Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Mùa thu trong thơ Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư và Quách Tấn
9,187
571
111
30
“ Mùa thu đến chậm như chưa đến
Lá vội rơi theo lá vội vàng
Sương đã dâng lên chiều lắng xuống
Bến đò đã tắt chuyến sang ngang” .
( Chiều thu )
Mùa thu đã đến, nhưng dưới con mắt của thi sĩ làng quê Nguyễn Bính,
mùa thu đến thật chậm như chưa hề đến. Trong buổi chiều thu ấy, với những làn
gió heo may, với ánh nắng đã mờ nhạt, đứng trước bến đò thu, nhà thơ không
khỏi nao lòng . Chiếc lá rơi vội để kịp hòa mình vào với mùa thu, sương dâng
lên như một làn khói mỏng bao trùm cả không gian, lắng chiều lặng lẽ ra đi
nhường chỗ cho sương dần xâm chiếm…Chỉ bao nhiêu đó thôi cũng đủ làm cho
lòng người sầu lên chơi vơi.
Thăm thẳm trời xanh lộng đáy hồ,
Mùi hoa thiên lý thỏang chiều thu.
Con cò bay lả trong câu hát,
Giấc trẻ say dài nhịp võng ru.
Lá thấp cành cao gió đuổi nhau,
Góc vườn rụng vội chiếc mo cau.
Trái na mở mắt, nhìn ngơ ngác
Đàn kiến trường chinh tự thủa nào.
Lúa trổ đòng tơ, ngậm cốm non,
Lá dài vươn sắc lưỡi gươm con.
Tiếng chim mách lẻo cây hồng chín,
Điểm hạt da trời những chấm son.
(Chiềuthu)
31
Lòng người thật hào phóng, chỉ mới một vài khoảnh khắc, vài tín hiệu
báo thu về đã thả cả hồn mình chìm đắm trong cảnh sắc mùa thu. Không yêu
mến bằng cả trái tim nồng cháy thì làm sao nhà thơ lại rung cảm được sâu sắc
đến thế? Mùa thu ấy là mùi hoa thiên lý lan tỏa đâu đây, hương hoa phả trong
không gian, gió mùa thu đuổi giỡn nhau trong vườn ,chiếc mo cau rụng xuống
phụ họa thêm cho buổi chiều thu huyền diệu. Trái na mở mắt nhìn ngơ ngác, sao
mùa thu đẹp quá! Huyền diệu quá! Ngoài đồng lúa đang trổ đòng ngậm cốm
non. Ai đã từng thưởng thức thứ cốm của làng quê Bắc Bộ hẳn không thể nào
quên món quà của cốm non mà đất trời đã ban tặng.
Thu mênh mông khắp không gian là thế, thu lảng bảng khắp núi rừng là
thế. Với nhà thơ Huy Cận, chỉ cần một cơn gió thoáng, chỉ cần một đám mây
trôi, một buổi chiều lá rụng, với nắng vàng hiu hắt cũng đủ gieo vào lòng thi
nhân nỗi buồn tỉ tê, não nề:
Mây bay lũng thấy giăng màn âm u
Nai cao gót lẫn trong mù
Xuống rừng néo thuộc nhìn thu mới về
Sắc trời trôi dạt dưới khe
Chim bay, lá rụng cành nghe lạnh lùng
Sầu thu lên vút, song song
Với cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu
Non xanh ngây cả buổi chiều
Nhân gian em cũng tiêu điều dưới kia” .
( Thu rừng )
Ở tác phẩm Thu của Chế Lan Viên, nhà thơ đã bày tỏ sự tiếc nuối với sự
sống bị lụi tàn khi thu sang. Nhà thơ không nén được sự buồn giận trước cánh
hoa tàn, lá rụng. Chế Lan Viên vẽ lên những cảnh điêu tàn, niềm luyến tiếc đến
một thửa vàng son, oanh liệt ngày xưa. Nhà thơ có trí tưởng tượng phong phú,
32
tuy nhiên những chi tiết nhà thơ diễn tả thật giản dị, đơn sơ nhưng không đánh
mất nét thơ mộng. Nhà thơ vừa miêu tả, vừa bộc lộ cảm xúc trước cảnh thu :
“ Chao ôi ! thu đã đến rồi sao ?
