Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Mùa thu trong thơ Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư và Quách Tấn
9,209
571
111
20
“ Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ
Lẻ tẻ bên trời bóng nhạn thưa
Giếng ngọc, sen tàn, bông hết thắm
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa” .
( Hồng Đức Quốc âm thi tập )
Qua thế kỉ 16 – 18, các nhà thơ trung đại Việt Nam ít sử dụng những hình
ảnh mang tính công thức, ước lệ khi, không đi theo khuôn mòn khi tả cảnh thu.
Nguyễn Du tả cảnh trời thu qua sự phản chiếu của cái long lanh đáy nước in
trời:
“ Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng”
( Truyện Kiều )
Một bầu trời thu xanh trong và một mặt nước thu cũng trong veo đã tạo
nên một bức tranh tuyệt vời đến vậy. Từ láy “long lanh” đặt lên đầu câu càng
tạo nên vẻ hấp dẫn cảnh trời thu, nước thu và âm hưởng mùa thu.
Với cảnh thu man mác thơ mộng, sương khói giăng khắp núi đồi đã thoáng
hiện ra não nề trong Đoạn trường tân thanh của đại thi hào Nguyễn Du :
“ Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”
( Truyện Kiều )
Những câu thơ thu chia biệt trong Truyện Kiều đã xé nửa vầng trăng.
“Thu” không những để thưởng ngắm, đồng thời còn ký thác tấm lòng của tác
giả. Đúng là mùa thu đã gợi nhắc buồn mơ trong xa cách nhớ nhung, tạo nên
những biến thái nhạy cảm của tâm hồn thi nhân bởi mùa thu. Mùa thu giữ lại
bóng trăng mơ màng, giữ lá vàng cùng sương biếc. Bao trùm lên tất cả là màu
21
vàng xôn xao của lá, của gió, của trăng, của thời gian đã trôi, hòa lẫn vào
trong
cõi lòng đơn chiếc. Mùa thu là mùa chuyển giao những động thái về tạo hóa, nó
tạo nên sự mơ hồ giữa trong xanh mùa hạ chưa qua và hiu hiu cái rét của mùa
đông đang chờ .
Một trong hai đại biểu xuất sắc cuối cùng của nền văn học trung đại Việt
Nam, Nguyễn Khuyến (1835–1909) được coi là bậc quán quân về thơ tả cảnh
mùa thu. Bản nhạc của mùa thu đã đưa nhà thơ Yên Đổ về với tâm trạng cô đơn,
buồn lắng, u uất hòa nhập với trời thu tĩnh vắng. Chùm thơ thu ba bài Thu vịnh,
Thu điếu, Thu ấm của ông được đánh giá là tam tuyệt của thơ thu Việt Nam.
Đằng sau cảnh thu tĩnh lặng là nỗi niềm tâm sự thầm kín của thi nhân. Với ba
bài thơ thu nổi tiếng thì những ưu điểm trong bút pháp miêu tả của ông sáng rỡ
lên như một dấu son tươi mới. Với tài năng của mình, Nguyễn Khuyến đã đưa
thơ Việt Nam tiến lên một bước mới, đặc biệt là đến với hiện thực, cụ thể là
sinh
động hơn trong bút pháp miêu tả. Thiên nhiên làng quê trong thơ Yên Đổ đến
với độc giả bằng tất cả vẻ đẹp giản dị, thanh sơ. Ba bài thơ thu của Nguyễn
Khuyến, luôn tỏa ra thứ ánh sáng làm êm dịu trong trẻo và say đắm lòng người.
Thiên nhiên bao la của những ngày thu muộn, có ao nước trong veo lóng lánh
bóng trăng, có đom đóm lập lòe ngõ tối, đã tạo nên ba bức tranh đặc sắc về cảnh
thu Việt Nam ở vùng đồng bằng Bắc Bộ
Trong cuốn Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ 18 đến hết thế kỉ 19,
Nguyễn Lộc nhận định : “ Nói về thiên nhiên trong văn học cổ có rất nhiều, tả
cái đẹp của thiên nhiên mùa thu trong văn học cổ có rất nhiều, tả cái đẹp của
thiên nhiên mùa thu trong văn học cổ rất hay. Nhưng trước Nguyễn Khuyến,
chưa bao giờ có một thiên nhiên nào đậm đà phong vị của đất nước, quê hương
đến thế” [29.57] .
