Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Mùa thu trong thơ Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư và Quách Tấn
9,190
571
111
40
“hoa rơi”, là tiếng “gió vỡ”, là bóng tối trên cành cây, là nhịp mùa đi, là gió
thầm, mây lặng trong sự mơ hồ của tiếng chim :
“Những chút hồn buồn trong lá rụng
Bị ai nhàu tưởng dưới ánh trăng
Bông hoa dứt cánh rơi không tiếng
Chắc rằng gió cũng đau thương chứ
Gió vỡ ngoài kia, ai có nghe…?”
( Ý thu )
Tâm trạng buồn của Xuân Diệu là nỗi buồn thế hệ, không tìm được lối ra
trong cuộc đời cũ, tác giả tìm đến những hình ảnh thiên nhiên có tính tương
đồng để biểu hiện cảm xúc. Thật ra nỗi buồn man mác là cảm hứng truyền thống
trong thơ ca trung đại Việt Nam, nhưng cảnh thu trong thơ Xuân Diệu có cái
mới, cái riêng của nó. Đó là chất trẻ trung tươi mới được phát hiện qua con mắt
vẻ đẹp “xanh non” của tác giả, là sức sống của tuổi trẻ và tình yêu . Mùa thu có
nhiều vẻ đẹp, màu sắc khác nhau và Xuân Diệu đã mở rộng sự tiếp nhận và cảm
xúc của mình trước vẻ đẹp, màu sắc của mùa thu :
“Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”.
( Đây mùa thu tới )
Một tiếng kêu thầm như reo vui khi cảm nhận mùa thu đang đến. Câu
thơ có hai tiết tấu “mùa thu tới” trùng điệp và gây ấn tượng mạnh. Trong thơ ca
cổ, chúng ta đã bắt gặp hình ảnh chiếc lá vàng trong thơ Nguyến Khuyến :
“Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
( Thu điếu )
41
Chúng ta lại một lần bắt gặp hình ảnh “gió vàng” trong thơ Nguyễn Gia
Thiều:
“Trải vách quế gió vàng hiu hắt”
Bích Khê với màu vàng chan chứa sắc thu :
“Ô hay ! buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi, vàng rơi thu mênh mông”
( Tỳ bà )
Cùng viết về mùa thu, nhưng Đây mùa thu tới là một thế giới hiu hắt, lạnh
lẽo, trong đó có sự phân lìa, tàn rụng thì Thơ duyên lại mở ra một thế giới
thiên
nhiên trong sáng, ấm áp, thế giới của vạn vật giao duyên, thế giới của cặp đôi.
Trong Thơ duyên chúng ta một lần nữa bắt gặp một buổi chiều thu thật đẹp và
thơ mộng :
“Chiều mộng hòa thơ trên nhành duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến, nơi nơi động tiếng huyền”.
( Thơ duyên )
Cái đặc biệt trong bức tranh chiều thu này chính là ở sự nhịp nhàng, hòa
điệu của cảnh vật thiên nhiên. Khi ta ngắm nhìn bầu trời thu qua vòm lá của cây,
màu xanh của da trời chuyển sang màu xanh ngọc, vừa dịu mát, vừa nên thơ.
Mùa thu ở đây không có lá vàng, lá úa, không thấy sự tàn phai mà ta thấy không
gian của mùa xanh, không gian của sự sống .
Trong bức tranh thu, xuất hiện tiếng “nhạc huyền”, là nhạc của dòng cảm
xúc, nốt nhạc của tâm hồn khi đắm mình trong cảm xúc để lắng nghe tận trong
thẳm sâu của lòng mình, tiếng của những âm thanh đan xen vào nhau cũng như
42
tiếng lòng của thi nhân. Qủa thật đó là một không gian tràn đầy sức sống, một
không gian níu kéo lòng người.
“Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều”
( Thơ duyên )
Toàn bộ cái “thần” của câu thơ là ở những cặp từ láy “nhỏ nhỏ”, “xiêu
xiêu”, “lả lả”. Những từ láy miêu tả đường nét, dáng điệu mền mại của cảnh
vật, tạo nên nhạc điệu êm dịu. Hình ảnh “con đường”, làn gió và hàng cây tạo
nên vẻ đẹp thấm thía của bức tranh thu khi lắng nghe những giao lưu bí ẩn trong
trời đất. Không gian “con đường” với làn gió nhẹ “xiêu xiêu” vuốt ve, chỉ đủ
sức làm cho hàng cây “ xiêu xiêu”, lướt nhẹ mềm mại theo chiều gió, mất vẻ an
bằng xiêu xiêu theo chiều gió. Đó là không gian thơ mộng và trữ tình, ở Xuân
Diệu mùa thu hòa mùa thu bừng lên sức sống tươi xanh của m ùa xuân. Có thể
nói đây là những câu thơ hay vào loại bậc nhất của thơ ca hiện đại Việt Nam.
Thơ Xuân Diệu đã chứng tỏ khả năng kì diệu của tiếng Việt trong việc tạo nên
những hình tượng ngôn ngữ tuyệt đẹp và diễn tả những sắc thái thật tinh tế của
cảm xúc .
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng nhận xét về Xuân Diệu: “ cái
lối làm duyên rất có duyên …Cái vẻ đài các rất hiền lành” [38.119]. Đúng vậy,
Thu chính là sợi tơ lòng của Xuân Diệu, sợi tơ ấy luôn nhạy bén trước sự biến
động của thiên nhiên, của đất trời, nó còn rung lên những nhịp điệu khác thường
không thấy ở bất kỳ đâu trước đó. Đó là một bức tranh thu vào lúc ngày đang tàn
và đêm đang dần đến. Ta bắt gặp ở cái lạnh đầy duyên cớ của thiên nhiên cùng
với cái lạnh bâng khuâng man mác của lòng người. Một khung cửi, một khuê
phòng đang hiện dần ra với giọt sương, cây cỏ :
43
“ Nõn nà sương mọc quanh thềm đậu
Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì”
( Thu )
Câu thơ khiến ta liên tưởng đến những gì yếu điệu, ngọc ngà, trắng trong
tinh khiết như một cánh hoa đang gặp cơn gió làn thoáng qua. Đồng thời là một
khoảng thời gian mơ hồ “nắng nhỏ”, đó là sắc nắng nhạt nhòa thật côi cút. Cảm
giác hụt hững ấy là do buổi “chiều lỡ thì”. Với biện pháp nhên hóa “chiều lỡ
thì”, đã khơi dậy một nỗi niềm trắc ẩn xót. Câu thơ gợi lên một không gian chiều
lơ lửng, một không gian chiều tràn đầy tâm trạng. Phải chăng, qua vẻ đẹp của
thiên nhiên, Xuân Diệu muốn tưởng đến một cô gái đã qua cái độ trăng tròn,
đang dần phai hương sắc .
Xuân Diệu đã nhân hóa thiên nhiên bởi nhà thơ nghe được màu sắc, nhìn
được âm thanh, nhất là những gì rơi rụng, héo tàn:
“Hư vô bóng khói trên đầu lạnh
Cành biếc run run chân ý nhi
Hây hây thục nữ mắt như thuyền
Gió thu, hoa cúc vàng lưng giậu” .
( Thu )
Hình ảnh “ý nhi”, “bức gấm”, “thục nữ”, “cúc vàng lưng giậu”, sắc áo
trạng nguyên” đều hết sức tiêu biểu cho phong vị mùa thu trong thơ cổ. Ở Xuân
Diệu là sự hòa điệu giữa nỗi buồn man mác của mùa thu với tâm trạng buồn của
một nhà thơ lãng mạn. Xuân Diệu đã hóa thân vào thiên nhiên để cùng với cỏ
cây hoa lá cảm nhận sự thay đổi của tiết trời vào mùa giao chuyển
Dường như ở cô “thục nữ mắt như thuyền” đang chìm đắm vào một giấc
mơ hoa. Nếu coi thiên nhiên là một đối tượng khai thác không thể thiếu cho quá
trình tìm kiếm nguồn tư tưởng, so sánh và ấn tượng của tư duy thơ thì có thể nói
rằng, Xuân Diệu đặc biệt tài tình về mặt này. Ông đã ban phát cho thiên nhiên sự
44
rung động, cảm giác của mình và ngược lại từ thiên nhiên, ông đã tạo nên vô
vàn những liên tưởng độc đáo và thú vị. Từ những cái rất mơ hồ của “gió thầm”,
“mây lặng”, “mưa trưa”, “chiều tà”… trong bài Chiều, chỉ bằng những đường
dây tơ nhân tạo trong không gian, nhà thơ giúp chúng ta mường tượng ra được
cảnh yên tĩnh vô cùng của một buổi chiều thu :
“Không gian như có dây tơ
Bước đi sẽ dứt động hờ sẽ tiêu
Êm êm chiều ngấn ngơ chiều
Lòng không sao cả, hiu hiu khẽ buồn”.
