Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Mùa thu trong thơ Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư và Quách Tấn
9,248
571
111
10
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tài liệu tham khảo vận dụng cho
việc học tập , nghiên cứu và giảng dạy ngữ văn trong nhà trường.
6.2. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn có 3
chương :
Chương 1: Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam
Chương 2 :Cảm nhận về mùa thu trong thơ Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư và Quách
Tấn
Chương 3: Cách tân trong nghệ thuật
11
CHƢƠNG 1
MÙA THU NGUỒN CẢM HỨNG LỚN CỦA THƠ CA VIỆT NAM
1.1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật
Mùa thu mùa của thi ca là mùa rất dễ khơi gợi những cảm xúc, những
chắc ẩn trong lòng người, là khoảng thời gian mà chúng ta muốn hít căng vào
lồng ngực những hương thơm dịu mát đang luồn lách trong kẽ lá, nhành cây để
thấy mình cần thổ lộ, bộc bạch những tình cảm trắc ẩn. Phải chăng đây là lúc
những giai điệu đẹp đẽ của mùa thu muốn nhảy nhót lên cùng những xúc cảm
của lòng người. Mùa thu người ta thấy mình trở về với chính mình, trở về với
những cảm xúc thật nhất, đẹp nhất. Chính vì vậy song song với những bức tranh
về mùa thu là những ca khúc , những giai điệu tuyệt vời về mùa thu. Đó là
những nốt nhạc đầu tiên trầm buồn, xa vắng mênh mông như tiếng thở của gió.
Những giai điệu ấy, như đưa bước chân chúng ta lặng lẽ tìm về với một niềm
hoài niệm xưa. “Mùa thu chết”; “Mùa thu cho em”, “Không còn mùa thu” ; “
Tiếng thu” hay “Thu quyến rũ”; “ Suối Mơ” …đều là những tuyệt phẩm viết về
mùa thu mà khi được cất lên, giai điệu của chúng có thể khiến bao thế hệ người
nghe phải vỡ òa cảm xúc.
Hầu hết các nhạc sĩ Việt Nam đều có ít nhiều nhạc phẩm viết về mùa thu.
Cố nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác nhiều nhạc phẩm có giá trị và phổ nhạc bài thơ
của thi hào Guillaume Apollinaire Mùa thu chết, do thi sĩ Bùi Giáng dịch sang
Việt ngữ :
“ …Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
12
Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo
Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em
Vẫn chờ em, vẫn chờ em, vẫn chờ
Vẫn chờ…….đợi em ”.
( Mùa thu chết – Phạm Duy )
Nhạc phẩm là nỗi day dứt nói lên những thương nhớ khôn nguôi của một
mùa thu tàn úa, những ai oán, tiếc thương của người tình vẫn chờ đợi sự trở lại
của mùa thu yêu thương cho nhau.
Hơn hai mươi năm chiến tranh Việt Nam khốc liệt, trong gió chiều ảm
đạm, đìu hiu, và những chiếc khăn tang của những ngưởi thiếu phụ với nước mắt
mùa thu :
“ Nước mắt mùa thu khóc ai trong chiều
Hàng cây trút lá, nghĩa trang đìu hiu
Từng chiếc, từng chiếc lệ khô vàng héo
Buồn thương từng kiếp nằm trong mộ héo tên người đời quên
Nước mắt mùa thu khóc than triền miên
Nước mắt mùa thu khóc than đêm dài
Mùa thu chơi vơi tiếng mưa buồn rơi ” .
( Mùa thu chết – Phạm Duy )
Nước mắt đã rơi khi mùa thu về trong buổi chiều thu buồn bã, cảnh vật
nơi đây dường như tan tác cõi lòng. Quả thật, bản nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy đã
vang lên những nốt nhạc thấm đẫm nỗi buồn và nước mắt trong buổi chiều mùa
thu đìu hiu và cô quạnh .
