Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn hoá Việt Nam: Hát xoan ở xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ với vấn đề giáo dục ở trường phổ thông
6,767
769
105
14
chiêng, múa mời, trống đu, múa chuông… đã làm nên sự phong phú trong đời
sống văn hóa tinh thần của người dân vùng Đất Tổ. Nó được gìn giữ nâng cao
các giá trị từ đời này qua đời khác trở thành di sản quý giá góp phần bồi đắp
cho nền văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam thêm phong phú, đa sắc.
Phú Thọ còn có các loại hình di sản văn hóa phi vật thể nổi tiếng khác
như: Xoan, Ghẹo, Trống quân, Trình nghề, Chàm thau, Đâm đuống, múa Tùng
dí, múa Mời, múa Chuông... của đồng bào các dân tộc. Về ẩm thực có các món
ăn đặc sắc của các dân tộc như: Xôi ngũ sắc, lợn thui, cá đốt, bánh tai, bánh
chưng, bánh giầy... đã khẳng định thêm một lần nữa những dấu tích văn hóa,
tín ngưỡng, cuộc sống, phong tục tập quán vô cùng phong phú của các dân tộc
anh em sinh sống trên địa bàn tỉnh.
1.2. Khái quát về Hát Xoan
1.2.1. Khái niệm
Các cách hiểu về hát Xoan từ trước đến nay đều thống nhất cho rằng: hát
Xoan là hình nghệ thuật độc đáo và đặc biệt bởi sự kết giữa giữa hát, múa và
biểu diễn, đồng thời là một di sản văn hóa bởi lời điệu của hát Xoan mang đậm
tính lịch sử, văn hóa và đời sống tâm linh lâu đời của người dân Việt Nam. Đó
là hình thức âm nhạc cổ, kết hợp được yếu tố văn hóa, lịch sử và nghệ thuật,
độc đáo ở lời ca, giai điệu và làn điệu; chứa đựng nhiều giá trị văn hóa và được
cộng đồng gìn giữ qua nhiều thế kỷ, không bị biến mất trong đời sống hiện đại.
Nói cách khác, Hát xoan hội đủ các yêu cầu cần thiết để được UNESCO
công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Đó là hình thức âm nhạc
cổ, kết hợp được yếu tố văn hóa, lịch sử và nghệ thuật, độc đáo ở lời ca, giai
điệu và làn điệu; chứa đựng nhiều giá trị văn hóa và được cộng đồng gìn giữ
qua nhiều thế kỷ, không bị biến mất trong đời sống hiện đại.
Tiến sĩ Lê Toàn, viện trưởng Viện âm nhạc Việt Nam trong tạp chí Văn
hoá Nghệ thuật, số 2/2000, tr. 7- 9 cho biết: “Theo nhận định của những nhà
nghiên cứu thì Hát Xoan là hoạt hình văn hoá nghệ thuật cổ xưa của người Việt,
15
tàng chứa những tầng văn hoá khác nhau trong đó có âm nhạc, múa, lễ hội, văn
hoá.v.v. Ở lĩnh vực âm nhạc, trong Xoan là hát xướng, xô, đối đáp nam nữ,
không đồng giọng mà hát cách nhau quãng 4, quãng 5. Về thanh nhạc, tính theo
triết học âm nhạc, ngôn ngữ âm nhạc giữa phần thanh nhạc của giọng nam và
giọng nữ và sự đặc biệt đó trở thành đặc trưng mà chính các bạn quốc tế đã
phải ngỡ ngàng và đánh giá cao, mặc dù họ không thấy chúng ta hát bè như
trong Xoong hao, hay Earay của người Tây Nguyên. Chính sự cổ xưa, sự đặc
sắc làm nên nét độc đáo của loại hình này”
Ngày 24/11/2011, UNESCO đã công nhận Hát xoan - Phú Thọ là Di sản
văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại với những giá trị cộng đồng
trong việc sáng tạo và truyền dạy từ đời này qua đời khác. Hát xoan là loại hình
dân ca lễ nghi phong tục hát thờ thần với hình thức nghệ thuật đa yếu tố, gồm
có ca - vũ - nhạc, thường được biểu diễn vào dịp đầu xuân, phổ biến ở vùng đất
tổ Hùng Vương - Phú Thọ, một tỉnh trung du Việt Nam. Hát xoan còn được gọi
là khúc môn đình (hát cửa đình), tương truyền có từ thời các vua Hùng. Hát
Xoan còn được gọi là Khúc môn đình (hát cửa đình), là lối hát thờ thần và
thường được tổ chức vào mùa xuân để đón chào năm mới. Hát Xoan có 3 hình
thức: Hát thờ cúng các vua Hùng và Thành hoàng làng; hát nghi lễ cầu mùa tốt
tươi, cầu sức khỏe và hát lễ hội là hình thức để nam nữ giao duyên. Hiện nay cả
bốn phường Xoan cổ là An Thái, Phù Đức, Kim Đới và phường Thét đều nằm
ở 2 xã Kim Đức và Phượng Lâu thuộc thành phố Việt Trì.
