Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Mùa thu trong thơ Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư và Quách Tấn
9,258
571
111
80
Qua những tác phẩm viết về mùa thu được trích trong một số tập thơ tiêu
biểu: Mùa cổ điển, Một tấm lòng, Đọng bóng chiều, Mộng Ngân Sơn, Giọt
trăng, ở mỗi tác phẩm Quách Tấn đều thể hiện một ý vị, một vẻ đẹp riêng rất
thâm thúy và nồng nàn. Mỗi khi thưởng thức những tác phẩm ấy, tâm hồn chúng
ta lại trào lên nỗi nhớ thương man mác về quá khứ, về tình người, về tình yêu
quê hương đất nước. Đúng như nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng nhận
xét: “Quách Tấn đã tìm được những lời thơ rung cảm chúng ta một cách thấm
thía. Người đã thoát hẳn cái lối chơi chữ nó vẫn là môn sở trường của nhiều
người trong làng thơ cũ”[38.34]. Sự rạo rực của “hình ảnh kẻ chinh phụ, trong
lòng người cô phụ”. Tại sao hình ảnh kẻ chinh phụ lại rạo rực, điều này chỉ có
những tâm hồn như Lưu Trọng Lư mới cảm nhận được.
81
CHƢƠNG 3
NHỮNG CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT
3.1. Cái tôi trữ tình
Thơ là tiếng lòng, là khoảnh khắc thăng hoa nên cái tôi trữ tình dần dần
nhường bước cho cái tôi bản ngã xuất hiện.Thơ trữ tình là sự thể hiện trực tiếp
những tâm trạng, những cảm xúc và suy tư của cái tôi trước thế giới và con
người bằng những hình thức của nghệ thuật ngôn từ. Nếu như trong đời sống,
mọi hành vi của con người đều là kết quả của sự định hướng chi phối của cái tôi,
thì trong nghệ thuật, tác phẩm với tư cách là sản phẩm của hoạt động sáng tạo
tinh thần cũng là kết quả của cái tôi nghệ sĩ. Do đặc thù từng loại hình nghệ
thuật mà cái tôi nghệ sĩ này bộc lộ trực tiếp hoặc gián tiếp. Trong tác phẩm tự
sự, cái tôi được bộc lộ gián tiếp qua những hình tượng khách quan. Ngược lại,
trong tác phẩm trữ tình nó bộc lộ một cách trực tiếp. Cái tôi trữ tình là một
giá
trị cụ thể của cái tôi nghệ thuật trong thơ.
Cái tôi trữ tình là biểu hiện cao nhất của cá tính sáng tạo trong thơ trữ
tình. Nó mang trong mình bản chất xã hội tâm lý, bản chất tự ý thức. Đồng thời,
cái tôi ấy luôn có nhu cầu tự biểu hiện. Đó là sự bộc lộ chính mình xuất phát từ
nhu cầu tự ý thức về giá trị, về sự tồn tại, về quyền sống của cái tôi gắn với
nhu
cầu xã hội. Từ đó dẫn đến ý thức về sự đồng cảm, được hiểu, tìm sự đồng vọng
trong trái tim người khác. Bởi “Thơ là điệu tâm hồn tìm đến những tâm hồn
đồng điệu” (Tố Hữu).
Một yếu tố không thể thiếu trong thơ là hình tượng cái tôi trữ tình, nó bộc
lộ bản sắc, tâm hồn tiềm năng sáng tạo và khả năng đồng hóa hiện thực của mỗi
nhà thơ. Mỗi nhà thơ lớn đều có cái tôi trữ tình độc đáo, đa dạng và phong phú,
in đậm những dấu ấn riêng và làm nên bản sắc đa dạng trong từng nền thơ các
82
dân tộc. Và hình tượng cái tôi trữ tình này chỉ hình thành khi nhà thơ có một
quan niệm nghệ thuật độc đáo, một cái nhìn riêng về cuộc đời.
