Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Mùa thu trong thơ Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư và Quách Tấn
9,252
571
111
100
với sự hòa điệu tự nhiên và hài hòa giữa vần và nhịp. Tiếng thu hiệp vần bằng cả
hai hệ thống vần, bằng và trắc (mùa thu, trăng mờ, chinh phu , rừng thu, vàng
khô) vần bằng, và (thổn thức, rạo rực, xào xạc, ngơ ngác) vần trắc. Hệ thống âm
vần ấy, tạo thành hai chuỗi âm thanh hòa quyên vào nhau, đem lại cho bài thơ
một giai điệu mơ màng, quyến rũ. Trong giai điệu đó vần bằng chiếm ưu thế
(32/45 âm tiết), lại có những câu thơ hoàn toàn được viết bởi vần bằng:
“Em không nghe mùa thu”
(Tiếng thu)
Cái nền bằng êm đềm trầm mặc ấy, dường như mang trong mình cà một
bầu không khí bàng hạc, huyền ảo kết hợp với nhịp ngân rung đều đều đã toả ra
trong cõi thu mênh mông của thi phẩm Tiếng thu. Nhưng điều độc đáo của bản
nhạc thu ấy không nằm ở vần bằng mà nằm ở âm trắc. Âm trắc đã tạo nên âm
thanh trầm bổng bởi các từ láy thổn thức, ngơ ngác, rạo rực, xào xạc. Về bản
chất, các từ mang vần trắc đó như đã có phần phá vỡ đi cái không khí bằng lặng,
mơ màng bởi các vần bằng. Nó tạo ra một âm hưởng động, làm bừng dậy cả tâm
trạng xao xuyến, rạo rực, thổn thức trong lòng thi nhân. Sự kết hợp hài hòa giữa
vần bằng và trắc xuyên suốt bài thơ đã làm cho Tiếng thu của Lưu Trọng Lư trở
thành một bản nhạc tuyệt diệu về mùa thu cú ngân vang mãi trong lòng người
đọc.
Tiếng thu đem lại cho nhạc điệu trong thơ Lưu Trọng Lư một khả năng
biến đổi dồi dào, gợi cảm vô cùng, vô tận: “Thơ Lưu Trọng Lư hầu như chỉ là
những bản nhạc thuần túy, những bản nhạc mờ ảo trên nền những bức tranh
cũng mờ ảo, những bản nhạc chìm sâu vào sương mơ”. (Đỗ Đức Hiểu).
Tóm lại Thơ mới là thơ của những tiết tấu âm vang, của những con chữ
biết hát ca và trò chuyện, đó là thơ của sắc màu và âm thanh rộn rã.
101
3.3.3. Ngôn ngữ thơ
Ai có thể vẽ được bức tranh như thế này:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
Văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Thơ là tinh hoa tối cao của ngôn từ
[4.5]. Lấy ngôn từ làm chất liệu thi ca, các thi nhân có ưu thế đặc biệt trong
việc
thể hiện những cái mơ hồ, mong manh nhất mà các loại hình nghệ thuật khác
dường như bất lực. Mỗi một hệ thống từ ngữ có một thế giới tinh thần riêng của
nó.
Nét đặc sắc ở Xuân Diệu là ông đã đưa vào lời thơ mình một hệ thống từ
vựng mới và cách sử dụng từ rất mới. Đó là hệ thống từ vựng mang đầy tính cá
thể hóa, chứ không còn nặng về ước lệ như thơ cổ điển. Thậm chí ông đưa cả
cách diễn đạt câu văn Pháp vào lời thơ của mình. Những cách nói định lượng về
những cái trừu tượng vốn không có trong tiếng việt, bây giờ xuất hiện tong thơ
Xuân Diệu rất nhiều:
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh”
(Đây mùa thu tới)
Hệ thống ngôn từ với cách sử dụng mới mẻ đã khiến cho những câu thơ
của Xuân Diệu trở nên đầy ấn tượng. Nếu trong âm nhạc, âm hình làm cơ sở,
làm chỗ dựa cho toàn bản nhạc, thì ngôn ngữ thơ tạo thế đứng cho toàn bài thơ.