Sau khi Hát Xoan Phú Thọ được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa
phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại, việc khôi phục và duy trì thường
xuyên hoạt động của bốn phường Xoan gốc được các cấp, các ngành trong tỉnh
đặc biệt quan tâm. Nhiều hoạt động thiết thực trợ giúp cộng đồng nhận diện,
bảo tồn phát huy giá trị di sản đã được triển khai như: Khôi phục miếu Lãi Lèn;
hỗ trợ, trang phục, đạo cụ biểu diễn, duy trì kinh phí hoạt động, tổ chức các
lớp
truyền dạy Hát Xoan; giao lưu giữa các phường Xoan; quảng bá Hát Xoan
16
trong dịp lễ hội Đền Hùng, trên các phương tiện truyền thông Trung ương và
địa phương; đưa chương trình học Hát Xoan vào trường phổ thông các cấp...
Nhờ đó, đã làm cho nhận thức của cộng đồng về Hát Xoan dần được nâng cao,
không gian Hát Xoan được mở rộng... Với những nỗ lực trên, Phú Thọ đã thành
công trong việc đưa Hát Xoan ra khỏi tình trạng bảo vệ khẩn cấp và trở thành
di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Hát Xoan Phú Thọ được công
nhận tháng 12/2017 là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
1.2.2. Nguồn gốc của hát Xoan
Việt Nam có rất nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống, mỗi loại hình
lại có nét đặc sắc riêng. Trong số các loại hình nghệ thuật phi vật thể được thế
giới công nhận, hát Xoan là một trong những di sản văn hóa đáng tự hào nhất
của Việt Nam nhờ có lịch sử hình thành rất lâu đời và mang bản sắc rất riêng.
Người dân ở làng Phù Đức xã Kim Đức thành phố Việt Trì còn kể lại câu
chuyện liên quan đến nguồn gốc của hát Xoan rằng: Từ thuở Vua Hùng dựng
nước, một hôm vào buổi trưa ngày 13 tháng chạp, ba anh em vua Hùng đi tìm
đất mở mang kinh đô có đi qua thôn Phù Đức và An Thái dừng chân nghỉ trưa
tại một khu rừng gần thôn. Trong khi ngồi nghỉ, ba anh em Vua Hùng nhìn ra
bãi cỏ trước mặt, thấy có một đám trẻ chăn trâu vừa chơi các trò chơi như
đánh vật, kéo co lại vừa hát những khúc ca nghe rất hay. Thấy vậy, người anh
cả nhà họ Hùng liền bảo hai em dạy các trẻ mục đồng hát một số điệu mà họ
mang theo. Về sau, để tưởng nhớ công lao của ba anh em vua Hùng, hàng năm
cứ đến ngày 13 tháng chạp âm lịch, dân làng lại làm bánh để cúng vào buổi
trưa và cúng thịt bò vào buổi chiều để thờ anh Cả vua Hùng được nhân dân
suy tôn là đức Thánh Cả. Đến ngày mùng 2 và mùng 3 tháng giêng âm lịch,
dân làng Phù Đức mở hội cầu Đức Thánh Cả phù hộ cho “Dân khang, vật
thịnh, mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt”. Trong hội cầu, họ diễn lại cảnh
hát xướng để nhớ lại sự tích các vua Hùng dạy dân múa hát và chơi các trò
chơi dân gian. Do vậy, hội cầu đã trở thành lệ làng hàng năm và bao giờ cũng
17
có trò hát xướng mở đầu trong Tổng tập hát Xoan Phú Thọ,2016, Nxb Sở văn
hóa Phú Thọ [tr 22-25].
