Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Mùa thu trong thơ Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư và Quách Tấn
9,205
571
111
50
thi nhân đã đón nhận được trong cái không gian, thời gian của buổi chiều thu thơ
mộng, những nỗi niềm giao cảm, những tình ý vấn vương, hòa nhịp với những
rung động của lòng người :
“Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu”
( Thơ duyên )
“Lòng ta nghe ý bạn” là một tình cảm được diễn đạt ngầm, là sự cảm
thông giữa hai tâm hồn. Đây là cái rung động của thủa ban đầu, có một vẻ êm
dịu và mơ màng, trong sáng.Trong không gian, thời gian thơ mộng như thế, sự
hợp duyên giữa từng cặp hình ảnh của thiên nhiên đã xui khiến lòng người tìm
đến với lòng người. Bản nhạc của thiên nhiên cũng chìm lắng đi, để bước chân
của anh và của em trở thành đối tượng quan sát chính :
“Em bước điềm nhiên không vướng chân
Anh đi lững đững chẳng theo gần
Vô tâm nhưng giữa bài thơ dịu
Anh với em như một cặp vần”.
( Thơ duyên )
Khổ thơ mở ra một khoảng không gian bằng lặng và rộng rãi. Giữa “bài
thơ dịu” của cảnh chiều thu, trên con đường chiều thu thơ mộng, hai người đang
dạo những bước chân điềm nhiên kia, vẫn có một mối tương giao thầm kín, tạo
bên sự hòa nhịp sóng đôi “như một cặp vần” của bài thơ đẹp . Với bước chân
lãng đãng, phiêu du thi nhân đã đưa chúng ta trở về với buổi chiều thu êm ru
như “một bài thơ dịu”, mà “anh với em như một cặp vần”. Chiều xuống dần,
mọi vật càng chuyển động gấp gáp, thi nhân thì lắng nghe những rung động của
lòng mình :
51
“Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cảnh phân vân
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh
Hoa lạnh, chiều thưa sương xuống dần”.
( Thơ duyên )
Cảnh chiều thu chuyển dần theo thời gian, đó là thời khắc của hoàng hôn.
Một làn mây biếc, một cánh cò trên ruộng lúa đều thấm lạnh những bông hoa
trong cái nắng nhạt của lúc chiều muộn. Đó là những hình ảnh quen thuộc trong
thơ cổ điển phương Đông. Bốn câu thơ gợi lên âm hưởng của đường thi. Trạng
thái “phân vân” của cánh cò cũng như cái “gấp gáp” của làn mây biếc là một
nét tâm trạng rất riêng biệt, điển hình của Thơ mới mà chúng ta chưa gặp trong
thơ cổ. Trong thơ cổ, dù buồn vui hay đau đớn thì con người trữ tình vẫn giữ
cách biểu hiện trẩm tĩnh, ung dung và thường lặng lẽ, những tâm trạng mang
tính “phi thời gian” của con người đã hòa nhập với cái vô tận của vũ trụ và vĩnh
hằng của thời gian. Nhưng phải đến Thơ mới, mới có tâm trạng bâng khuâng
như thơ Huy Cận, hay cái rùng mình, run rẩy trong thơ Xuân Diệu. Cái “phân
vân” của cánh cò, cái “gấp gấp” vội vã của làn mây là biểu hiện của cái “tôi” ý
thức rõ rệt về thời gain va sự hữu hạn của con ngườ, của đời người. Đó là sự
tương giao của cảnh vật trong khung cảnh hoàng hôn, cái gấp gấp của làn mây
với dáng phân vân, lưỡng lự của cánh cò trên ruộng, cái rộng dài của không gian
qua những cánh chim dang rộng và chiều sâu của buổi chiền qua cái lạnh của
sương thu thấm vào những cánh hoa.
Thơ duyên bài thơ duy nhất không buồn trong bài thơ về mùa thu của
Xuân Diệu. Đó là những rung động xôn xao, những xúc cảm tinh tế đón nhận
những biến thái tinh vi, mơ hồ của sự sống trong thiên nhiên tạo vật và lòng
người trong lúc giao mùa vào thu. “Thơ duyên” thể hiện sự cảm nhận độc đáo,
52
tinh tế của Xuân Diệu về mùa thu. Sự cảm nhận này cũng đã được Xuân Diệu
thể hiện trong một bài văn xuôi đặc sắc ở tập Trường Ca: “Với lòng tôi, trời đâu
chỉ có hai mùa : xuân với thu hai mùa có bình minh…Hè sang thu là bao nhiêu
khoái trá cho giác quan; được rời bỏ lứa chói chang mà vào trong nước hiền
hòa mát mẻ…Sự sống trong mùa, xuân tưng bừng ra ngoài, thì giữa mùa thu, sự
sống lại tiềm tiềm lặn vào bên trong, sắp sẵn lò sưởi ở giữa ngực…
Thu không phải là mùa sầu. Ấy chính kà mùa yêu, mùa yêu nhau bằng
linh hồn, mùa những linh hồn yêu mến nhau...Xuân, người ta vì ấm mà cần tình.