22
Xuân Diệu cũng đã từng nhận xét : “Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn
học Việt Nam là về thơ Nôm, mà trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh nhất
là ba bài thơ mùa thu : Thu ẩm, Thu điếu, Thu vịnh” [2.34] .
Đến với Tam Nguyên Yên Đổ, mùa thu là mùa của gió heo may, của trời
xanh trăng sáng, là mùa lá rụng, là mùa côn trùng sinh sản, đêm tối đóm lập lòe
đầy vườn. Quả thật, phải là người đã sống và hòa mình thật sự với cảnh vật đồng
quê Việt Nam như Nguyễn Khuyến, mới có thể rung động tất cả các nét đặc thù
của mùa thu, để dồn vào ba bài thơ tiêu biểu cho mùa thu Việt Nam là bài thơ
Thu điếu được viết bằng chữ Nôm, làm theo thể thất ngôn bát cú đường luật.
Cảnh thu được miêu tả hầu hết tám câu thơ, hình ảnh con người chỉ xuất hiện
trực tiếp ở hai câu cuối bài. Đọc bài thơ, chúng ta có thể tưởng tượng ra trước
mắt một bức tranh thủy mặc, khung cảnh thu được gói vào trong một không gian
hẹp, đó là “chiếc ao thu” nhỏ bé, xinh xắn, chiếc thuyền câu cũng bé tẻo teo.
Nguyễn Khuyến dường như hóa thân thành một nhà quay phim tài ba bậc nhất.
Tầm nhìn của ông bao quát cả không gian mùa thu :
“ Ao thu lạnh lẽo, nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợi tí
Lá vàng trước ngõ khẽ đưa vèo”
( Thu điếu )
Tác giả khắc họa thành công bức tranh mùa thu mang nét đặc trưng của
mùa thu vùng đồng bằng chiêm trũng Bắc Bộ. Cảnh thu đẹp hài hòa, vừa trong
vừa tĩnh, vừa gần gũi vừa quen thuộc, mộc mạc, dân dã hồn hậu, dễ đi vào lòng
người, vừa sinh động lại đượm buồn. Cả khung cảnh ấy làm phông duy nhất cho
một chiếc lá thu vàng rơi trước gió. Chữ “vèo” tả dáng thanh mảnh của chiếc lá
mùa thu bay. Tuy nhỏ bé nhưng dường như nó có sức thu cả đất trời vào mình.
23
Bức tranh thu điếu xuất hiện nhiều gam màu lạnh: độ xanh trong của nước, độ
xanh biếc của sóng, độ xanh ngắt của trời. Cái lạnh của cảnh, của ao thu, trời
thu
thấm vào tâm hồn nhà thơ hay chính cái lạnh từ tâm hồn nhà thơ lan toả ra cảnh
vật? có người cho rằng câu thơ Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo có phần không
hợp lý: lá vàng khẽ đưa trước gió không thể có độ “ vèo” khi bay. thực ra điều
đó có vẻ không hợp lý ấy lại rất lô gíc, rất thống nhất tâm trạng. Từ “vèo”
chính
là sự thể hiện tâm sự thời thế của nhà thơ, một tâm sự đau buồn trước hiện tình
đất nước đầy đau thương. Thời thế thay đổi quá nhanh, non sông mất vào tay
giặc mà mình không làm được gì để giúp đời, cứu nước. Hình ảnh ao thu như
đưa ta về với mùa thu đích thực của đồng bằng Bắc Bộ, một ao thu “trong veo”,
“lạnh lẽo”, một mặt nước sóng “gợn tí” tưởng chừng như phẳng lặng, mang
đến cho con người một cảm giác tĩnh tại, bình yên vô cùng. Giữa mặt ao thu
phẳng lặng là một chiếc thuyền câu bé nhỏ gợi lên một cảm giác lạc lõng, vô
định của con người. Khi nhắc đến mùa thu ở đồng bằng Bắc Bộ, người ta có thể
liên tưởng ngay đến ao thu. Dường như chất thu thấm đượm trong hình ảnh ao