Bằng ngôn ngữ, ngay mở đầu Vội vàng, Xuân Diệu đã thúc giục:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
102
Cho hương đừng bay đi…
(Vội vàng)
Trong lời thơ của thơ cổ điển nói chung rất nhiều điển tích, điển cố với
quan niệm cho rằng càng nhiều điển thì càng uyên thâm, càng hay. Quách Tấn
đã sử dụng điển tích cũ theo mạch cảm xúc, cảm giác vận động theo sự mở ra
hướng về cuộc sống của tâm hồn trong thời đại mới:
“Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng”
(Đêm thu nghe quạ kêu – Quách Tấn)
Ngôn ngữ trong thơ Quách Tấn hàm súc và có sức gợi cảm mạnh, thể hiện
ở cách dùng điển rất riêng. Đó là nét mới sáng tạo, độc đáo của bút pháp thi sĩ
trong viêc dùng điển cố, điển tích.
Trái lại trong lời thơ Xuân Diệu, hệ thống điển tích, điển cố này rất ít. Tuy
ít, song những điển cố nào được sử dụng đều được Xuân Diệu dùng rất sáng tạo,
chứng tỏ ông hiểu điển cố đó nhưng lại không làm theo lối mòn của thơ xưa.
Nếu Xuân Diệu tiếp nhận thế giới bằng cả làn da, thớ thịt với những ham
muốn vô biên, thông qua một hệ thống diễn tả từ ngữ một cách quyết liệt và táo
bạo thì Lưu Trọng Lư cảm nhận thế giới bằng tất cả những rung động thẳm sâu
nhất của tâm hồn mình. Trong Tiếng thu ta dễ dàng nhận thấy, thơ Lưu Trọng
Lư ít khi sử dụng động từ với tính chất là một hành động trữ tình biểu đạt cảm
xúc, tâm trạng mà thường bắt gặp những từ diễn đạt những cảm xúc mong
manh, tinh tế, đậm sắc thái cảm xúc:
“Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực
103
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ”
(Tiếng thu)
Những từ giàu sắc thái, cảm xúc “thổn thức, rạo rực”, đã tâm trạng hóa
Tiếng thu, làm cho thế giới nghệ thuật ấy trở thành thế giới của nỗi niềm xa
vắng, mênh mông.
Là một nhà thơ xuất hiện trong buổi đầu của phong trào Thơ mới, nên
trong hệ thống ngôn từ mà Lưu Trọng Lư sử dụng có một cái gì đó vừa xưa cũ
lại vừa mới mẻ. Bên cạnh đó, chịu ảnh hưởng của thơ ca truyền thống, đặc biệt
là thơ ca Tản Đà, thơ Lưu Trọng Lư có vẻ xưa cũ và còn đây đó có tính ước lệ,
đặc biệt sự xuất hiện của những đại từ nhân xưng được đặt trong trường từ ngữ
mang ý vị cổ xưa: “chinh phu:,”cô phụ”, tạo nên một không khí xa xưa với
những cuộc tình thơ mộng. Điều đáng nói là lớp từ cổ có tính ước lệ ấy không
mang tính tập cổ sáo mòn. Trái lại nó đem lại cho Tiếng thu một không gian đặc
biệt, không gian mộng, cho hồn người, thơ mặc sức phiêu du trong dòng chảy
bất tận. Không chỉ mang vẻ đẹp lãng mạn cổ xưa mà Tiếng thu còn mang hơi
thở của thời đại mới. Có được sức sống ấy là bởi Lưu trọng Lư đã không ngừng
trẻ hóa ngôn ngữ dân tộc. Trong thơ xưa, các nhân vật trữ tình thường xưng: “ta,
thiếp”…Ở Thế Lữ là “cô em”. Đến Lưu Trọng Lư tuy vẫn tồn tại cách xưng hô,
song trong Tiếng thu là “em”. Cách xưng hô ấy nghe gần gũi, trẻ trung, nồng ấm
và hiện đại hơn. Trong thơ của mình, Lưu Trọng Lư không dừng lại ở việc sử
dụng hệ thống từ ngữ hiện đại mà ông còn có khả năng sáng tạo những từ mới,
làm phong phú hơn cho từ vựng của thi ca Việt Nam.
