin thut ng văn
hc nhạc điệu là “Cu to ng âm ca lời văn nghệ thuật…yếu t hình thái vt
cht to nên nhạc điệu điệu âm, điệu vn vi các hình thức đa dạng ca
chúng: bng, trc, nhịp điệu, niêm, đối, vn, yếu t ng thanh, ng điu. Cái
làm nên hn ca nhạc điệu s liên tưởng ca các t chc âm thanh vi các
cm giác âm nhc (nhy cảm) trong lòng người”[12.199].
Đối vi Thơ mới, câu thơ được gii phóng, do vy nhạc tính đã trở thành
một đặc điểm quan trng. Các nhà Thơ mới đã rất dụng công đưa nhạc vào thơ,
nhc làm nền cho thơ, nhạc hòa âm phi nhp làm nên giọng điệu thơ, ý thơ đi
trong nhạc. Đọc thơ họ, ta bt gp nhng âm vang da diết, nhng thanh âm trùng
đip ngân rung, nhng kiu gieo vn, ngt nhp, nhng la chn trong vic s
dng nguyên âm và ph âm vang…làm cho nhiều bài thơ cứ ngân lên một đoản
khúc giao hưởng v mùa thu.
Ta biết người bun chiều hôm trước
Bây gi mùa h sen n nt
Mt ch hai ch cũng như sen
Khuyên nt em trai dòng l sót.
Ta biết người bun sáng hôm nay:
Trời chưa mùa thu tươi lắm thay,
Em nh ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
( Tng bit hành- Thâm Tâm)
97 3.3.2. Nhạc điệu thơ Thơ là lâu đài của những âm thanh vang vọng mà yếu tố đầu tiên tạo nên sức ngân vang của lâu đài kì diệu đó là nhạc điệu. Theo Từ điển thuật ngữ văn học nhạc điệu là “Cấu tạo ngữ âm của lời văn nghệ thuật…yếu tố hình thái vật chất tạo nên nhạc điệu là điệu âm, điệu vần với các hình thức đa dạng của chúng: bằng, trắc, nhịp điệu, niêm, đối, vần, yếu tố tượng thanh, ngữ điệu. Cái làm nên hồn của nhạc điệu là sự liên tưởng của các tổ chức âm thanh với các cảm giác âm nhạc (nhạy cảm) trong lòng người”[12.199]. Đối với Thơ mới, câu thơ được giải phóng, do vậy nhạc tính đã trở thành một đặc điểm quan trọng. Các nhà Thơ mới đã rất dụng công đưa nhạc vào thơ, nhạc làm nền cho thơ, nhạc hòa âm phối nhịp làm nên giọng điệu thơ, ý thơ đi trong nhạc. Đọc thơ họ, ta bắt gặp những âm vang da diết, những thanh âm trùng điệp ngân rung, những kiểu gieo vần, ngắt nhịp, những lựa chọn trong việc sử dụng nguyên âm và phụ âm vang…làm cho nhiều bài thơ cứ ngân lên một đoản khúc giao hưởng về mùa thu. Ta biết người buồn chiều hôm trước Bây giờ mùa hạ sen nở nốt Một chị hai chị cũng như sen Khuyên nốt em trai dòng lệ sót. Ta biết người buồn sáng hôm nay: Trời chưa mùa thu tươi lắm thay, Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay… ( Tống biệt hành- Thâm Tâm)
98
Trong thơ ca cổ điển thường b bi nhng niêm luật, đối…nên tính nhạc
của thơ cổ đin rt hn chế. V phương diện này, mỗi nhà thơ trong phong to
Thơ mới đều to ra mt nhạc điệu riêng. Nó tr thành điệu tâm hn riêng ca các
thi sĩ. Có được điều đó là kh năng kết hp gia vn và nhp, kh năng nắm bt
đưc s hòa điệu gia âm thanh ngoi gii, với âm điêu của lòng người.
Trong Mộng Ngân Sơn ca Quách Tn, nhạc điệu thơ vang lên tht trm bun,
nh thương:
Chiều động nhánh m côi
Nhìn chim sâu đút mồi
Nh thương tràn gió lạnh
Làng cũ bóng mây trôi”
(Nhánh chiu)
bài Mộng Ngân Sơn, nhạc điệu bài thơ vang lên thật l và tht hay:
c ngm tri long lanh
Con cào cào áo xanh
B cao búng chân nhy
Mây chiều thu rung rinh”
(Mộng Ngân Sơn)
Cách to nhp của bài thơ thật nh nhàng, thanh thoát và cũng thật êm ái,
du dương, thể hin mt tình yêu thiên nhiên rng m ca thi nhân.