thu. Ngước mắt lên nhìn là bầu trời xanh ngắt, rộng lớn, cao vời vợi :
“ Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
( Thu Điếu)
“ Ngõ trúc” là hình ảnh rất đặc trưng cho cảnh làng quê vùng đồng bằng
Bắc Bộ. Đọc câu thơ, ta như lạc vào một không gian vắng lặng, bình yên của
mùa thu Bắc Bộ với một ngõ trúc vắng vẻ, quanh co. Nhà thơ không những cảm
nhận được vẻ quạnh quẽ của đêm thu mà còn như đo được độ sâu của đêm. Quả
thật không thể có được hình ảnh thơ thuần việt tuyệt đối ấy nếu không có một
tình yêu quê hương đằm thắm đến vô cùng. Trước thời cuộc đảo điên, vận nước
đen tối, một ông quan thanh liêm đã về vườn, liệu có thể làm được gì cho dân
cho nước? Nhà thơ muốn gửi gắm tâm sự của mình vào cảnh thu để bớt đi nỗi
24
buồn vì bất lực. Song thiên nhiên làng quê mộc mạc, thân thiết ấy lại càng làm
cho ông cảm thấy day dứt về trách nhiệm của bản thân. Khát vọng phục vụ quê
hương không thành, cũng giống như việc câu cá không được, ông chưa đủ kiên
nhẫn để ngồi chờ vì không còn cách nào khác giải tỏa niềm u uất của mình. Nỗi
trống vắng khôn cùng khiến nhà thơ nghe được tiếng cá đớp mồi thật nhỏ, đó là
âm thanh duy nhất trong khung cảnh thu tĩnh lặng :
“ Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
( Thu Điếu- Nguyễn Khuyến)
Một tư thế “ tựa gối ôm cần”, một sự đợi chờ “ lâu chẳng được”, một cái
chợt tỉnh khi mơ hồ nghe “cá đớp” . Người câu cá như đang ru hồn mình trong
giấc mộng mùa thu, đó là một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao.
Cũng như mạch cảm xúc ấy, Nguyễn Khuyến đã đưa cái thần của cảnh
thu Việt Nam vào bài Thu vịnh :
“ Trời thu xanh nắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào”
( Thu vịnh)
Cái thanh thoát nhẹ nhõm, cái cao vời vợi của không gian được gói gọn
trong bầu trời thu xanh ngắt. Điểm nhấn trên bầu trời ấy là “ cần trúc”. “ Cần
trúc” còn non trông yếu ớt, khi có làn gió hiu hiu thổi nhẹ, giống như chiếc cần
câu nghiêng bóng xuống mặt ao, đu đưa trước gió. Không gian mùa thu như
chìm lẫn trong màn sương mờ ảo của buổi chiều. Hình ảnh mùa thu pha thêm
màu “ nước biếc” với khói phủ nhạt nhòa. Cảnh vật ở đây thật tĩnh lặng:
25
“ Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”
( Thu vịnh )
Chùm hoa xuất hiện trong Thu vịnh, đưa hương thơm ngạt ngào từ quá
khứ bay đến hiện tại bằng trí tưởng tượng của chính nhà thơ. Tiếng ngỗng vọng
tưởng kêu vang trong bầu trời như bứt tâm hồn nhà thơ về với thực tại. Âm
thanh ấy vang xa sao mà xa lạ thế, bởi đó đâu phải là ngỗng quê hương. Nỗi đau
của người dân mất nước, càng thấm thía hơn trong đêm thu vắng vẻ. Nguyễn
Khuyến bộc lộ lòng mình, ông thấy thẹn thùng với Đào Tiềm, thi sĩ nổi tiếng ở
Trung Quốc đã sớm từ quan về ở ẩn trước cuộc đời ô trọc. Cái thẹn trong lời kết
ở Thu vịnh càng khiến nhân cách của Nguyễn Khuyến thêm sang đẹp. Đứng
trước thiên nhiên kì diệu ấy, tâm hồn con người như được soi bằng thứ ánh sáng
tinh khiết để nhân cách được bộc lộ dễ dàng hơn.