Trong luận văn này, người viết nghiên cứu hình tượng cái tôi ở cấp độ
nhà thơ trong những sáng tác tiêu biểu. Với cấp độ này, hình tượng cái tôi là
một
kiểu nhân vật đặc biệt trong tác phẩm văn học.Tuy nhiên, nó không hoàn toàn
đồng nhất với con người tác giả mà hình tượng cái tôi là kết quả của sự điển
hình hóa nghệ thuật. ở đó con người cá nhân nhà thơ đã nghe thấy mình, cảm
thấy mình ở trong người khác, với người khác và cho người khác.
Trong thơ cổ điển, chưa có quan niệm con người cá nhân, mà con người
chỉ được xem như một phần trong vạn vật nhất thể của vũ trụ. Con người xuất
hiện trong thơ chủ yếu trong tư thế đó. Con người chưa có cái tôi cá thể, mà
chìm lẫn vào vũ trụ. Đây đó ta gặp một lữ khách thấp thoáng trên đường, hoặc
một ai đó đang tựa gối ôm cần nơi ao thu lạnh lẽo:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được”
(Thu điếu- Nguyễn Khuyến)
Con người luôn tương thông với vạn vật, đôi khi cũng ước ao trở thành
vạn vật:
“Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo”
(Cây thông – Nguyễn Công Trứ)
Đến với thơ ca lãng mạn, ý thức về con người cá nhân phát triển hơn bao
giờ hết. con người trở thành trung tâm của vũ trụ, trở thành chủ đề của vũ trụ.
Trong thơ trung đại, con người lẫn vào hoa cỏ, núi non, con người là một phần
bé nhỏ trong thực thể vũ trụ rộng mênh mông. Đến với Thơ mới, chúng ta bắt
gặp sự phong phú, phức tạp của thế giới tâm hồn thi nhân, khi họ chân thành,
cởi mở lòng mình. Cái tôi trữ tình cá nhân đã xưng danh và biểu hiện mình một
83
cách trực tiếp đầy tự tin qua đại từ “tôi” và tư ý thức mình dưới hình thức cởi
mở, mang tính chất tự thú, tự ngắm và tự nghiệm. Nó đề cao trạng thái và địa vị
cái tôi cá nhân:
“Ta là Một, là Riêng, là thứ Nhất
Khôn có chi bè bạn nổi củng ta”.
(Hy Mã Lạp Sơn- Xuân Diệu)
Hay:
“Và đêm nay lòng tôi lạnh lẽo
Như sáng trăng trên mặt nước thu lờ”.
(Thở than – Xuân Diệu)
Cái tôi trữ tình cá thể là trung tâm cảm hứng giãi bày, thổ lộ, tự biểu hiện
mình một cách trực tiếp bằng trạng thái thể chất giao hòa nhuần nhụy giữa con
người và ngoại vật. Có thể nói thơ ca lãng mạn chính là cuốn nhật ký tràn đầy
cảm xúc của tâm hồn người.
Hình tượng cái tôi trữ tình trong Thơ mới là tiếng nói của những cảm xúc
mới trước một thời đại mới. Các nhà thơ mới đến với thế giới lung linh kì ảo để
khẳng định cái tôi tự do, cái tôi được thực sự là mình trong thời đại mới. Nếu
Xuân Diệu đam mê say đắm trong cảnh sắc thiên nhiên, trong khu vườn tình ái
thì Lưu Trọng Lư coi tình yêu, hạnh phúc chỉ là một chùm nguyện, một chùm
mơ, dệt lên cho mình một cõi mộng hư ảo, mờ sương khói. Thơ Lưu Trọng Lư
là cả tấm lòng thổn thức của con người mơ mộng lúc nào cũng nặng lòng yêu
dấu. Đến với Quách Tấn, chúng ta lại đến với sự cân đối trong cảnh và tình.