Còn người dân làng Cao Mại (nay là làng Cổ Tích) xã Hy Cương huyện
Lâm Thao thì lưu truyền một truyền thuyết như sau: Vợ vua Hùng mang thai đã
lâu tới ngày sinh nở, cứ đau bụng mãi mà không đẻ được. Người hầu nữ thấy
vậy tâu rằng: Có nàng Quế Hoa xinh đẹp, hát hay, múa giỏi. Nên đón về múa
hát để có thể làm đỡ đau và có thể sinh đẻ được. Vợ Vua Hùng nghe lời và cho
mời nàng Quế Hoa đến để hát múa chầu trực bên cạnh vợ Vua Hùng. Nàng
Quế Hoa vâng lời và vào chầu. Khi ấy, vợ Vua Hùng đang lên cơn đau đẻ dữ
dội, bà gọi Quế Hoa vào cạnh giường và múa hát. Quế Hoa trổ tài hát hay,
múa dẻo, tay uốn, chân đưa, người mềm như tơ, tay dẻo như bún, vợ Vua Hùng
và mọi người hầu cận đều rất say mê. Vợ vua Hùng trong khi mải xem nàng
Quế Hoa múa hát nên quên cả đau đẻ và đã sinh hạ được ba người con trai
khôi ngô tuấn tú. Khi ấy đang là mùa Xuân. Vua Hùng thấy thế hết lời khen
ngợi Quế Hoa và truyền cho các mỵ nương học lấy các điệu múa hát ấy để hát
mừng trong dịp lễ hội mùa xuân vì thế được gọi là Hát Xuân, sau này vì kiêng
tên húy của mỵ nương con gái vua Hùng có tên là Xuân Nương (có thể là tên
một nữ tướng của Hai Bà Trưng trong khởi nghĩa năm 40-43) nên phải gọi
chệch là Hát Xoan trong Tổng tập hát Xoan Phú Thọ,2016, Nxb Sở văn hóa
Phú Thọ,[tr 22-25].
Trong cuốn Văn hóa Việt Nam, 2011, Nxb Đại học Văn hóa Hà nội [tr
87-94] tác giả cũng đã nhắc đến một văn bản kể về nguồn gốc của hát Xoan
theo Truyền thuyết Hùng Vương rằng: hát Xoan có từ thời dựng nước với sự
tích, ngày xưa, có ba anh em vua Hùng đi tìm đất qua thôn Phù Đức vào buổi
trưa và có nghỉ lại một khu rừng gần thôn. Từ khu rừng, các vị nhìn ra bãi cỏ
trước mặt thấy có đám trẻ chăn trâu vừa chơi, vừa hát, vừa đánh vật, kéo co.
Thấy vậy, Đức Thánh Cả liền bảo những người đi theo đem những bài hát mà
họ biết dạy thêm cho lũ trẻ.
18
Về sau, cứ hàng năm, đến ngày 30 tháng Chạp âm lịch, dân làng phải làm
bánh nẳng để cúng vào buổi trưa và thịt bò cúng vào buổi chiều ở miếu "Lãi Lèn"
để thờ Đức Thánh Cả (vì dân trong thôn đã đãi Đức Thánh Cả hai món đó).