Thu trước vừa qua mới độ nào
Mới độ nào đây hoa rạn vỡ
Nắng hồng choáng ấp dãy bàng cao”
( Thu )
Trong một năm, nhà thơ ưa nhất là mùa thu, mùa thu qua được một ngày
Chế Lan Viên đã nhớ :
“ Ô hay, tôi lại nhớ thu rồi
Mùa thu rớm máu rơi từng chút
Trong lá bang thu đỏ ngập trời
Đường về thu trước xa lắm lắm
Mà kẻ đi về chỉ một tôi” .
( Thu )
Nỗi mong nhớ ở đây đã thành thực, nỗi mong nhớ ấy còn to lớn lạ lùng.
Nhà thơ ưa mùa thu, ghét mùa xuân. Trong khi thu đến, Chế Lan Viên lại muốn:
“ Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng ?
Với cả hoa tươi muôn cánh rã
Về đây đem chắn nẻo xuân sang” .
( Xuân )
Nhận xét về khổ thơ này, trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh và Hoài Chân
viết : “ ý muốn ngông cuồng, ngộ nghĩnh ? Đã đành. Trong cái ngộ nghĩnh , cái
ngông cuồng ấy tôi còn thấy một sức mạnh phi thường. Chắn một luồng gió,
chắn một dòng sông, chắn những đợt sóng hung hăng ngòai biển cả, nhưng mà
33
chắn nẻo xuân sang ! Sao người lại có thể nghĩ được như thế ?” [38.225] . Chế
Lan Viên có lúc thích làm thông để "chống chọi với trời đông nghiêm khắc", với
"triệu tấn mây buồn áp bức"...Có lúc phải làm thông gồng mình lên "nhọn hoắt",
"vững vàng xanh", nhưng rồi có lúc được làm lau "buông thả phó mình cho gió
thu vàng xạc xào xao xác", được buông "vũ khí" mà cất "tiếng hát mông mênh",
làm người mà được thế tưởng không tệ..
Có lúc anh thích làm cây thông chống chọi
với trời đông nghiêm khắc
Triệu tấn mây buồn áp bức trên đầu thông nhọn hoắt
Vững vàng xanh.
Có lúc anh thích làm cây lau buông thả phó mình
Cho gió thu vàng xạc xào xao xác
Cây lau không vũ khí, mà chỉ có mơ hồ tiếng hát Mông mênh.
( Có lúc)
Tại sao Chế Lan Viên lại ghét mùa xuân mà mãi mong nhớ mùa thu? Khác với
nhiều nhà Thơ mới, mùa xuân hay mùa thu trong thơ Chế Lan Viên không phải
là chuyện cảnh thiên nhiên, không chỉ là sự vận động của thời tiết làm vui hay
cho buồn lòng người. Mà hình tượng mùa thu trong thơ Chế Lan Viên mang ý
nghĩa triết lý về thời gian, về một thái độ sống. Đó là câu chuyện về hiện tại
và
quá khứ, về hướng vọng và niềm tin đắm đuối của một tâm hồn :
“Đường về thu trước xa lăm lắm
Mà kẻ đi về chi một tôi”
( Thu )
Trong Điêu tàn, mùa thu là biểu tượng của dĩ vãng xa xăm. Thật lạ khi
Chế Lan Viên một mình trở về trên con đường thời gian xa mờ tít tắp. Và càng
lạ hơn khi quá khứ mà nhà thơ không nguôi tìm về, đâu chỉ có vàng son mà phần
34
lớn là hoang tàn, đổ nát. Nếu các nhà thơ lãng mạn cùng thời tìm ở mùa thu
những gam màu dịu nhẹ, những nỗi buồn hắt hiu, sâu lắng thì Chế Lan Viên tìm
thấy ở mùa thu sự tàn tạ, chán nản não nề. Mặc dù là như thế, nhưng Chế Lan
Viên vẫn thích mùa thu, bởi chính sự tàn lụi ấy mang dấu tích một thời xưa oai
linh hùng vĩ. Lúc này thi sĩ Chế Lan Viên trở thành một con người cô độc, luôn
tìm kiếm hình bóng rực rỡ trong những gì đang rụng, đang “tan tác đổ”. Chế
Lan Viên đã bày tỏ tiếc nuối với sự sống bị lụi tàn khi thu sang. Nhà thơ không
nén được sự buồn giận trước cảnh hoa tàn, lá rụng :
“ Thu đến đây! Chừ, mới nói rằng
Chừ đây buồn giận biết sao ngăn?