( Chiều )
Không gian như có sự tương giao. Với Xuân Diệu, hình ảnh mùa thu hiện
lên không chỉ ở những gì có thể nhìn thấy, nghe thấy, còn ở những liên tưởng
gián tiếp chỉ có thể cảm nhận được mà thôi. Ở Xuân Diệu, cái buồn đã liên kết
thành những luồng xao động trong tâm hồn nhà thơ. Đúng là “ vạn vật nức xuân
tâm” bỗng dưng muốn phát tiếng[41,17]
“Lá hồng rơi lặng ngõ thôn
Sương trinh rơi kín từ nguồn yêu thương”.
( Chiều )
Chính vì vậy, lòng ông luôn thấp thỏm lo âu trước cuộc đời xuân sắc đang
vào độ tàn phai. Bằng tình cảm say xưa và sự chấp nhận thẩm mĩ tinh tế. Xuân
Diệu đã phát hiện thêm nhiều vẻ đẹp khác nhau của mùa thu mà trước đó chưa
ai nhìn thấy được :
“Nghe chừng gió nhớ qua sông
Em bên lau lách, thuyền không vắng bờ”.
( Chiều )
45
Hay :
“Bông hoa dứt cánh không lên tiếng
Dưới gốc nào đâu thấy xác ve
Thế mà ve đã tắt theo hè”.
( Ý thu )
Nỗi buồn ấy đã tràn ngập trong tâm tưởng nhà thơ, bởi chính nhà thơ cũng
có nỗi niềm”buồn ơi xa vắng mênh mông là buồn”. Xuân Diệu đã dưa chúng ta
vào một thế giới của buồn chán, mênh mông và tuyệt vọng:
« Tôi là con nai bị chiều giăng lưới
Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối”.
( Khi chiều giăng lưới )
Nhà thơ đã thực sự cô đơn như con nai bị “chiều giăng lưới”, biết đi đâu
về đâu ? Đứng sầu tư cho đến khi bóng tối chìm ngập cả không gian. Khi thời
gian trôi qua, Xuân Diệu mới ngỡ ngàng, ngơ ngẩn nhìn trạng thái của sự vệt
đang ngả dần sang thu :
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh”.
( Đây mùa thu tới )
Quả thật, có ai quan sát được như nhà thơ ? Chỉ có tâm hồn yêu thương
mới dạt dào xúc cảm và quan tâm đến sự sống, mới có thể viết lên những vần
thơ như vậy. Cảnh sắc đầu tiên mà mùa thu xâm chiếm là rặng liễu. Dường như
cảnh sắc lan dần ra những khu vườn, những rặng núi, những dòng sông, những
tầng trời và cuối cùng nó xâm chiếm vài lòng người. Mùa thu tới, sắc lá phai
nhạt đi, hoa rơi rụng, cành lá gầy guộc đi, dáng núi nhạt nhòa hơn, sông vắng
vẻ,
46
không gian u uất và lạnh lẽo. Tuy nhiên dù cho có là buồn đi chăng nữa thì đây
cũng là nỗi buồn thi sĩ :
Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn.
Không gian bao trùm câu thơ là hoa mùa thu. Sắc thu ở đây là sắc vàng,
sắc đỏ, sắc của sự tàn phai. Khi thu tới, không gian bao trùm là cái lạnh của
mùa
thu, nó làm cho cây hao gầy đi một chút và màu xanh của nó bị sắc vàng, sắc đỏ,
nó “rũa” dần đi. Tác giả chọn từ “rũa” thật hay, cái đặc sắc của câu thơ là màu
đỏ không diễn ra một cách nhanh chóng mà nó mất dần, ta chỉ cảm thấy chứ
không nhìn thấy được. Qua câu thơ, chúng ta cảm nhận được bước chân mùa thu
đang dần tới. Không phải chỉ cảm thấy bằng thị giác mà còn bằng xúc giác.