Tới ngày mồng hai, mồng ba tháng giêng âm lịch thì dân Phù Đức mở
hội cầu, trong hội cầu họ diễn lại cảnh hát xướng, kéo co, đánh vật ở bãi. Lệ
hàng năm phải hát xướng, cầu chúc bắt nguồn từ sự việc ấy, nên hát Xoan còn
được gọi là ca Xoan, hát "Lãi Lèn."
Qua truyền thuyết, chúng ta thấy rằng, hát Xoan có thể được ra đời từ rất
sớm, có thể từ thời Hùng Vương dựng nước Văn Lang với hình thức ban đầu
còn rất sơ khai và nó được dùng làm nghi thức tín ngưỡng trong lễ hội của làng
để cầu đảo Trời đất ban cho mưa thuận gió hoà để mùa màng được tươi tốt,
đem lại cuộc sống ấm no cho muôn dân trăm họ và được tồn tại đến khởi nghĩa
Hai bà Trưng năm 40 đến 43 sau công nguyên. Bằng chứng là tại các địa điểm
có hát Xoan hoặc có liên quan đến Hát Xoan đều có tín ngưỡng thờ tự các Vua
Hùng và các con gái Vua Hùng như Tiên Dung, Ngọc Hoa, Nguyệt Cư và các
con rể, các tướng lĩnh của thời Vua Hùng.
Các làn điệu Xoan cổ đều được bắt nguồn từ những làng cổ nằm ở địa
bàn bán sơn địa thuộc trung tâm bộ Văn Lang thời các Vua Hùng dựng nước.
Nó được ra đời cùng với tín ngưỡng mang tính nguyên thuỷ của cư dân nông
nghiệp trồng lúa nước, đó là tín ngưỡng thờ Trời, thờ Thần, thờ Thánh để cầu
cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, bội thu. Các làng Xoan đều là
những ngôi làng cổ nằm ở vị trí có địa hình bán sơn địa với địa hình đồi, gò
trung du xen kẽ với các tràn ruộng trồng lúa nước rất điển hình thuộc địa bàn
trung tâm của bộ Văn Lang thời các Vua Hùng dựng nước. Đây là một trong
những yếu tố Vị- Thế - Địa rất quan trọng ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến
sự ra đời và tồn tại của các làn điệu và cách thể hiện của hát Xoan. Chính vì
vậy, yếu tố tâm linh là yếu tố quan trọng chi phối đến tính chất của hát Xoan
mang tính nghi lễ phồn thực của cư dân nông nghiệp. Vì vậy, Hát Xoan được
19
hát ở cửa đình thể hiện những lễ tục diễn xướng tế thần linh tại các cửa đình và
được tổ chức hát vào mùa Xuân- Mùa nghỉ ngơi của một chu trình canh tác
nông nghiệp trồng lúa nước hai vụ Chiêm- Xuân qua 12 tháng và 4 mùa Xuân-
Hạ- Thu- Đông, đó chính là nguyên nhân để hình thành các quả cách liên quan
đến bốn mùa Xuân- Hạ- Thu- Đông.
Hát Xoan là tài sản tinh thần của quần chúng nhân dân lao động, nó được
bắt nguồn từ cuộc sống lao động của người nông dân và gắn liền với phong tục,
tập quán của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Đây là yếu tố để hình thành
các quả cách trong lối hát để nói về các nghề trong công nghiệp: Ngư- Tiều-
Canh- Mục. Hát Xoan thể hiện ước nguyện thỉnh cầu của người nông dân đối
với các bậc Thánh, Thần cao siêu mà họ quan niệm rằng đó chính là các bậc cai
quản, ban phát sự may mắn, phong lưu cho bàn dân thiên hạ và gắn liền với vận
mệnh sống còn của họ. Hát Xoan thể hiện đạo lý Vua- Tôi, nghĩa vợ chồng,
đạo làm cha, đạo làm con. Hát Xoan còn là tiếng nói tình cảm thể hiện tâm tư
tình cảm, nguyện vọng và ước vọng, là cầu nối cho sự đoàn kết trong cộng
đồng và quan hệ trên- dưới là mối quan hệ bình đẳng, dân chủ, không phân biệt
địa vị sang- hèn và giàu- nghèo.