Tìm cho những cánh hoa đang rụng
Tôi kiếm trong hoa chút sắc tàn !
Tìm cho những nét thơ xanh cũ
Trong những tờ thơ lá võ vàng…”
( Thu )
Luôn sống trong hoài niệm nên gặp mùa thu này mà nhà thơ cứ nhớ về
mùa thu trước, giữa hiện tại mà nhà thơ cứ đắm mình vào quá khứ .
Với tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến, nhớ nhung và hoài niệm, khi mùa
thu qua đi, Tế Hanh đã bộc lộ cảm xúc của mình qua hình ảnh tượng trưng của
gió, của mây, của nắng :
“Mùa thu đã đi qua còn gửi lại
Một ít vàng trong nắng, trong cây
Một ít buồn trong gió trong gió, trong mây
Một ít vui trên môi người thiếu nữ”.
( bài thơ tình ở Hàng Châu )
35
Tế Hanh đã tinh tế rút lấy cái thần, cái hồn của thiên nhiên để bộc lộ cảm
xúc đa dạng, bộc lộ sự phong phú của trái tim mình. Đồng thời nhà thơ gửi lại
vào
thiên nhiên cả cuộc sống, tâm hồn mình, khiến cho cảnh vật không chỉ có hình sắc
mà còn chất chứa bao tiếng nói. Vốn là người yêu cái đẹp, suốt cuộc đời Tế Hanh
luôn đi tìm và chắt chiu cái đẹp, từ vẻ đẹp thanh cao đến vẻ đẹp bình dị của
cuộc
đời, của thiên nhiên. Sức sống bền bỉ của tâm hồn thơ ông ẩn đằng sau những vần
thơ miêu tả thiên nhiên. Tế Hanh thật tinh tế khi ông chớp lấy những khoảnh khắc
gặp gỡ giữa tâm tình của mình với cái đẹp trong sự luân chuyển của thiên nhiên,
tạo vật và để thiên nhiên “nói” giúp tâm tình người .
Khi mùa thu chia xa, nhà thơ cảm nhận được cái buồn vắng, nhớ thương
bởi sự ly cách :
“Em đi trăng sắp độ ròn
Mùa thu quá nửa, lá giòn khua cây
Tiễn em trong cảnh thu này
Lòng ta muôn tiếng, sao đầy lặng im” .
( Mùa thu tiễn em )
Không gian ở đây là không gian tĩnh, vũ trụ như ngưng lại trong phút
giây chia ly của đôi lứa. Nỗi lòng của nhà thơ hòa quyện vào với vẻ đẹp quyến
rũ của mùa thu .
Mùa thu dường như có mặt trong thơ của Lưu Trọng Lư ở những thời
điểm có ý nghĩa cho tình yêu đôi lứa. Những hỉnh ảnh đẹp như vầng trăng thu
trong Tình điên đã chứng kiến biết bao vui buồn của chàng trai và cô gái :
“Hôm ấy trăng thu rụng dưới cầu
Em cười em nói suốt canh thâu
Yêu nhau những tưởng yêu nhau mãi
Tình đến muôn năm chửa bạc đầu”.
( Tình điên )
36
Thơ Lưu Trọng Lư là những bản nhạc mờ ảo trên nền những bức tranh cũng mờ
ảo. Những bản nhạc chìm sâu trong sương mờ, Tiếng thu vẫn ngâm, vẫn ca hát
trong trái tim người người. Tiếng thu cũng là tiếng thầm thì, kín đáo, đi vào
thế
giới bên trong và lắng sâu trong tâm trạng. Lưu Trọng Lư đã nhạy cảm và đồng
cảm khi lắng nghe âm thanh của mùa thu. Khi những ngày nắng hạ vừa tắt lửa,
những cơn gió heo may thổi về, thiên nhiên đã ở vào buổi giao mùa. Các nhà thơ
mới đều tinh tế và sớm cảm nhận những âm thanh thầm thì :
“ Thu đến, nơi động tiếng huyền”
( Thơ duyên )
Như có sự giao cảm trong không gian và thời gian, trong không khí
của mùa thu và cao hơn cả, thiết tha hơn cả là trong Tiếng thu :
Tiếng thu chính là cái hồn của rừng quê, của trời đất và cái hồn hậu chất
phác của chú nai vàng. Đó là tấm lòng của nhà thơ đang chờ đợi một bạn đường,
rủ mình theo những lối cỏ, dẫn đến miền đất hứa, với bao điều tốt đẹp mà mình
hằng ước mơ, khao khát. Dưới con mắt đa tình của nhà thơ, gió cũng biết “đau”,
một nỗi đau thương quằn quại trong tâm hồn. Đọc những câu thơ trên tôi tưởng
như bất lực, không biết viết sao trước ý thơ của thi nhân.