Tóm lại, có thể nói về mặt ngôn ngữ, lời thơ và câu thơ của ba nhà thơ
Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư và Quách Tấn đều có những cách tân quan trọng,
những cách tân ấy đều rất mới mẻ và thể hiện cao độ về sự hiện đại hóa thơ Việt
Nam.
104
KẾT LUẬN
Mùa thu vốn là một nguồn cảm hứng bất tận trong lịch sử thơ ca nhân
loại. Cảm hứng về mùa thu cũng đã trở thành một nguồn thi hứng dồi dào của
thơ ca Việt Nam hàng ngàn năm nay. Cái khoảnh khắc diệu kỳ, tuyệt vời ấy của
thiên nhiên, đất trời mùa thu đã góp phần làm phong phú và sâu sắc cho nhiều
tác phẩm âm nhạc và thi ca Việt Nam. Đến lượt mình, các nhà Thơ mới lãng
mạn giai đoạn (1932-1945) lại có thêm những đóng góp mới vào dòng chảy của
thời gian mùa thu trong truyền thống thơ ca dân tộc. Với cách nhìn, cách cảm
nhận khá mới mẻ và độc đáo về mùa thu, phong trào Thơ mới đã góp phần đưa
lại những sắc màu tươi mới, đa dạng về hình ảnh mùa thu trong thơ ca.
Đóng góp quan trọng nhất của các nhà Thơ mới cho đề tài mùa thu, trước
hết được thể hiện ở sự đổi mới về cách nhìn, cách cảm nhận, cách rung động về
mùa thu. Khác hẳn với thơ ca thời trung đại, những thi sĩ của phong trào Thơ
mới đã thoát ra khỏi những cái nhìn mùa thu mang tính ước lệ, sáo mòn, khuôn
phép đã trở thành công thức rất đỗi thân quen. Các hình ảnh quen thuộc như “lá
ngô đồng rụng, lá vàng rơi, sen tàn cúc nở, gió thu hiu hắt, long lanh đáy nước
in trời”…một thời gian dài đã ngự trị phổ biến trong thơ ca cổ điển, giờ đấy
hiếm thấy có mặt trong phong trào Thơ mới. Thay vào đó, các nhà thơ thời đại
mới như Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Quách Tấn đã trực tiếp nhìn mùa thu bằng
thị giác, nghe thu bằng thính giác, cảm sắc thu bằng xúc giác của chính con
người mình. Hơn thế nữa, họ còn lắng nghe mùa thu bằng cả hồn mình. Bởi thế,
các thi sĩ mới thấy mùa thu rạo rực, thu bâng khuâng, thu xao xuyến, để rồi
thăng hoa thành những câu thơ tuyệt bút:
“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền”
(Đây mùa thu tới- Xuân Diệu)
105
Mùa thu đi vào Thơ mới không chỉ là thu của thiên nhiên, đất trời mà còn
là thu của lòng người, thu của nỗi niềm bâng khuâng. Khoảnh khắc mùa thu hiện
lên trong Thơ mới, có khi mong manh hư ảo như “ánh trăng mờ thổn thức”, có
khi lại xạc xào lá rụng dưới bàn chân của chú nai vàng ngơ ngác (Lưu Trọng
Lư). Tín hiệu mùa thu có lúc được hiện hình thành suối tóc buồn, thành lệ liễu
của người thiếu nữ, có khi lại thê lương, tang tóc như:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”
(Đây mùa thu tới- Xuân Diệu)
Thậm chí nó thấm vào tận cả linh hồn mà thi sĩ đã cảm nhận được như
“rét mướt luồn trong gió” (Xuân Diệu). Tôi rất yêu thích và ấn tượng thật sâu
sắc như một nỗi ám ảnh khôn nguôi với hai câu thơ viết về mùa thu của thi sĩ
Quách Tấn:
“Gió rủ canh đi ngàn liễu khóc
Sông đùa lạnh tới bóng trăng run”
(Bên sông đưa khách)
Thật là kì tài, diệu bút, câu thơ thật là mới dường như chưa bao giờ xuất
hiện trong thơ ca Việt Nam trước đó. Cảm nhận mùa thu như thế là hoàn toàn
mới mẻ và cũng thật sâu sắc. Các nhà Thơ mới thật xứng đáng là những người
đã làm nên một cuộc cách mạng rất ngoạn mục về đề tài mùa thu trong lịch sừ
thơ ca Tiếng Việt.