Vi Xuân Diu, mt thi sĩ lúc nào cũng khát khao giao cảm với đời, nhc
điu trong lời thơ của ông thường ngân vang mt cách thiết tha, say đắm. Nó th
hin mt âm hồn lúc nào cũng nồng nàn, cũng tha thiết với con người cuc
sng. Kh năng tạo nhạc đc sc nhất trong thơ Xuân Diu còn nm s gieo
98 Trong thơ ca cổ điển thường bị gò bó bởi những niêm luật, đối…nên tính nhạc của thơ cổ điển rất hạn chế. Về phương diện này, mỗi nhà thơ trong phong trào Thơ mới đều tạo ra một nhạc điệu riêng. Nó trở thành điệu tâm hồn riêng của các thi sĩ. Có được điều đó là khả năng kết hợp giữa vần và nhịp, khả năng nắm bắt được sự hòa điệu giữa âm thanh và ngoại giới, với âm điêu của lòng người. Trong Mộng Ngân Sơn của Quách Tấn, nhạc điệu thơ vang lên thật trầm buồn, nhớ thương: “Chiều động nhánh mồ côi Nhìn chim sâu đút mồi Nhớ thương tràn gió lạnh Làng cũ bóng mây trôi” (Nhánh chiều) Ở bài Mộng Ngân Sơn, nhạc điệu bài thơ vang lên thật lạ và thật hay: “Nước ngậm trời long lanh Con cào cào áo xanh Bờ cao búng chân nhảy Mây chiều thu rung rinh” (Mộng Ngân Sơn) Cách tạo nhịp của bài thơ thật nhẹ nhàng, thanh thoát và cũng thật êm ái, du dương, thể hiện một tình yêu thiên nhiên rộng mở của thi nhân. Với Xuân Diệu, một thi sĩ lúc nào cũng khát khao giao cảm với đời, nhạc điệu trong lời thơ của ông thường ngân vang một cách thiết tha, say đắm. Nó thể hiện một âm hồn lúc nào cũng nồng nàn, cũng tha thiết với con người và cuộc sống. Khả năng tạo nhạc đặc sắc nhất trong thơ Xuân Diệu còn nằm ở sự gieo
99
vn. Nhiều câu thơ ca ông do cách dùng t láy ngh thut gieo vần đã làm
cho câu thơ tràn đầy nhc tính:
Chiu mộng hòa thơ trên nhành duyên
Cây me ríu rít cp chim chuyn
Đổ tri xanh ngc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyn”
(Thơ duyên)
Xét v thanh điệu, Xuân Diu dùng vn bng nhiều hơn vần trắc, nhà thơ
đã sử dng các bin pháp lp t, lp câu, tạo nên tính trùng điệp ca nhạc thơ:
Đây mùa thu tới, mùa thu ti
Với áo mơ phai dệt lá vàng”
(Đây mùa thu tới)
Xuân Diệu đã sử dng rng rãi các bin pháp ngh thuật như so sánh, ẩn
d, hoán dụ, đảo ngữ…để tăng cường nhc tính cho lời thơ. n d trong thơ
Xuân Diu bc l qua nhiu hình thức khác nhau như nhân hóa, tượng trưng,
định ng, trng ngữ…Trong đó nhân hóa, tượng trưng được nhà thơ sử dng rt
thành công:
Chc rằng gió cũng đau thương chớ
Gió v ngoài kia thu có nghe”
(Ý thu)
Tóm li nhng n d và nhân hóa trong thơ Xuân Diệu đã làm cho tư duy
cm giác v cnh sc mùa thu của nhà thơ trở nên phong phú và đa dạng hơn .
Nhạc điệu trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư được to bi s kết hp hài
hòa gia vn và nhp. Trong Tiếng thu, âm điệu được ký thác vào mt cu trúc
ngôn t cha chan nhạc tính. Bài thơ là một chnh th nhun nhuyn và cht ch
99 vần. Nhiều câu thơ của ông do cách dùng từ láy và nghệ thuật gieo vần đã làm cho câu thơ tràn đầy nhạc tính: “Chiều mộng hòa thơ trên nhành duyên Cây me ríu rít cặp chim chuyền Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá Thu đến nơi nơi động tiếng huyền” (Thơ duyên) Xét về thanh điệu, Xuân Diệu dùng vần bằng nhiều hơn vần trắc, nhà thơ đã sử dụng các biện pháp lặp từ, lặp câu, tạo nên tính trùng điệp của nhạc thơ: “Đây mùa thu tới, mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng” (Đây mùa thu tới) Xuân Diệu đã sử dụng rộng rãi các biện pháp nghệ thuật như so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, đảo ngữ…để tăng cường nhạc tính cho lời thơ. Ẩn dụ trong thơ Xuân Diệu bộc lộ qua nhiều hình thức khác nhau như nhân hóa, tượng trưng, định ngữ, trạng ngữ…Trong đó nhân hóa, tượng trưng được nhà thơ sử dụng rất thành công: “Chắc rằng gió cũng đau thương chớ Gió vỡ ngoài kia thu có nghe” (Ý thu) Tóm lại những ẩn dụ và nhân hóa trong thơ Xuân Diệu đã làm cho tư duy cảm giác về cảnh sắc mùa thu của nhà thơ trở nên phong phú và đa dạng hơn . Nhạc điệu trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư được tạo bởi sự kết hợp hài hòa giữa vần và nhịp. Trong Tiếng thu, âm điệu được ký thác vào một cấu trúc ngôn từ chứa chan nhạc tính. Bài thơ là một chỉnh thể nhuần nhuyễn và chặt chẽ