Đến với Thu ẩm, chúng ta cũng không thấy những hình ảnh ước lệ, sang
trọng mà thay vào đó là sự thanh sơ và giản dị với :
“Năm gian nhà có thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lèo
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe ”
( Thu ẩm )
Hình ảnh “ gian nhà ” vừa là tả thực, vừa khái quát tầm vóc của một làng
quê ở vùng đồng chiêm trũng. Từ láy “le te” đã khắc họa hình dáng của ngôi nhà
cỏ trong không gian, nó là nơi thu hút, hội tụ sự ấm áp của đời sống nông thôn
26
đất Việt. Không gian mùa thu với bầu trời cao rộng, những gian nhà cỏ thấp như
những chiếc nấm. “Thấp le te”, gợi lên cảm giác đơn sơ, nhỏ bé, “ngõ tối” và
“đêm sâu” là cảnh bình thường nhưng lại có ánh lửa đom đóm, “lập lòe” làm
cho “ngõ tối” và “đêm sâu” lúc tối, lúc sáng. Chữ “lập lòe” vừa gợi độ sinh
động của ánh lửa đóm chớp nháy trong đêm vắng. Không gian mùa thu như
chìm vào trong làn khói nhẹ chập chờn. Bắt gặp hình ảnh con đom đóm nhỏ bé
trong thơ Nguyễn Khuyến, chúng ta lại thấy tràn ngập tâm hồn thứ ánh sáng của
đồng nội. Tuy yếu ớt, nhưng có thể làm sáng tâm hồn con người :
“Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe”
Qua chùm thơ thu của mình, Nguyễn Khuyến đã tài tình thâu tóm đươc
cái hồn thu của làng quê Việt Nam trong các bài thơ thu. Cách cảm nhận mùa
thu của Nguyễn Khuyến là cái thu của đất trời, của không gian, của làng quê đất
nước. Nó mang nỗi buồn chung của vũ trụ, của thời đại, của cả một lớp ngưởi
như ông. Nó mang nỗi buồn nhưng là cái buồn ẩn chứa trong thiên nhiên, trong
vũ trụ, không phải la cái buồn được bộc lộ trực tiếp của cá nhân. Ta yêu biết
bao
cái thanh cao trong trẻo, dịu êm và không khí tĩnh lặng, thanh bình của mùa thu
Việt Nam trong thơ Nguyễn Khuyến. Cảm hứng về mùa thu đã đi vào trong thơ
ca Việt Nam thật bình dị, thanh sơ và thấm đẫm tâm trạng .
1.3. Các nhà thơ trong phong trào Thơ mới
Tiếp nối mùa thu của thơ ca dân tộc, các nhà Thơ mới đã có những đóng
góp quan trọng trên đề tài này. Cũng giống với mùa thu xưa, với bầu trời xanh
thắm, nắng vàng, trăng thanh, sương khói phủ… Đến với Thơ mới, mùa thu
không chỉ là thi liệu mà còn được nhìn dưới góc độ phân tích tâm lí tinh vi,
được
cảm nhận như sự hòa nhập vào thiên nhiên tràn trề thanh khí. Các nhà Thơ mới
đã miêu tả thiên nhiên với cảm hứng hiện đại. Không chỉ là hình ảnh và cảm
xúc, các nhà Thơ mới đặc biệt chú ý đến sự cảm nhận trực tiếp của các giác
quan. Quan sát lắng nghe rất cụ thể và tinh vi, cùng với những liên tưởng, mộng
27
tưởng đã góp phần tạo cho những bài thơ viết về thiên nhiên vừa chân thực, vừa
thơ mộng, vừa lãng mạn. Mùa thu đã trở thành nguồn cảm hứng của các nhà Thơ
mới, trong tâm tư riêng của mỗi người, đều mang nỗi niềm riêng của Xuân Diệu,
Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Huy Cận, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử…
Xuân Diệu có những khám phá tinh vi về thị giác trong Đây mùa thu tới.
Lưu Trọng Lư lắng nghe tinh tế từ cá xào xạc của lá thu đến tiếng lòng thổn thức
của tình thu ở người thiếu phụ qua bài Tiếng thu. Huy Cận với chất thu man mác
trong nhiều bài và lặng buồn với Thu rừng. Chế Lan Viên buồn đến nao lòng
mỗi độ thu về .