Mùa thu đến với tâm hồn các nghệ sĩ trong phong trào Thơ mới cũng
chính là mùa nở rộ của thơ ca hiện đại Việt Nam. Bởi cái khoảnh khắc tuyệt mỹ
này của đất trời tràn đầy sức quyến rũ. Nó như thổi sự sống vào tâm hồn các thi
nhân, để rồi gợi nhớ, gợi thương, gợi vui, gợi buồn, làm thức dậy cả một chân
trời khao khát trong lòng người nghệ sĩ. Do vậy, mà từ hàng ngàn năm nay, thơ
106
ca viết về mùa thu đã trở thành một dòng chảy liên tục chưa bao giờ ngừng nghỉ.
Với các nhà Thơ mới (1932-1945), dường như thi sĩ nào cũng có một đôi câu,
một đôi bài viết về mùa thu. Trong khuôn khổ hạn hẹp của một luận văn, người
viết đã chọn ba bài thơ khá tiêu biểu để nghiên cứu đề tài này, nhằm khẳng định
những đóng góp mới mẻ của họ vào kho tàng truyền thống của thơ ca viết về
mùa thu. Nếu có dịp, chúng tôi sẽ trở lại đề tài này một cách sâu rộng và hoàn
thiện hơn.
107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Duy Bình (1983), Dạy văn dạy cái hay cái đẹp, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
2. Xuân Diệu (2000), Bình luận các nhà thơ cổ Việt Nam, Nxb Trẻ.
3. Phan Huy Dũng (2009), Tác phẩm văn học trong nhà trường phổ thông-
một góc nhìn, một cách đọc, Nxb Giáo dục, Hà Nội
4. Lê Tiến Dũng ( 1996), Những cách tân nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
giai đoạn (1932-1945), Luận án tiến sĩ ngữ văn.
5. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu thơ trữ tình, Nxb văn học.
6. Phan Cự Đệ (1982), Phong trào Thơ mới (1932-1945),Nxb Khoa học
xã hội.
7. Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại,
Nxb Giáo dục.
8. Hà Minh Đức (2002), Một thời đại trong thi ca, Nxb ĐHQG Hà Nội
9. Quách Giao (sưu tầm và tuyển chọn, 1994), Quách Tấn qua cái nhìn phê
bình văn học, Nxb Trẻ TP HCM.
10. Bích Hà (tuyển chọn và giới thiệu, 2006), Xuân Diệu một cái tôi khao
khát nồng nàn, Nxb Hội nhà văn.
11. Lê Bá Hán, Lê Quang Hưng, Chu Văn Sơn (1998), Tinh hoa Thơ mới
thẩm bình và suy ngẫm, Nxb Giáo dục.
12. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1998), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Giáo dục.
13. Nguyễn Thái Hòa(2004), Vấn đề đọc hiểu và dạy đọc hiểu, NxbThông tin
Khoa học Sư phạm Hà Nội.
108
14. Nguyễn Trọng Hoàn (2006), Một số ý kiến về đọc hiểu văn bản Ngữ văn
ở trường phổ thông, Tạp chí Giáo dục, (143).