Thu người ta vì lạnh sắp đến mà cũng cần đôi” [10.23]
Đó là khung cảnh chiều thu đầy thơ mộng mà cảnh vật hòa điệu nhịp
nhàng, đã khơi dậy trong lòng người niềm khát khao, giao cảm thầm kín mà
mạnh mẽ, gắn bó những tâm hồn đơn chiếc :
“Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy
Lòng anh thôi đã cưới lòng em”.
( Thơ duyên )
Cảnh sắc thiên nhiên ở đây có khả năng đánh thức dậy trong tâm linh con
người những kỉ niệm, những khát khao thầm kín để con người được sống đầy đủ
và sâu sắc hơn với mọi cảm giác, cảm xúc và khár vọng của mình. Đó là tiếng ca
vui của một tâm hồn “lần đầu rung động nỗi thương yêu” đang đắm say trong
hạnh phúc .
Thơ duyên đã ru ta vào một không khí vô cùng trong trẻo và êm ái,
vào một buổi chiều thu ngân nga bao tiếng huyền hòa duyên cùng lòng yêu cuộc
sống, cùng những rung động tinh vi cùa thi sĩ Xuân Diệu. Tác giả Thi nhân Việt
Nam thật tinh tế khi nhận xét rằng : “sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã phát
biểu
ra đềy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi” và khẳng định “đây mới là Xuân
Diệu” [11.63]. Có những rung động tinh vi ấy, bởi nhà thơ luôn nhìn đời bằng đôi
53
mắt ngở ngàng và cảm nhận thiên nhiên bằng cả tâm hồn, bằng cả cơ thể vô cùng
nhạy bén. Nghe đàn dưới trăng thu, có lẽ chỉ Xuân Diệu mới thấy:
“ Lung linh sáng bỗng rùng ,mìnhh”
( Nguyệt cầm )
Và nhà thơ cảm nhận :
“Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ người
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người!”.
( Nguyệt cầm )
Chỉ có thể viết nên những dòng thơ như thế khi nhà thơ thực sự sống
trong thế giới của mọi sự u huyềnn, khi không chỉ có một trái tim mà còn có cả
một linh hồn. Âm thanh của nguyệt cầm, cái lạnh mát rợn của làn da… cái lạnh
sắc cuộn trong lòng. Từ “long lanh” chì màu sắc, lại được sử dụng tái tạo thanh
âm. Dường như nổi tiếng đàn đều trong vắt và đều lấp lánh, sóng sánh ánh trăng.
Phải chăng tiếng sói vốn đã trong, đã ngân, dưới trăng thu sáng lạnh nên nó
“long lanh”. Đó là không gian cao rộng, bát ngát âm thanh, trong suốt ánh sáng
và ngưng đọng trong niềm cô tịch tuyệt đối. Sự hòa nhập giữa không gian trăng
và không gian nhạc trong đêm thu lạnh ngắt đã tạo nên một thế giới sâu thăm
thẳm với một linh hồn run rẩy. Nghe tiếng đàn dưới trăng thu, Xuân Diệu thấy :
“Mây vắng, trời trong đêm thủy tinh
Linh lung bóng sáng bỗng rung mình
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh”.
( Nguyệt cầm )
54
Trong đêm thu lạnh ngắt với “một vầng trăng trong vắt lòng sông”, năm
nào trên bến Tầm Dương từng nỉ non tiếng tì bà than tiếc cho một thân phận lỡ
làng. Cung đàn kể chọn một cuộc đời tài hoa nhưng duyên phận hẩm hiu. Phải
chăng người đang phổ mình vào cung đàn nguyệt đêm nay cũng mang tâm trạng
ấy ? Dường như cái lạnh nơi lạnh nơi không gian thu, nơi tiếng đàn đang ngấm
vào tận sâu thẳm cõi lòng ngưởi.