Hát Xoan là một nghệ thuật được sinh ra từ tín ngưỡng nông nghiệp
trồng lúa nước nó được ra đời trên miền đất cội nguồn của dân tộc nơi có nhiều
lễ hội dân gian được tổ chức hàng năm vào dịp mùa xuân, do đó nó mang đầy
đủ tính chất của nền văn hoá cội nguồn và cổ xưa nhất. Mặt khác, Hát Xoan
mang đậm yếu tố tín ngưỡng, tâm linh được hát tại đình làng là nơi thờ Thành
Hoàng để thể hiện ước nguyện cầu đảo linh thiêng. Chính vì vậy, Hát Xoan
mang đậm tín ngưỡng thể hiện qua hình thức trình diễn, lời ca và điệu múa thể
hiện như trong thể hát Cài Huê và Mó Cá là diễn xướng thiêng liêng được hát
để kết thúc một cuộc trình diễn Hát Xoan. Họ quan niệm hát Cài Huê, Mó Cá
có ảnh hưởng sâu sắc đến mùa màng, đến sự sinh sôi phát triển giống nòi. Do
vậy, không bao giờ họ bỏ qua hai lối hát đó, vì họ sợ rằng nếu bỏ qua hai lối
hát đó thì dân làng sẽ chịu cảnh mất mùa, đói kém và gặp thiên tai hạn hán
20
hoặc lũ lụt v...v. Vì trong cả hai lối hát này đều có các Đào Xoan và các trai
làng cùng trình diễn để các trai làng bắt lấy đào hoặc các đào bắt lấy trai làng
để tượng trưng cho âm- dương; Nam- Nữ giao phối để sinh sôi nảy nở, vì vậy
các cụ gọi đây là “Âm dương hợp đức” để sinh thành. Trong lối hát Xoan cổ,
Cài Huê, Mó Cá được trình diễn vào thời điểm linh thiêng nhất. Đó là vào lúc
trời gần sáng. Khi mà khí âm còn nặng nề, khí dương mới bắt đầu xuất hiện.
Trời đất bảng lảng giao hòa thì các Đào cùng các Kép bắt đầu trình diễn Mó cá
và vào lúc các Kép bắt các Đào Xoan thì các loại đèn nến trong đình đều phải
tắt hết, chỉ có hương thắp trên Thượng cung.
Có thể nói, một số truyền thuyết về Hát Xoan hiện còn được bảo lưu ở
Phú Thọ là ánh sáng phản xạ về sự hình thành và tồn tại của Hát Xoan trong
tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của các thế hệ cư dân Đất Tổ Vua
Hùng. Mặc dù là truyền thuyết dân gian, nhưng vén đi bức màn huyền thoại,
các truyền thuyết ấy cũng đã ít nhiều cung cấp tư liệu mang tính khoa học để
chúng ta tìm hiểu, nghiên cứu về Hát Xoan Phú Thọ làm căn cứ cho tổ chức
UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, thiết
thực góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản hát Xoan ở Phú Thọ thể hiện
truyền thống và đạo lý “Uống nước nhớ nguồn; ăn quả nhớ người trồng cây”
của dân tộc ta.
1.2.3. Đặc trưng của hát Xoan
Hát Xoan Phú Thọ là di sản văn hóa thuộc loại hình diễn xướng dân gian
gắn liền với Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, một tín ngưỡng bắt nguồn từ
tập quán thờ cúng tổ tiên của người Việt. Hát Xoan còn gọi là Khúc môn đình,
là lối hát thờ thần, thường được tổ chức vào mùa xuân để đón chào năm mới.