15. Nguyễn Thanh Hùng (2008), Đọc - hiểu tác phẩm văn chương trong nhà
trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
16. Hoàng Đức Huy (2009), Bản đồ tư duy - Đổi mới dạy học, Nxb Đại học
quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
17. Lê Quan Hưng (1997), Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu, Luận án tiến
sĩ khoa học Ngữ văn
18. Mai Hương (sưu tầm và biên soạn, 2000), Thơ Lưu Trọng Lư và những
lời bình, Nxb Văn hóa thông tin.
19. Nguyễn Thị Thanh Hương (2001), Dạy văn ở trường phổ thông, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
20. Trần Thị Phong Hương, Thích Phước An, Trúc Như (2007), Quách Tấn
thiên nhiên và quê hương, Nxb Hội nhà văn.
21. Nguyễn Hoành Khung (chủ biên), Nguyễn Đăng Mạnh, Đinh Thu Hương
biên soạn ( 1994), Thơ Việt Nam (1930-1945), Nxb Văn học.
22. Lê Đình Kỵ (1998), Thơ mới những bước thăng trầm, Nxb TP HCM.
23. Phan Trọng Luận (chủ biên,2004), Phương pháp dạy học văn (Quyển 1),
Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
24. Phan Trọng Luận (chủ biên, 2004), Phương pháp dạy học văn (Quyển 2),
Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
25. Lưu Trọng Lư (1992), Tiếng thu, Nxb Hội nhà văn, hội nghiên cứu và
giảng dạy văn học TP HCM.
26. Phương Lựu (chủ biên,2000), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.
109
27. Nguyễn Văn Long (sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu), 1987, tuyển tập
Lưu Trọng Lư, Nxb Văn học.
28. Nguyễn Văn Long (1999), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb
Giáo dục.
29. Nguyễn Lộc (2005),Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ 18 đến hết thế
kỷ19, Nxb Giáo dục.
30. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật nhà
văn, Nxb Giáo dục.
31. Nguyễn Xuân Nam (2001), Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường: Chế
Lan Viên, Huy Cận, Nxb Giáo dục.
32. Lữ Huy Nguyên (sưu tầm và tuyển chọn, 2008), Xuân diệu thơ và đời,
Nxb Văn học.
33. Vũ Ngọc Phan (phê bình văn học, 1989), Nhà văn hiện đại tập 2, Nxb
Khoa học xã hội.
34. Nguyễn Đức Quyền(2000), Bình giảng bình luận văn học, Nxb Giáo dục.
35. Chu Văn Sơn (2003), Ba đỉnh cao thơ mới (Nguyễn Bính, Xuân Diệu,
Hàn Mặc Tử), Nxb Giáo dục.
36. Trần Đình Sử (1997), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục.
37. Trần Đình Sử (2002), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại, Nxb Văn
hóa thông tin.
38. Hoài Thanh, Hoài Chân (1998), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn hóa
thông tin.
39. Hoài Thanh, Lê Tràng Kiều, Lưu Trọng Lư ( đồng chủ biên,(1999), Văn
chương và hành động, Nxb Hội nhà văn.
110
40. Lưu Khánh Thơ (tuyển chọn, 2000), Xuân Diệu về tác gia và tác phẩm,
Nxb Giáo dục.
41. Tuấn Thành, Anh Vũ (2005), Nguyễn Khuyến tác phẩm và lời bình, Nxb
Văn học.
42. Quách Tấn (2003), Hồi ký Quách Tấn, Nxb Hội nhà văn.
43. Quách Tấn ( 2006), Quách Tấn tuyển tập thơ, Nxb Hội nhà văn.
44. Nguyễn Quốc Túy ( 1994), Thơ mới bình minh thơ Việt Nam hiện đại,
NXb Văn học.
45. Trần Thị Mỹ Tân (2004), Báo cáo khoa học, Hình tượng cái tôi trữ tình
trong tập thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, Đại học sư phạm Hà Nội.
46. Nhiều tác giả, Thơ Xuân Diệu và những lời bình (2003) , Nxb Văn hóa
thông tin.