Cái tôi trong Quách Tấn chính là tiếng tơ lòng, là tâm tình riêng chân thực
và cảm động của thi sĩ muốn gửi gấm tấm lòng mình vào thiên cổ, ký thác nỗi
niềm tâm sự của chính tác già. Cái tôi trong thơ ông với tư cách là con người cá
nhân bộc lộ cảm xúc từ đáy lòng mình:
84
“Gầy úa rừng sương đeo giọt sầu
Đây lòng ta đó một trời thu”
(Cảm thu)
Câu thơ thể hiện khát vọng nhớ thương da diết của chủ thể trữ tình. Trong văn
chương lãng mạn nói chung, sầu và buồn được coi là nguồn cảm hứng lớn. Bởi
ngay từ khi sinh ra, các nhà thơ mới đã nhận thấy mình như: “Con nai vàng bị
chiều đánh lưới. Chẳng biết đi đầu đứng sầu bóng tối”
(Xuân Diệu)
Có lẽ vì thế mà Thơ mới vừa cất tiếng chào đời đã buồn từ ngay trong bản
chất. Và cái sầu ấy đã trở thành lý tưởng thẩm mĩ của các nhà thơ lãng mạn. Nếu
cái buồn của Xuân Diệu là sự trống trải, cô đơn đến hiu hắt khi thời gian không
ngừng lại, tình yêu chẳng đợi chờ thì nỗi buồn trong thơ Lưu Trọng Lư chỉ là
nỗi sầu mộng, vấn vương, tê tái:
“Chim không hạ cánh
Lá rụng không buồn bay
Những chiều thu, em không buồn tựa cửa”
(Lòng cô phụ - Lưu Trọng Lư)
Có lẽ là cái sầu nhẹ nhàng, vấn vương, tê tái của Lưu Trọng Lư là cái
chớm sầu của Thơ mới.
Hình tượng cái tôi trữ tình trong Thơ mới là cái tôi trữ tình tinh tế, nhạy
cảm với khả năng nắm bắt những khoảnh khắc, tâm trạng, những cảm xúc mơ
màng không xác định, những biến thái tinh vi của con người và tạo vật. Bằng sự
tinh tế và nhạy cảm, Xuân Diệu không chỉ nghe được:
“ Rét mướt luồn trong gió”
( Đây mùa thu tới)
85
hay:
Cành biếc run run chân ý nhi”
(Thu – Xuân Diệu
Mà còn thấy cả: “Con cò trên ruộng cánh phân vân”
(Thơ duyên – Xuân Diệu)
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh nhận xét rằng so với cánh cò của Vương Bột
thì cánh cò của Xuân Diệu: “có sự cách biệt của hơn một nghìn năm và hai thế
giới”[38.118]. Đúng như vậy, đó là hai thế giới, một thế giới lặng lẽ bình an và
một thế giới luôn gấp gáp, vội vàng.
Trong buổi chiều thu bát ngát, mây trôi lững lờ, thi sĩ Quách Tấn thấy
được trạng thái co ro của cánh cò:
“Co ro thân cò lép
Bến lạnh đứng rình mồi
Bát ngát dòng thu nguyện
Mây chiều lững lờ trôi.
Nắng chiều thu trở lạnh
Buồn vương ngọn heo may
Lặng lẽ hồ in bóng
Con cò đơn chiếc bay”.
(Mộng Ngân Sơn)
Hình ảnh thân cò co ro nơi bến lạnh kiếm tìm mồi thật xúc động lòng
người biết bao, chiều thu đã trở lạnh mà cò vẫn một thân một mình lặn lội đi
kiếm mồi. Phải là người yêu thiên nhiên và cảnh vật tha thiết lắm, thi nhân mới
có được những phát hiện tinh tế đến như vậy.