Cuộc chuyển mùa nhập vào trong gió lạnh, lan tỏa trong sương giá. Cuộc
chuyển mùa bỗng trở lên hữu ý, hữu tình, hoa, lá, liễu bỗng trở nên ngoa ngoắt,
đỏng đảnh...một cách..rất thu.
“Những luồng run rẩy rung rinh lá”
( Đây mùa thu tới )
Xuân Diệu là người đem đến cho thơ ca Việt Nam nhiều cái mới nhất“.
Những cái mới đáng chú ý ở Xuân Diệu là “Những nguồn hứng và ý tưởng rất
mới“. Và ông cho rằng còn phải chú ý nhữngchữ, những câu, những điệu trong
những bài thơ ấy để hiểu lấy “cái nhạc điệu mới nữa“
(18, tr.715, 716).
Ở Xuân Diệu, sự chú ý đặc biệt đến nhạc tính của câu thơ là ảnh hưởng
quan niệm của trường phía thơ tượng trưng Pháp, nhưng cũng có nguồn gốc từ
trong những cách sáng tạo và thưởng thức thơ cổ điển phương Đông nữa. Chính
vì vậy, cảm xúc của nhà thơ vẫn hướng vào khung cảnh chiều thu .
47
Không gian ở đây là gió và cái lạnh, cái lạnh ấy đã thấm đượm vào thân
cây rồi chạy khắp thân cây, từ ngọn, búp, lá, đến từng tế bào của cây mà mắt
thường không nhìn thấy. Nhà thơ đã gợi trong ta cái rùng mình thấm lạnh và cả
nỗi sợ hãi của những chiếc lá dáng yếu ớt, cái rùng mình thấm lạnh và cả nỗi sợ
hãi của những chiếc lá sắp phải lìa cành trước những cơn gió cuối thu. Với hình
ảnh này, Xuân Diệu đã mang lại cho nền thơ ca một cách diễn đạt hay và mới
mẻ .
Mùa thu đến, những cơn gió lạnh đầu mùa làm cho cỏ cây run rẩy. Cách
sử dụng những điệp từ và láy âm góp phần tạo hiệu quả cho câu thơ với người
đọc. Trong thơ ca cổ cũng có những câu thơ có nghệ thuật láy ý, láy âm :
“Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”
( Truyện Kiều )
Theo Xuân Diệu điều quan trọng không chỉ là sự láy âm mà còn ở luồng
cảm xúc mới của thi nhân, nó khác với nguồn cảm xúc của các nhà thơ cổ điển.
Ở giữa vườn cây còn xum xuê lá, ta bắt gặp:
“Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”
( Đây mùa thu tới )
Mới chớm thu nên chỉ thấy “đôi nhánh khô gầy, gió lạnh về đã làm run
rẩy, rung rinh” những chiếc lá. Không gian mùa thu ở đây đã truyền rung động
sang người đọc một chút lạnh khi gió thu về. Câu thơ có kết cấu độc đáo, dường
như chữ nào trong câu thơ cũng gợi vẻ khô gầy và héo tàn của cành cây :
“nhánh gầy, khô xương, mỏng manh”. Với hình ảnh so sánh, nhân hóa đã gợi
lên dáng lẻ loi, cô đơn giữa đất trời, từng nhánh khô gầy khẳng khiu như chạm
khắc lên bầu trời cô đơn dưới mắt buồn của thi nhân. Tác giả mở rộng tẩm quan
sát đến những cảnh vệt ở nơi xa :
48
“ Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ”.
( Đây mùa thu tới )
Không gian thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu cũng là ánh sáng, nhưng
trăng là “nàng trăng”, chúng ta thấy nó gần gũi và ấm áp hơn. “Trăng” trong
thơ Xuân Diệu là hình ảnh của con người thiếu nữ trẻ trung, xinh tươi, dịu dàng,
thơ mộng. Xuân Diệu không tả trăng thu vành vạch giữa trời, cũng không tả
trăng thu đã tàn, mà là trăng thu “mới khởi sự” vừa mới nhô lên khỏi đỉnh núi.