Xuân Diệu đã hòa nhập linh hồn vào trăng và nhạc, trong đêm thu, nhà
thơ đã cảm nhận rõ nỗi cô đơn của cái tôi cá nhân. Nhân vật trữ tình trong
Nguyệt cầm mang bóng dáng của một tầng lớp, một thời đại. Giữa con người cá
nhân của thơ ca lãng mạn với thế giới thiên nhiên không chỉ trường sinh, tương
thông mà tương phản :
“Bốn bề ánh nhạc, biển pha lê
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao khuê”.
( Nguyệt cầm )
“Chiếc đảo hồn tôi”, xuất hiện như một ẩn dụ, nó thật nhỏ bé và cũng thật
mạnh mẽ khi nỗi sầu buồn từ đó dâng đến tận Khuê. Không gian đêm thu trong
suốt như pha lê, lung linh ánh nhạc đã giúp cho nỗi buồn ấy được ngưng kết và
lên cao vời vợi. Một cái tôi hòa nhập cả linh hồn vào chiều sâu huyền bí của thế
giới vũ trị nhưng vẫn cảm thấy cô đơn giữa cõi đời.
Nghe tiếng đàn trên sông nước dưới đêm trăng thu là một thứ thơ cổ điển
phương Đông mang màu sắc trang trọng. Xuân Diệu đã thổi vào Nguyệt cầm cái
cảm giác tinh vi, nỗi buồn cô đơn buốt lạnh của một tâm hồn tiếp xúc với văn
hóa hiện đại phương Tây. Nỗi buồn trong suốt, trang trọng ở Nguyệt cầm là kết
quả của sự giao hòa giữa cổ điển và hiện đại, phương Đông và phương Tây.
55
Xuân Diệu đắm say đấy, thiết tha yêu cuộc sống đấy nhưng lại rất băn
khoăn. Nhà thơ đã náo nức đón chào mùa thu, nhưng rồi cảm giác vui mừng ấy
cũng tan biến đi, khi thời gian làm bằng bước đếm vội vàng làm lòng người tê
tái, khi còn lại đây chỉ là mùa đông băng giá thê lương với những cuộc chia ly,
với con người như biết nói trước cảnh vật :
“Mây vẫn từng không chom bay đi
Khi trời u uất hận chia ly”
( Đây mùa thu tới )
Cả một không gian bao la giờ này đã thấm đẫm nỗi buồn của lòng người,
cảnh vật mùa thu mang nhiều hình ảnh của sự chia ly, cách xa, những cánh chim
bay về những quê ấm áp
Với Xuân Diệu, lần đầu tiên trong thơ ca, con người trở thành trung tâm
của vũ trụ, con người là chủ nhân của vũ trụ. Ở Xuân Diệu kết thúc nhân vật là
người thiếu nữ :
“Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”.
( Đây mùa thu tới )
Trong buổi chiều thu, người thiếu nữ thẫn thờ tựa cửa với đôi mắt xa xăm
buồn, như đắm mình trong buổi chiều thu mơ màng. Đó là câu hỏi tu từ không
lời đáp, là kết thúc bỏ ngỏ để cho người đọc tự cảm nhận và tự suy nghĩ. Đôi
mắt xa xăm ấy của người thiếu nữ chứa trong đó là những ánh hào quang của hy
vọng, của mộng mơ và của tình yêu đôi lứa. môy trong những bước tiến vượt
bậc của Xuân Diệu chính là chỗ xác định con người là chủ thể của vũ trụ, con
người là mẫu mực của cái đẹp, là sinh thể đẹp nhất của trái đất ở trên trần gian
này. Ngược lại, văn học trung đại không bao giờ bộc lộ ước muốn của mình như
thế này. Đó là những nốt nhạc xao xuyến, đang hướng ra cuộc đời để đón nhận
56
tình yêu của cuộc đời, sưởi ấm trái tim mình. Qua đó chúng ta thấy nhân vật
trong mùa thu của Xuân Diệu là con người đang hi vọng, đang mộng mơ .