86
Từ xưa đến nay, có lẽ Lưu Trọng Lư là người đầu tiên và cũng là người
duy nhất nghe được tiếng trăng mờ. Không chỉ nghe được tiếng trăng mờ mà thi
nhân còn nghe được cả tiếng thổn thức:
“Tiếng trăng mờ thổn thức”
(Tiếng thu)
Chính sự thổn thức của ánh trăng ấy đã tạo nên không gian hư ảo huyền diệu
như có như không, bao phủ khắp mùa thu. Không chỉ dừng lại ở đó, thi nhân còn
thấy được sự rạo ó thể cảm nhận được.
Tóm lại sự phát triển của cái tôi trữ tình ở các nhà thơ mới đã diễn ra trên
từng cung bậc, từng trạng thái với nhiề u khía cạnh, bình diện khác nhau. Sự vận
động ấy góp phần thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nền thơ ca Việt Nam.
3.2 Không gian và thời gian nghệ thuật
3.2.1 Ánh trăng thu và gió thu
Không gian nghệ thuật là môi trường hoạt động của hình tượng, là hình
thức bên trong của hình tượng thể hiện tính chỉnh thể của nó. Không gian nghệ
thuật không đồng nhất với không gian hiện thực vốn tồn tại khách quan, mà trở
thành một ký hiệu đặc biệt để giới thiệu những phạm trù ngoài không gian.
Không gian nghệ thuật có thể là không gian thiên nhiên hay không gian sinh
hoạt, không gian này lưôn gắn liền với tâm lý, tình cảm, ước mơ, khát vọng của
con người. không gian nghệ thuật gắn với sự cảm nhận về không gian nên mang
tính khách quan, ngoài không gian vật thể còn có không gian tâm tưởng.
“Không gian nghệ thuật chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của tác
phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng trưng mà còn cho thấy quan niệm về thế
giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ
sở khách quan để khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các
hiện tượng nghệ thuật”[12.49].
87
Không phải đến khi văn học viết hình thành và phát triển, chúng ta mới có
không gian nghệ thuật mà ngay từ xưa, con người trong ca dao đã có một không
gian nghệ thuật riêng gắn với cây đa, bến nước, sân đình…Đó là khoảng không
gian hết sức gần gũi, quen thuộc và không kém phần thơ mộng.
Trong thơ ca trung đại, không gian lại mang dáng vẻ trầm u, nhàn dật
vắng vẻ. Đó là không gian vũ trụ vô tận, vô cùng mà trần thế chỉ là một phần rất
nhỏ. Ở đó có núi cao, suối vắng, mây ngàn, cánh hạc…Trong khung cảnh rộng
lớn ấy, con người chỉ là một chấm nhỏ đơn độc, chìm trong suy tư. Tuy rằng,
không gian thơ đã được mở rộng, nhưng ngòi bút của thời kỳ trung đại vẫn chưa
thoát khỏi lối ước lệ, tượng trưng. Đó là sản phẩm của ý thức hệ phong kiến, các
tác giả sáng tác theo một quy ước chung, ít có sự phá vỡ thi pháp.
Khi phong trào Thơ mới ra đời, ý thức về cái tôi trong bản thân mỗi nhà
thơ trỗi dậy thì tất cả đã đổi khác. Mỗi nhà thơ với sự mong muốn, bộc lộ chân
thật nhất cái tôi trữ tình của mình, với khát vọng vận động, vượt thoát khỏi
những ước lệ, tượng trưng để chuyển dịch đến một không gian mới. Không gian
mới ấy bao gồm cả không gian nội tâm và không gian ngoại cảnh. Tất cả đều
thoáng, rộng, tự do, đầy hương vị và đa sắc màu. Họ đã biến không gian sơn
thủy, có hoa hữu tình trong thơ cổ thành một không gian rời rạc, hững hờ, lạnh
lẽo. Biến mỗi cá nhân thành một vũ trụ riêng tư đầy bí mật, biến cái không gian
mang ẩn ý thanh cao thành không gian trần thế gần gũi. Rõ ràng không gian
nghệ thuật là phương diện rất quan trọng của tư duy nghệ thuật, đánh dấu trình
độ chiếm lĩnh thế giới của nhà thơ.