Bằng những cảm hứng lãng mạn, các nhà Thơ mới đã họa lên trong
thơ mình những bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc và đường nét độc đáo. Mùa
thu trở thànnh nguồn cảm hứng của các nhà Thơ mới trong tâm tư riêng cuả mỗi
người, nhưng nó đều mang nỗi niềm riêng của nhiều thế hệ. Với những tác phẩm
viết về mùa thu của các nhà Thơ mới, chúng ta thấy rõ một cái tôi trữ tình thành
thật với những cảm xúc, trạng thái của mình. Ở đó, con người sống cho mình,
cho tình cảm của riêng mình, chứ không còn là tiếng nói của thời đại hay giai
cấp. Sự thành thật trong trạng thái cảm xúc của các nhà Thơ mới đã đem đến cho
thơ một cách thức biểu hiện mới, tự do hơn, thoáng đãng hơn và tinh tế hơn.
37
CHƢƠNG 2
CẢM NHẬN VỀ MÙA THU TRONG THƠ XUÂN DIỆU, LƢU TRỌNG LƢ VÀ
QUÁCH TẤN
2.1 Mùa thu trong thơ Xuân Diệu
Xuân Diệu ( 1916 – 1985 ) là một tài năng lớn, ông là kết tinh của hai
miền quê, hai dòng máu. Đó là dòng máu của người xứ Nghệ miệt mài siêng
năng và dòng máu của người mẹ, xứ dừa Bình Định thơ mộng .
Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã nhận xét về Xuân Diệu : “Thơ
Xuân Diệu là một nguồn sống dào dạt chưa từng có ở chốn nước non lặng lẽ
này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống
quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn,
người đều nồng nàn, tha thiết” [38.117]. Một năm sau, trong nhà văn hiện đại,
Vũ Ngọc Phan cũng nhận xét : “Người ta thấy thơ Xuân Diệu đằm thắm, nồng
nàn nhất trong các nhà thơ mới”. Đúng vậy, Xuân Diệu xuất hiện trong Thơ
mới với tất cả lòng say mê yêu cuộc sống, khát khao giao cảm với đời. Ở nhà
thơ là sự nhạy cảm trước những bước đi của thời gian, một tâm hồn cảm nhận
hết sức tinh tế. Đồng thời là cách bộc lộ cảm xúc mới mẻ chưa từng có trong thơ
ca đương thời .
Xuân Diệu cũng hay viết về mùa xuân, mạch thơ tuy đã bộc lộ được tình
cảm trẻ trung sôi nổi của nhà thơ nhưng kém phần cô đọng và tài hoa như những
thi phẩm viết về mùa thu. Điều đó phải chăng khi Xuân Diệu trở về mạch trữ
tình truyền thống thì hồn thơ Xuân Diệu cũng đằm thắm hơn và phải chăng ông
cũng muốn đa dạng hóa thơ mình bằng cách sáng tạo thêm một mạch trầm cảm
xúc. Hơn nữa, một tài năng thơ dù hiện đại và mới mẻ đến đâu cũng không hề
cắt đứt hoặc đối lập hoàn toàn với quá khứ thơ ca dân tộc, cùng những đặc điểm
chung trong tư duy nghệ thuật của thời đại mà nhà thơ đang sống. Với nhửng
38
nốt nhạc trẩm bổng của giai điệu trữ tình về mùa thu, với những phát triển sáng
tạo trong cách dùng từ ngữ, hình ảnh thơ, cách bộc lộ cảm xúc rất mới mẻ. Mùa
thu trong thơ Xuân Diệu có một vẻ đẹp rất riêng, một vẻ đẹp trong sự sầu muộn,
vẻ đẹp ẩn chứa sâu kín nhưng rất nên thơ.