Đó là tâm trạng của những lớp người chưa xác định được hướng đi. Trong
niềm băn khoăn ấy, lời thơ ấy vẫn sống mãi, vẫn thiết tha và rạo rực, có buồn
chăng cũng chỉ là nhà thơ của chúng ta mang tâm trạng cô đơn và bất lực trước
cuộc đời. Xuân Diệu đã đem lại một cách cảm thụ mới mẻ, chịu ảnh hưởng của
phương Tây trong cách nhìn mùa thu, cá thể hóa tâm trạng vào cái riêng tư đến
mức gần như tuyệt đối
Về mặt thời gian, Xuân Diệu sống với thi ca, tạo nên một bầu trời thu đầy
phong sắc, chứa chan cảm xúc với cảnh và người. Nhưng điều để Xuân Diệu tự
khẳng định mình và để cho thơ ông không lẫn với bất kỳ nhà thơ nào khác,
Xuân Diệu cũng đem thiên nhiên vào trong thơ mình, nhưng trong thơ ông
không đơn thuần là thiên nhiên hồn nhiên cảu đất trời. Mà Xuân Diệu đã đổi
mới cách nhìn, cách cảm nhận về thiên nhiên. Ông đã thổi hồn mình vào thiên
nhiên mùa thu tạo nên sức sống làm tràn đầy sức sống của con người. Đồng thời
Xuân Diệu lấy vẻ đẹp của con người để so sánh với vẻ đẹp cảu thiên nhiên. Đến
với Xuân Diệu, chúng ta bắt gặp một cái tôi đam mê mãnh liệt với thiên nhiên
và với cuộc sống. Trong các nhà Thơ mới, Xuân Diệu là người diễn tả sự đam
mê nổi trộ nhất. Không phải ngẫu nhiên mà Xuân Diệu hay tả mùa thu và trong
thơ ông mùa thu luôn ngập tràn ánh sáng, ríu rít thanh âm. Đồng thời là tâm
trạng cô đơn với một bầu tâm sự mà nhà thơ đã gửi gắm qua những tác phẩm
của mình .
Qua những tác phẩm về mùa thu trong thơ Xuân Diệu, chúng ta thấy rõ sự
cách tân trong cách dùng từ, kết hợp từ. Vì vậy lời thơ của Xuân Diệu vừa diễn
tả đầy đủ mọi cung bậc tình cảm phong phú, phức tạp của cái tôi cá nhân luôn
hấp dẫn, gần gũi với tâm hồn người Việt Nam. Trên con đường hình thành và
phát triển Thơ mới lãng mạn Việt Nam, Xuân Diệu chiếm một vị trí hết sức nổi
57
bật. Với những tác phẩm về mùa thu, Xuân Diệu đã đánh dấu giai đoạn rực rỡ
nhất của trào lưu thơ ca lãng mạn
(1932-1945)
2.2. Mùa thu trong thơ Lƣu Trọng Lƣ
Lưu Trọng Lư ( 1912 -1991 ) là một nghệ sĩ đa tài. Ông làm thơ, viết tiểu
thuyết, ký sự, hồi ký văn học, kịch nói, kịch thơ, tranh luận văn học…Ở lĩnh vực
nào, ông cũng có những đóng góp đáng quý, để lại trong lòng bạn đọc nhiều dấu
ấn khó phai mờ. Trong văn nghiệp của ông, thơ là kết tinh đặc sắc nhát và là
đóng góp nổi bật nhất. Nói đến thơ hiện đại Việt Nam, người yêu thơ không thể
không nhắc đến Lưu Trọng Lư, một trong những người có ông đầu trong cuộc
đấu tranh cho sự chiến thắng của Thơ mới. Người thi sĩ tài hoa, tác giả của tập
Tiếng thu bất hủ, từng làm thổn thức trái tim bao thế hệ công chúng. Thành thật
và tài hoa, nhạy cảm và tinh tế về âm thanh, nhạc điệu, Lưu Trọng Lư đã tạo
được tâm hồn riêng, góp một tiếng thơ độc đáo giàu sức cuốn hút cho phong
trài Thơ mới .
Đã có bao nhiêu nhà thơ xưa nay tìm cảm hứng ở mùa thu, và chúng ta
nghĩ rằng sẽ không có gì để nói thêm. Nhưng đến lượt mình, Lưu Trọng Lư vẫn
tìm được cách diện tả độc đáo, đầy ấn tượng. Cách mạng tháng Tám thành công,
đã khơi dậy và thức tinh những khát kháo chân chính trong tâm hồn thi sĩ Lưu
Trọng Lư. Tập thơ Tiếng thu ( 1939 ) là tập thơ đầu tay và cũng là những thanh
âm huyền diệu nhất, lôi cuốn và có sức ngân vang nhất của đời thơ Lưu Trọng
Lư . Tập thơ đã khẳng định tài thơ xuất sắc của Lưu Trọng Lư, góp phần vào sự
chiến thắng của Thơ mới đối với thơ cũ .