Hát Xoan khi trình diễn đầy đủ thường có có 3 chặng hát: Hát thờ - tưởng nhớ
các Vua Hùng, các vị thần, những người có công với dân, với nước; hát nghi lễ
- Ca ngợi thiên nhiên, con người, đời sống lao động sản xuất, sinh hoạt của
cộng đồng qua 14 làn điệu khác nhau (còn gọi là quả cách); hát Hội - lối hát
giao duyên, bày tỏ khát vọng cuộc sống, tình yêu nam nữ với những làn điệu
21
đậm chất trữ tình vui nhộn qua hình thức hát đối đáp giữa các Đào, Kép và trai
gái làng sở tại... Bài bản Xoan được kết hợp hài hòa giữa thơ, nhạc và giọng
điệu. Trên địa bàn tỉnh Phú Thọ hiện còn lưu giữ được hơn 200 bài bản Hát
Xoan tại 4 phường Xoan gốc (An Thái, Thét, Phù Đức và Kim Đái). Các làn
điệu Xoan cổ đều được bắt nguồn từ những làng cổ nằm ở địa bàn trung tâm bộ
Văn Lang, thời các Vua Hùng dựng nước. Hát Xoan là nghệ thuật diễn xướng
với đầy đủ các dạng thức nhạc hát: hát nói, hát ngâm, hát đối và lĩnh xướng.
Trong hát Xoan, múa và hát luôn đi cùng và kết hợp với nhau, dùng điệu múa
để minh họa cho lời ca. “Là nghệ thuật trình diễn cộng đồng, Hát Xoan đáp ứng
nhu 56 cầu giao lưu văn hóa, gắn kết cộng đồng. Khi cùng nhau trình diễn Hát
Xoan, những người thực hành hát Xoan tìm thấy niềm vui trong sự hòa đồng,
tôn trọng lẫn nhau và những nỗi vất vả, phiền muộn được giải tỏa”.
Xoan không chỉ là ca hát tuy ta vẫn thường gọi là hát Xoan mà còn là
nhạc, là thơ, là múa. Xoan là hình thức diễn xướng dân gian tổng hợp và trong
hình thức nghệ thuật đa yếu tố này, yếu tố hát vẫn là chính. Xoan có một
phương thức trình diễn được hình thành từ lâu đời, đó là lề lối của hát Xoan, có
thể nói lề lối là những quy chế truyền thống. Dân ca địa phương nào cũng có
những lề lối của nó. Hát Xoan có các giọng lề lối mở đầu với tính chất là những
bài giáo vào đám, có giọng hát thờ là hát tế lễ. Hát Xoan là hát cửa đình, hát
thờ lễ cho nên không hát ngoài trời như ví hay hát Xoan. Xoan hát trong đình,
trước bàn thờ lung linh đèn nến, thơm ngát hương trầm. Hát Xoan được trình
diễn trong khoảng thời gian từ lúc nông thôn lên đèn cho tới sáng hôm sau qua
đêm tới 3, 4 giờ sáng là tàn cuộc.
Hát Xoan là di sản văn hóa phi vật thể quý báu của vùng đất Tổ Phú Thọ
nói riêng và trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc Việt Nam nói chung. Hát
Xoan là loại hình dân ca nghi lễ, phong tục, là hình thức nghệ thuật đa yếu tố:
Ca nhạc, hát, múa phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng. Hát Xoan có bề
dày lịch sử, có tổ chức nghệ thuật chặt chẽ, không gian văn hóa rộng lớn và sức
22
lan tỏa mạnh mẽ khắp cộng đồng. Với những giá trị nổi bật toàn cầu, ngày
24/11/2011, tại Hội nghị lần thứ 6 của Ủy ban liên chính phủ về Bảo tồn Di sản
văn hóa phi vật thể của UNESCO tổ chức tại Bali - Indonesia, Hồ sơ Hát Xoan
- Phú Thọ của Việt Nam đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của
nhân loại.