Đây mùa thu tới cũng vẫn sử dụng những thi liệu cổ truyền của dòng thơ ca
cổ điển, vẫn những “liễu, lệ, vàng, hoa, sương, gió, mây, chim…” đã xây dựng
lên dòng thơ Đường thi. Theo nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy thì Đây mùa thu tới,
đã được hoán cái trong một chùm quan hệ mới. Không phải là “xi măng sắt
thép” để tạo nên khung chịu lực của ngôi nhà thơ hiện đại, mà chúng tồn tại
trong toàn kiến trúc như những kỉ niệm, một thứ “trí nhớ thể loại” theo cách
mới của M.Ba-khơ-tin, chiếc dây nối cánh diều thơ với mạch trong thơ Đường,
thơ Tống. Mở đầu bài thơ, Xuân Diệu miêu tả hình ảnh của một rặng liễu buồn
đang đứng chịu tang :
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn”
( Đây mùa thu tới )
Từ láy “đìu hiu” gợi lên dáng liễu hơi hao gầy đi, dáng đứng buồn lặng lẽ, có
một một cái gì đó như mơ màng, phảng phất. “Liễu” ở đây được gợi tả như một
người thiếu nữ có tâm hồn. Khi thu sang không gian bao trùm lên là làn gió mùa
thu, làn gió mang lạnh về khiến lòng người xao xuyến, bâng khuâng… Câu thơ
gợi hình ảnh mái tóc của người thiếu nữ, một mái tóc dài thướt tha. Mùa thu hóa
thành một thục nữ mĩ miều, thướt tha và u buồn, đẹp một vẻ đẹp lãng mạn, cao
sang. Nàng thu của Xuân Diệu đang nhón gót hài trên đường biên của phút giao
mùa từ hạ sang thu bằng rặng liễu ven hồ. Những câu thơ buồn của Đây mùa thu
tới gợi lên một tâm trạng buồn đến tang tóc. Buồn vì cái lạnh len lỏi đâu đây
gợi
nỗi cô đơn, buồn vì cảnh sắc mùa thu hợp với tâm trạng buồn của tác giả. Đúng
như thơ đã từng nói “Xuân người ta vì ấm mà cần tình. Thu người ta vì lạnh sắp
39
đến mà rất cần đôi, cho nên không gian đầy những nỗi nhớ nhung, những linh
hồn cô đơn thả ra những tiếng thở dài để gọi nhau và lòng tôi nghe tất cả du
dương của thứ vô tuyến điện ấy” [10,23].
Xuân Diệu, một nhà thơ của tình yêu, ông đã đi trọn con đường “lạ
hóa”[38,40] thơ theo cách của ông. Mỗi sự vật hiện tượng thiên nhiên trong thơ
ông đều toát lên một chất người mạnh mẽ. Chúng ta ngỡ rằng, với một con
người khao khát sống, khao khát yêu mãnh liệt và cuồng nhiệt như thế sẽ không
hợp với đề tài mùa thu, một đề tài thường chỉ thích hợp với hồn thơ cổ điển với
những vần thơ lắng đọng suy tư. Vậy mà khi bước vào thế giới của Đây mùa thu
tới thì chúng ta mới chợt nhận ra rằng, Xuân Diệu là người có cái nhìn tinh tế
và
gợi cảm nhất trước những bước đi của thời gian mùa thu, ông đã khoác lên mùa
thu những sắc màu, những cảm xúc mới, âm hưởng thơ xưa nhưng hơi thở hôm
nay.
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang”
( Đây mùa thu tới )
Tín hiệu mùa thu trong thơ xưa thường là lá ngô đồng :
“Ngô đồng nhất diệp lục
Thiên hạ cộng tri thu”
Đó là một tín hiệu đẹp và sang trọng nhưng đã trở nên cũ mòn, sáo rỗng.
Với tư cách “là nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới” dùng rặng liễu để
báo thu sang. “Liễu” cũng là một thi liệu trong thi ca cổ điển nhưng có vốn
tượng trưng cho vẻ đẹp duyên dáng mền mại của người thiếu nữ .
Buổi chiều thu trong thơ Xuân Diệu không còn cái buồn hiu hắt quạnh
quẽ, đậm chất cổ điển nữa mà nó ẩn chứ đầy chất lãng mạn của những tâm hồn
đang yêu. Buổi chiều mùa thu mà đầy xôn xao, mùa thu trong thơ Xuân Diệu
mà ta tưởng như mùa xuân, cái gì cũng có đôi, có cặp. Với nhà thơ, thu là tiếng