Tình cảm dành cho mùa thu được nhạc sĩ Ngô Thụy Miên thể hiện vừa lãng
mạn, lại vừa kín đáo nhưng vẫn có sự nồng nàn trong các tình khúc của mình.
13
“... Anh có nghe mùa thu mưa giăng lá đổ
Anh có nghe nai vàng hát khúc yêu đương
Và anh có nghe khi mùa thu tới
Mang ái ân, mang tình yêu tới
Anh có nghe hồn thu nói mình yêu nhau nhé...
(Mùa thu cho em” -nhạc sĩ Ngô Thụy Miên)
Khi mùa hè với cái nắng gay gắt qua đi, mùa thu đến đem theo những cơn
gió heo may dịu dàng, những con đường tràn ngập lá vàng rơi và cả khúc yêu
thương của những trái tim “ vương màu xanh mới ”. Đó chính là lời nhắn nhủ
mà nhạc sĩ Ngô Thụy Miên gửi gắm trong ca khúc Mùa thu cho em. Lời ca bay
bổng, giai điệu ngọt ngào mang âm hưởng những năm 1970 mỗi khi vang lên
như khẽ nhắc nhở người nghe rằng mùa thu đã sang rồi. Cô gái trong bài hát đã
nhờ vẻ đẹp “má hồng”, “môi em thơm nồng” của mùa thu để bày tỏ tình yêu của
mình một cách ý nhị. Khi thiên nhiên, đất trời thay áo mới, con người cũng
khoác lên mình một tâm hồn mới, đầy ắp yêu thương và hy vọng.
Nhắc tới mùa thu, hầu như ai cũng hình dung ra sắc vàng. Đó là màu của
những chiếc lá rơi bên thềm, của ánh trăng khuya và cũng là màu vàng tê tái của
những ký ức tươi đẹp đã qua, chìm khuất tận nơi chân trời.
“... Không còn mùa thu, trăng rơi bên thềm
Không còn lời ru, mơ trên môi mềm
Em thơ, như mùa xuân đầu, nối dài đêm sâu
Anh làm mùa thu, cho em mơ màng...”
“Không còn mùa thu” (nhạc sĩ Việt Anh)
Ngoài vẻ đẹp quyến rũ làm xao xuyến lòng người, mùa thu với những lời
ru, ánh trăng thề, những con đường hiu quạnh còn đem lại cảm giác buồn man
mác. Đó là sự hoài niệm về những gì đã qua, về mối tình cũ đã chìm trong quá
14
khứ. Mùa thu đến và đi quá đột ngột, cũng giống như chuyện tình dang dở của
cô gái trong ca khúc Không còn mùa thu, để lại bao nuối tiếc và thương nhớ.
Những ký ức về cuộc tình cũ cứ hiện về trong tâm trí của cô gái ấy mỗi độ thu
sang.
Có một mùa “ Thu quyến rũ” đã được Đoàn Chuẩn- Từ Linh cảm nhận thế này
“… Anh mong chờ mùa thu
Dìu thế nhân vào chốn thiên thai
Và cánh chim ngập ngừng không muốn bay
Mùa thu quyến rũ anh rồi…”
“Thu quyến rũ”
(nhạc sĩ Đoàn Chuẩn - Từ Linh)
Ca khúc góp mặt từ năm 1950 nhưng cho đến nay, những câu hát ngập
tràn cảm xúc của Thu quyến rũ vẫn khiến bao thế hệ người yêu nhạc Việt Nam
đắm chìm vào một không gian lãng mạn, ngả mình trên câu hát khi mỗi độ thu
về. Vẻ đẹp của đất trời khi “ngả màu xanh lơ”, khi đàn bướm vui đùa trên những
bông hồng, khi “mây bay về nơi cuối trời” đã khiến người nhạc sĩ “tức cảnh sinh
tình”. Thu trở nên quyến rũ và đẹp hơn bao giờ hết qua lời kể của một chàng
lãng tử si tình đã “trót yêu” tà áo xanh rực rỡ mà mùa thu tự khoác lên mình.