Xuân Diệu gọi đó là “nàng trăng”, là trăng thượng tuần của mùa thu. Với cách
gọi đó, Xuân Diệu đã bộc lộ trực tiếp cảm xúc, mà nhà thơ trung đại chưa từng
có “Trăng” qua cách gọi không phải là vô tri nữa mà là người thiếu nữ, trăng
cũng có “hồn người”. Văn học trung đại chưa bao giờ có cách gọi như vậy. Nếu
“trăng” ở trên được nhân hóa thành người thiếu nữ, thì “ngẩn ngơ” là từ chỉ
tâm trạng, “trăng ngẩn ngơ”ngạc nhiên trước vẻ đẹp của trời thu, “ngẩn ngơ”
còn gợi hình ảnh người thiều nữ đang lẻ loi. Không gian thiên nhiên trong mùa
thu thật đẹp, không biết từ bao giờ nó đã đi vào lòng người qua hình ảnh “liễu”,
đặc biệt là hình tượng ánh trăng, là chuẩn mực của vẻ đẹp. Mùa thu được cảm
nhận bằng tất cả thính giác và thị giác :
“Đã nghe rét mướt luồn trong gió”
( Đây mùa thu tới )
Xuân Diệu, nhà thơ của tình yêu, từng viết rất hay về cái lạnh của mùa thu “Trời
muốn lạnh nên người ta cần nhau hơn, và người nào có một thân, thì cần một
người khác. Xuân, người ta cần ấm mà cần tình. Thu, người ta vì lạnh sắp đến
mà cẩn đôi. Cho nên không gian đầy những lời nhớ nhung, những linh hồn cô
đơn thả ra những tiếng thở dài để gọi nhau” (Trường ca) [10.23]. Nhà thơ cô
đơn nên thấy đất trời quạnh quẽ và xa mờ.
49
Mùa thu mới tới mà đất trời như quạnh quẽ và xa mờ hơn. “đã nghe rét
mướt”, chúng ta không chỉ thấy sự nhạy cảm đi trước thời gian của Xuân Diệu
mà còn thấy buồn và một chút bâng khuâng. Thơ Xuân Diệu bao giờ cũng thổi
vào cảnh vật một linh hồn và hóa thân cho nó để mang một tâm trạng của con
người. Câu thơ thật giản dị, tự nhiên cách miêu tả rất nghệ thuật. Chưa bước vào
hẳn mùa đông mà ở đây thỉnh thoảng những cơn gió mang theo cái rét trở về
như luồn đi trong không gian. Xuân Diệu sử dụng động từ “luồn” thật gợi hình
gợi cảm, nghệ thuật nhân hóa biến cái rét thành một con người tinh nghịch, tách
gió rét ra làm hai, biến nó thành một nhân vật biết hành động, điều đó khiến cho
câu thơ trở nên sinh động. Cái rét chưa hẳn đã lộ mặt, mà nó luồn vào, nó cho
ẩn thân ở trong gió. Xuân Diệu đã mang lại cho Thơ mới cách diễn đạt hết sức
mới mẻ. Cái rét sau khi tác động đến hoa lá, cành, trăng, sương, gió, nó đã tác
động đến con người:
“Đã vắng người sang những chuyến đò”
( Đây mùa thu tới )
Trong bài thơ của Nguyễn Trãi viết về mưa rét ở một chuyến đò :
“Dã kính hoang lương, hành khách thiểu
Cô chu trấn nhật các sa miên”
( Đường ngoài nội hoang vắng ít người qua lại
Chiếc thuyền lẻ loi gác mình trên bãi cát ngủ suốt ngày)
(Trại đầu xuân độ )
Đó là không gian thật hiu hắt và vắng vẻ, không gian ấy gợi một cảm giác quạnh
vắng, đìu hiu sông nước. Cảnh thu đã tàn rồi, mùa thu đã dần nhường bước cho
tiết trời mùa đông len qua làm tê lạnh lòng người. Nhưng phải chăng thơ thiên
nhiên nào mà chẳng mở rộng tâm hồn mình ra ngoại giới và lắng nghe những
âm vang của thế giới ngoại cảnh vào chính lòng mình. Tâm hồn nhạy cảm của