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy không gian trong thơ Xuân Diệu, Lưu
Trọng Lư, Quách Tấn có ánh trăng thu, gió thu, xuất hiện khá nhiều. Đó thực sự
trở thành tính hiệu, ẩn ý nghệ thuật cùa thi nhân. Xem xét những tín hiệu ấy,
tuy
chưa hoàn toàn nói lên được tất cả nhưng cũng phần nào mô phỏng được chiều
kích của không gian thơ trong Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư và Quách Tấn.
88
Trăng không phải là một không gian lúc nào cũng có hình hài cụ thể,
nhưng nó lại lan tỏa và xuyên thấm vào tất cả mọi cảnh vật, với ánh sáng
bao trùm ở diện rộng đã tạo nên một không gian mơ hồ, mộng ảo. Hình tượng
ánh trăng vừa thể hiện không gian thiên nhiên thơ mộng, đồng thời là nơi gửi
gắm những nỗi niềm ưu tư của thi nhân trước một thời đại. theo khảo sát của
chúng tôi, trăng xuất hiện khá nhiều trong tất cả những tác phẩm của ba nhà thơ
Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư và Quách Tấn.
Trước tiên, “trăng” trong thơ Xuân Diệu tượng trưng cho vẻ đẹp bất tận
của thiên nhiên:
“Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây
Để linh hồn ràng buộc với muôn dây
Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến”.
(Cảm xúc)
Ở Xuân Diệu, lòng ham sống được bộc lộ một cách tha thiết, cuồng nhiệt.
Thi nhân ước được “ru với gió”, được “mơ theo trăng”, được “vơ vẩn cùng
mây”, được “ràng buộc với muôn dây”, được “chia sẻ với trăm tình yêu mến”…
“Trăng” trong thơ Xuân Diệu còn là “nàng trăng” thu thơ mộng:
“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ”.
(Đây mùa thu tới)
“Nàng trăng” thật gần gũi và ấm áp biết bao, có lẽ cách gọi này chỉ có ở
Xuân Diệu. “Trăng” ở đây không phải là ánh trăng vô tri nữa, mà qua cách gọi
của thi nhân, trăng lại “ngẩn ngơ”. “Trăng” chính là hình ảnh của người thiếu nữ
trẻ trung, xinh tươi , dịu dàng và thơ mộng.
89
Ở Nguyệt cầm thi nhân mở ra một không gian rất đặc trưng cho thế giới
tĩnh mịch, băng giá. Hình tượng thế giới này gắn với đêm trăng và “trăng”, trong
thơ ông dường như không nhạt, không mờ mà lúc nào cũng “tròn đầy”, “rạng
tỏ”:
“Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần”.
(Nguyệt cầm)
Phải chăng, trăng ấy cũng phản ánh một âm hồn không bao giờ thích nhợt
nhạt, bằng phẳng? Ánh nguyệt sáng lạnh càng soi tỏ tường tận hơn nỗi lạnh
buốt, trống trãi trong cõi lòng cô đơn. Sự tương phản này đã tạo nên không gian
trăng “buồn tuyệt diệu” trong thơ Xuân Diệu. Bởi:
“Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá”
(Trăng)
Có lúc trăng ngà sáng lạnh, buông khắp không gian vô cùng, vô tận. Cả
thế giới vũ trụ lặng lẽ, trống vắng một cách tuyệt đối trong ánh trăng trong
suốt:
“Khắp biển trời xanh, chẳng bến trời
Mắt nhìn thêm rợn ánh khơi vơi
Trăng ngà lặng lẽ như buông tuyết
Trong suốt không gian tĩnh mịch đời”.
(Buồn trăng)
Không gian trăng bát ngát này càng mênh mang thương nhớ, trở nên lung
linh bởi đang ngưng đọng tiếng đàn. Không gian trăng cũng là không gian nhạc,
sự hòa quyện giữa tiếng đàn và ánh trăng qua tâm hồn thi nhân thật huyền
nhiệm.