Là người nổi tiếng với tính cách phong lưu, hào hoa và ông đã đem cái
“chất” ấy vào trong các tác phẩm của mình. Đoàn Chuẩn sáng tác không nhiều
nhưng mỗi bài hát của ông lại gắn với một giai thoại khác nhau và chủ yếu là về
mùa thu vì “đó là mùa của tình yêu”.
Mùa thu còn đưa chúng ta vào thế giới của mộng, của mơ, của thương của
nhớ, làm rung động lòng người, như gợi một niềm luyến tiếc, xa xôi. Mùa thu đã
đưa tên tuổi của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ( 1939 – 2001) gắn với nhạc khúc Nhìn
những mùa thu đi với nỗi lòng chia tay, nuối tiếc :
15
“ Nhìn những mùa thu đi
Em nghe sầu lên trong nắng
Và lá rụng ngoài song
Nghe tiếng mình vào quên lãng
Nghe tháng ngày chết trong thu vàng ”
( Nhìn những mùa thu đi – Trịnh Công Sơn)
Chúng ta bắt gặp mùa thu lãng mạn bay bổng trong âm nhạc của Văn Cao.
Bước vào âm nhạc Việt Nam với ca khúc Suối mơ lúc 16 tuổi, Văn Cao đã
nhanh chóng đưa mùa thu gắn liền với những giấc mơ, khát vọng thuộc về tâm
hồn và sự sáng tạo của con người :
“ Suối mơ bên rừng thu vắng, dòng nước trôi lững lơ ngoài nắng, ngày
chưa đi sao gió vương, bờ xanh ngắt bóng đồi c ây thùy dương ”.
( Suối mơ – Văn Cao )
Đó là tâm trạng cô đơn trong đêm mùa thu. Nghe mùa thu đang rơi theo lá
vàng, để rồi từ đó ông dâng tặng đời những mùa thu chan chứa khát vọng tình
người :
“ Suối mơ !
Nghe rừng heo hút
Dòng êm đưa lá khô già trút
Còn như lưu hương yêu dấu
Với suối xưa trời nơi đâu
Từng hẹn mùa xưa càng xây nhà bên suối
Nghe suối róc rách trôi hoa lừng hương gió ngát
Đàn nai đùa trong khóm lá vàng tươi ” .
( Suối mơ – Văn Cao )
16
Mỗi khi thưởng thức nhạc phẩm của Văn Cao, nghe hơi thở Đường thi lẩn
khuất trong từng lời ca. Mùa thu của Văn Cao thật mơ màng và huyền diệu. Qua
âm nhạc của Văn Cao, chúng ta thấy mùa thu luôn làm xao xuyến trái tim người
nghe bởi tiếng lòng tha thiết, cùng những ca từ rất sâu lắng với những giai điệu
mượt mà. Đồng thời lắng nghe tiếng thu bằng âm nhạc của Văn Cao, chúng ta
có thể cảm nhận được trong những ca từ tiếng Việt được thăng hoa. Với mùa
thu, âm nhạc của Văn Cao là một dòng chảy riêng trong nền âm nhạc Việt Nam,
dòng chảy ấy luôn hướng về thiên nhiên và con người. Trên con đường nghệ
thuật của Văn Cao, mùa thu luôn là nguồn cảm hứng kì diệu nhất, là đối tượng
thẩm mĩ tuyệt vời nhất để ông sáng tác lên những giai điệu bất hủ .
Đặc biệt thi phẩm Tiếng thu của Lưu Trọng Lư đã cho chúng ta thấy một
hình ảnh vô cùng đẹp đẽ người cô phụ Việt Nam trông ngóng kẻ chinh phu trở
về từ một chiến địa xa xôi. Đó là hình ảnh đáng khâm phục của bao người phụ
nữ Việt Nam trong suốt dòng lịch sử của dân tộc. Thi phẩm Tiếng thu được nhạc
sĩ Lê Thương phổ nhạc, với nhịp chậm 4/4, hợp âm Pha trưởng :
“ Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô “ .
( Tiếng thu – Lưu Trọng Lư )
17
Một mùa thu thôi nhưng vô số những cách nhìn, những cảm nhận thật
tươi mới, tinh tế và đặc sắc đã ghi vào lòng người những âm hưởng vô cùng đẹp
đẽ của mùa thu. Với những âm thanh và nhạc điệu thật mền mại và uyển
chuyển, các nhạc sĩ đã tạo nên những bản nhạc mùa thu du dương và tràn đầy
xúc cảm. Những bản nhạc ấy luôn đi cùng thời gian và năm tháng. Đó là những
bản tình ca bất hủ về mùa thu .
1. 2. Mùa thu trong thi ca
Một chút gió heo may đã lành lạnh hắt hiu đủ cho lòng chúng ta chùng
xuống với chiếc lá rơi nhẹ trên mặt hồ tĩnh lặng như gương. Dẫu không nhìn
thấy đâu đây “Một chiếc lá ngô đồng vừa rơi, mọi người đã nhìn thấy mùa thu
trở về” (Ngô đồng nhất diệp lục. Thiên hạ cộng tri thu). Chỉ thấy sương khói xây
thành cũng đủ cho lòng nhau se sắt đón thu sang. Đã hơn hàng tỷ năm từ khi có
sự hiện hữu trái đất này trong vũ trụ mênh mông, mùa thu đã ra đi và trở lại
biết
bao nhiêu tỉ lần theo chu kỳ tu ần hoàn của tạo hóa. Mùa thu, cái thời tiết lãng
mạn trữ tình của thiên nhiên đã trở thành đề tài tuyệt diệu vô tận trong kho
tàng
văn chương nghệ thuật của nhân loại. Nó đã tạo nên bao nhiêu thi hào, thi bá lỗi
lạc Đông Tây kim cổ. Không có một nhà khảo cứu văn học thế giới nào, tổng
hợp cho hết được những áng văn chương toàn bích ca ngợi mùa thu. Vì hầu như
trong tất cả những thi sĩ của mỗi đất nước khi mới bắt đầu yêu thơ và chọn con
đường sáng tạo thi ca như một nghiệp dĩ cao quý, đều xác quyết không thể nào
từ chối hấp lực tuyệt vời đầy xúc động nghệ thuật của mùa thu. Hàng ngàn năm
trước, khi địa vị của dòng thơ Đường đánh giá là tuyệt đỉnh của nền văn học
Trung Hoa, dòng thơ ấy đã khai mờ từ thời sơ Đường dưới thời Vua Cao Tổ
năm Vũ Đức Nguyên Niên, đến thời kỳ Văn Đường dưới thời vua Chiêu Tuyên
Đế, kéo dài lịch sử Đường thi lên đến cả ngàn năm. Tuy nhiên những bài thơ ca
ngợi mùa thu của Lí Bạch, Vương Duy, Thôi Hiệu, Đỗ Phủ.. cho đến bây giờ
chúng ta có dịp đọc lại vẫn cảm nhận được cái thâm hậu, kỳ tuyệt biết dường
18
nào. Mùa thu là mùa mà các thi nhân đi tìm những vần thơ để sáng tác lên
những tuyệt phẩm bất hủ nghìn năm.