Chùm thơ về mùa thu trong phong trào Thơ mới như Tiếng thu của Lưu
Trọng Lư, Đây mùa thu tới của Xuân Diệu, Thu của Chế Lan Viên là những bài
hay vào loại bậc nhất trong Thơ mới. Mùa thu thường được gắn liển với thơ ca,
Xuân Diệu đã nhiều lần rung động với mùa thu Đây mùa thu tới, Ý thơ, Thơ
duyên…
Trước tiên ở giai đoạn tiếp giáp với Thơ mới, chúng ta có thi sĩ Tản Đà,
nhà phê bình nghiên cứu văn học Hoài Thanh đã nhận định : “Tiên sinh đã cùng
chúng tôi chia sẻ một nỗi khát vọng thiết tha, nỗi khát vọng thoát ly ra ngoài
cái
tù túng, cái khô khan của khuôn sáo” [38,11]. Thi sĩ Tản Đà (1888 – 1939 )
miên man “giấc mộng con” và cảm thu với nỗi ngạm ngùi, thơ thẩn Tản Đà chịu
ảnh hưởng của Nho giáo, có những lúc ông đi tìm cái đẹp trong thầm lặng quý
phái :
“ Trận gió mùa thu phong rụng lá vàng
Lá rơi hàng xóm lá bay sang
Vàng bay mấy lá năm già nữa
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng
Trận gió thu phong rụng hồng
Lá bay tường bắc lá sang đông
28
Hồng bay mấy lá năm hồng kết
Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng không”
( Gió thu )
Tản Đà diễn tả tài tình từ “lá vàng bay” đến “vàng bay mấy lá”, tạo nên
mùa thu trong nỗi buồn xa vắng với cảnh biệt ly lá rơi lác đác. Tình yêu của Tản
Đà tuy nhẹ nhàng nhưng không kém phần đậm đà tha thiết :
“ Lá thu rơi rụng đầu ghềnh
Sóng thu đưa lá bao nghành biệt ly”
(Cảm thu, tiễn thu)
Mỗi độ thu sang, thi sĩ Tản Đà mang tâm trạng man mác buồn, trước
những rơi rụng biến đổi, mai một của thiên nhiên và cuộc đời :
“Từ vào thu đến nay
Sương thu lạnh
Trăng thu bạch
Khói thu xây thành
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh
Sương thu đưa lá bao nghành biệt ly”
( Cảm thu, tiễn thu )
Tương Phố thì khóc thu :
“ Trời thu ảm đạm một màu
Gió thu hiu hắt thêm rầu lòng em”
( Giọt lệ thu )
Sầu thu nặng, lệ thu đầy,
Vi lau san sát, hơi may lạnh lùng,
Ngổn ngang trăm mối bên lòng,
Ai đem thu cảnh họa cùng thu tâm…
( Giọt lệ thu)
29
Giọt lệ thu mở đầu cho lối thơ thê lương, ảo não. Người buồn nên nhìn
cảnh vật đâu cũng buồn, cũng nhuốm màu tê tái, trời thu ảm đạm, gió thu hiu
hắt, sầu thu nặng, lệ thu đầy. Lòng người ngổn ngang trăm mối.
Chàng đi, đi chẳng trở về,
Thu về, thiếp những tê mê dạ sầu!
( Khóc thu hận)
Người nhớ người, người nhớ cảnh, lòng sầu ảm đạm day dứt không
nguôi...Đến với Hàn Mặc Tử (1912 – 1940 ), định mệnh tàn khốc đã làm ông
đau khổ vì căn bệnh nan y không thể chữa lành. Nên thơ của ông như những
tiếng cười đau xót thì thầm :
“ Ấp ứng không ra được nửa lời
Tình thu bi thiết lắm thi ơi!
“Vội vàng cánh nhạn bay đi trớt
Hiu hắt heo may thoáng lại rồi
Nằm gắng đã không thành mộng được
Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi
Ngàn trùng bóng liễu trông xanh ngắt
Cảnh sắp về đây mắt lệ rơi” .
( Buồn thu )
Thật là những lời thơ sầu não và đầy tình tứ, ai có thể tưởng tượng rằng
Hàn Mặc Tử chính là một nhà Tây học. Câu thơ thứ hai vang lên thật thảm thiết,
tê tái cõi lòng. Mùa thu đến với thi nhân trong âm thầm kín đáo, mang một chút
buồn man mác.
Ngồi ở bến đò vào một chiều thu nhạt nắng, trông theo ngọn gió thổi qua
rừng, làm rơi rụng những chiếc lá mùa thu, lá mùa thu, gợi cho viễn khách một
nỗi
buồn bâng quơ. Bỗng đâu đây văng vẳng lời ca réo rắt nghe rụng rời cõi lòng ai,
nhất là cõi lòng của viễn khách lỡ chuyến đò ngang vào một buổi chiều thu :