Trong tập Tiếng thu, “mộng” có thể coi là một nét phong cách đặc
trưng của Lưu Trọng Lư. Phong cách đó đã tạo nên trong Tiếng thu một hồn
thơ đắm say, mơ màng. Với những giấc mộng đẹp, với những âm điệu du
dương, trong tập Tiếng thu dù nhiều bài thơ không trực tiếp nói đến mùa thu
58
nhưng cái bảng lảng, mơ hổ của hơi thu vẫn lan tỏa dịu dàng. Nó ngập tràn
lòng ta, không lấn át mà nhẹ nhàng, xuyến thấm. Vũ Ngọc Phan đã lí giải :
“Đã sống nhiều trong cuộc đời tư tưởng, thì đầu mùa đông hay mùa xuân,
mùa thu hay mùa hạ, ai là người không có những buổi “chiếu thu”, những
buổi chiều mà cái buồn vơ vẩn nó đến van lơn, cám dỗ, những vuổi mà
tiếng thu reo vang, vừa nhẹ vừa chìm” [10.34]. Lắng nghe Tiếng thu bằng cả
tâm hồn ta sẽ được cùng thi sĩ phiêu du vào cõi mộng, để cùng thi nhân cảm
nhận cái “thổn thức, rạo rực” của lòng người, cái “xôn xao” của vạn vật khi
đất trời thu. Muốn thâm nhập vào cõi ấy ta “đừng nói to, bước nặng” hãy
“lấy hồn ta để hiểu hồn người” [38.294].
Với Xuân Diệu tiếng thu là “ Thu đến nơi nơi động tiếng huyền”,
“huyền” ở đây là đàn, cây đàn vô hình cà thế giới tiếng đàn hư ảo ấy phải là
mùa thu, bởi đó là thứ âm thanh huyền diệu được tếu lên từ lòng vạn vật
Người Việt Nam yêu Thơ mới, có lẽ không ai là không ám ảnh bởi
Tiếng thu, không ai không yêu Tiếng thu của Lưu Trọng Lư. Nhưng Tiếng
thu nói gì, nói như thế nào, có lẽ có rất nhiều cách giải đáp. Chúng ta yêu
thơ Đường với giá trị hội họa, ta nhìn thấy ở đó một bức tranh phương Đông
thuần túy, một bức tranh trong cõi mộng với những đường nét mơ hồ như
phủ trong một màn sương. Chúng ta yêu thơ lãnh mạn bởi âm nhạc, chính là
đặc trưng nổi bật, là nhịp mạnh của Thơ mới. Trong đó Tiếng thu của Lưu
Trọng Lư chính là nét nhạc cơ bản, hài hòa giữa cảnh thu và rừng thu, giữa
cảnh bên ngoài và những xao động bên trong, hài hòa giữa cái thổn thức, rạo
rực, ngơ ngác, đó là sự hài hòa giữa đôi trái tim chung tiết tấu của một đôi
bạn tình thu .
Song Tiếng thu của Lưu Trọng Lư không chỉ là âm thanh riêng rẽ nào,
cũng không phải là tập trung giản đơn của nỗi thổn thức trong đất trời, nỗi
rạo rực trong lòng người và tiếng xào xạc của rừng già. Tiếng thu là một
59
điệu huyền, một hòa ca vừa mơ hồ, vừa hiển hiện nỗi xôn xao ngấm ngầm
trong lòng tạo vật đang hòa điệu với nỗi xôn xao của hồn thi nhân. Lưu
Trọng Lư là một thi sĩ đa tình và mơ mộng, Ông say sưa tả những cái đẹp
của con người và cua tạo vật, tấm lòng ông lúc nào cũng thổn thức, cũng
mơ màng. Tập Tiếng thu là những lời buồn thảm, những lời réo rắt làm xáo
động tâm hồn người ta, như những tiếng của mùa thu. Tiếng thu nó gieo nhè
nhẹ, chìm sâu trong tâm hồn ta những lúc thê lương hay buồn dịu, nó âm
thầm và nỉ non khi mới đến cõi lòng ta, nó mơn man đến muôn vật mà gây
lên một cảnh đìu hiu, mạnh mẽ.
Trong Tiếng thu, yếu tố nhạc và họa có vai trò quan trọng . Cả bài thơ
được tổ chức bằng ba câu hỏi:
“Em không nghe mùa thu?
Em không nghe rạo rực ?
Em không nghe rừng thu ?”
( Tiếng thu )
Nhà nghiên cứu Văn Tâm đã khảo sát văn bản đầu tiên và cho biết : “Chín
dòng thơ liền mạch, không chia khổ, chỉ có ba chữ “em” đứng đầu dòng viết
hoa và cuối mỗi câu hỏi có một dấu hỏi. Nó chứng tỏ ba câu hỏi ở đây là trọn
vẹn được ngắt ra, tồ chức thành dòng thơ” [27.21]. Cái đặc biệt của bài thơ này
là câu hỏi được đạt bằng từ phủ định :
“Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức ?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?