Nhiều thi tài lỗi lạc của thế giới văn chương Tây phương thường được
nhắc tới như : Charles Beaudelaire, Paul Verlaine, Anatole France… đã sáng tác
nhiều thi phẩm ca ngợi mùa thu diễm tuyệt. Chính những trường phái thi ca lãng
mạn, tượng trưng vào cuối thế kỉ 19 ở Pháp, đã tạo nên những âm hưởng sâu
đậm đối với các thi sĩ Việt Nam như : Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Huy
Cận….[47,1]
Mùa thu thời tiết lãng mạn trữ tình của thiên nhiên đã trở thành đề tài
tuyệt diệu và vô tận trong kho tàng văn chương nghệ thuật của nhân loại. Có lẽ
không mùa nào trong năm lãng mạn như mùa thu. Từ lâu mùa thu đã gắn liền
với thi ca, hầu như trong tất cả những thi sĩ của mỗi dân tộc , khi mới bắt đầu
yêu thơ và chọn con đường sáng tạo thi ca, họ đều không thể từ chối sự hấp dẫn
tuyệt vời đầy xúc động của mùa thu. Ở Việt Nam, mùa thu mang đến những
cảnh thật mơ màng, quyến rũ. Trong thiên nhiên mùa thu vừa là nguồn cảm
hứng, vừa là nơi gửi gắm tâm tư, tình cảm của thi nhân. Bước vào thiên nhiên
xưa, là bước vào một thiên nhiên tĩnh lặng, yên bình và thanh vắng trở thành vẻ
đẹp của thiên nhiên trong nghệ thuật cổ điển. Đêm thu, trăng lặn, quạ kêu,
sương đầy trời, hàng phong bên sông, ngọn lửa thuyền chài hắt hiu, nửa khuya
tiếng chuông chùa ngân nga làm rung động sóng nước, Trương Kế đã viết nên
bài thơ để đời:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thu yền
(Phong Kiều Dạ Bạc)
19
Nếu vị tiên thơ đã để lại cho đời những vần thơ bay bổng, lãng mạn thì vị
thánh thơ lại mang duyên nợ với đời qua những trang thơ ai oán, day dứt triền
miên về những cảnh đời đau khổ, bất hạnh. Đỗ Phủ thường đặt nỗi niềm vào
khung cảnh thiên nhiên cao rộng.
Lác đác rừng phong hạt móc sa
Ngàn năm hiu hắt khí thu lòa
Một cảnh rừng mùa thu lạnh lẽo, trắng xóa, bạt ngàn những tuyết và chỉ
toàn là tuyết làm lòng người thêm hiu quạnh. Bao đau đớn, bi thương, bất hạnh
dồn vào cuối cuộc đời của Đỗ Phủ làm tiếng thơ ông sầu thảm và bi lụy như vậy.
Cảnh mùa thu ở đây có vẻ hoành tráng, dữ dội, đúng với phong cách trầm uất và
bi tráng của Đỗ Phủ.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm
Cảnh thu trong thơ xưa có khi được miêu tả qua một số câu thơ trong bài
tứ tuyệt, bát cú đường luật. Nhưng cũng có khi cả bài thơ lại hướng về tả cảnh
mùa thu hoàn chỉnh. Nói về đề tài “ vịnh thu ” trong thơ trung đại Việt Nam,
cũng nghĩa là tìm hiểu quá trình phát triển của nó qua nhiều thế kỉ. Ban đầu,
các
nhà thơ cổ điển Việt Nam “vịnh thu” đã đi theo khuôn mòn sử dụng những hình
ảnh có sẵn trong nguồn thơ Trung Quốc và mang tính ước lệ, tượng trưng. Các
nhà thơ trung đại thường “vịnh thu” ở trạng thái tĩnh và buồn lặng lẽ. Nhà thơ,
nhà phê bình Xuân Diệu có lời khen bài Mùa thu của Ngô Chi Lan, một nữ sĩ
dưới thời Lê Thánh Tông. Xuân Diệu cho rằng bài thơ của bà là “một bước tiến
của thơ, lời văn ở đây trong sáng, liền, thoải mái, không gợi và không có nhạc
điệu” [2.15]. Bài thơ nôm có nhan đề Mùa thu đã thể hiện rõ chủ ý của Ngô Chi
Lan, nhà thơ đã dành trọn cho việc tả cảnh thu :