Hát Xoan cũng như các hình thức dân ca khác là một hiện tượng của văn
hoá dân gian nói chung và âm nhạc dân gian nói riêng của người Việt ở đồng
bằng Bắc Bộ. Nó đã ra đời và được nuôi dưỡng trong môi trường sinh thái tự
nhiên và môi trường lịch sử- kinh tế xã hội nhiều nghìn năm, ít nhất là khi cộng
đồng người Việt đặt chân cư trứ ở vùng đồng bằng sông Hồng. Trải qua thời
đại các vua Hùng với nhà nước Văn Lang Âu Lạc, thời đại độc lập tự chủ của
nhà nước Đại Việt và thời đại nhà nước phong kiến toàn thịnh dưới triều Hậu
Lê cho đến khi chế độ phong kiến suy tàn ở Việt Nam, vào cuối thế kỷ XIX,
Hát Xoan vẫn hiện diện qua những biến thiên của lịch sử, vẫn tồn tại trong đời
sống tinh thần của dân tộc. Điều đó chứng tỏ sức sống bên trong, sự biến đổi
theo hướng thích nghi để tồn tại của văn hoá dân gian Việt Nam nói chung và
thể loại Hát Xoan nói riêng.
Nghệ thuật hát Xoan là nghệ thuật diễn xướng tổng hợp, hát đi đôi với
múa và nhạc đỡ giọng giữ nhịp. Xoan là hát mà Xoan cũng là múa, là thơ.
Chính Xoan cũng có những câu hát nói lên tính đa yếu tố của mình:
“Lấy nhạc làm thơ
Trước tôi tấu thơ
Sau tôi múa nhạc
Vậy có thơ hát múa rằng”…
[Tổng tập hát Xoan Phú Thọ]
Xoan không chỉ là ca hát tuy ta vẫn thường gọi là hát Xoan mà còn là
nhạc, là thơ, là múa. Xoan là hình thức diễn xướng dân gian tổng hợp và trong
hình thức nghệ thuật đa yếu tố này, yếu tố hát vẫn là chính. Xoan có một
23
phương thức trình diễn được hình thành từ lâu đời, đó là lề lối của hát Xoan, có
thể nói lề lối là những quy chế truyền thống. Dân ca địa phương nào cũng có
những lề lối của nó. Hát Xoan có các giọng lề lối mở đầu với tính chất là những
bài giáo vào đám, có giọng hát thờ là hát tế lễ. Hát Xoan là hát cửa đình, hát
thờ lễ cho nên không hát ngoài trời như ví hay hát Xoan. Xoan hát trong đình,
trước bàn thờ lung linh đèn nến, thơm ngát hương trầm. Hát Xoan được trình
diễn trong khoảng thời gian từ lúc nông thôn lên đèn cho tới sáng hôm sau qua
đêm tới 3, 4 giờ sáng là tan cuộc.
Phong cách hát nói sự trình bày thường là: Một kép ngồi giữa cầm dùi
trống vừa đánh trống vừa “Dẫn cách” còn các cô đào thì hát phụ hoạ bằng cách
nhắc lại nguyên nhạc điệu của một đoạn mà người “dẫn cách” hoặc xen vào
phần đệm.
Xoan là tiếng hát làng chạ, là lễ ca dâng lên thần linh những lời thành
kính, đón rước thần linh về hưởng tế và phù hộ cho làng. Xoan là tiếng hát cầu
chúc, khấn nguyện:
“Hộp chầu, vò nước, nén nhang
Của tôi thành kính dâng vua ngự trên linh sàng
Đọc bài ca chúc tôi kêu thử
Bách bái bạn thần tất hưởng”
(Nhập tịch)
Xoan là tiếng hát từ đình đám và vì làng chạ mà ra, mang khá đầy đủ
những yếu tố cơ bản về ý thức hệ, đời sống tình cảm và phản ánh hiện thực lịch
sử của xã hội: Xã hội của Xoan là xã hội phong kiến nông nghiệp. Đó là xã hội
được tổ chức trên cơ sở một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phân tán, kinh tế
tiểu nông và là xã hội tổ chức theo trật tự phong kiến, chi phối bởi lễ giáo
phong kiến, thống trị bởi nhân sinh quan phong kiến. Cho nên hát Xoan mang
đậm dấu ấn của nhân sinh quan, lễ giáo phong kiến, biểu lộ rõ nét trật tự, kỷ
cương phong kiến.