Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn hoá Việt Nam: Hát xoan ở xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ với vấn đề giáo dục ở trường phổ thông
6,775
769
105
4
về hát Xoan; đề cập đến đặc trưng của hát Xoan, mối quan hệ giữa hát Xoan và
một số hình thức dân ca nghi lễ của vùng trung du, châu thổ Bắc bộ; những đặc
điểm và tính phức hợp về mặt thể loại trong hát Xoan. Tuy nhiên ở công trình
này hát Xoan chỉ được nghiên cứu dưới góc độ văn hóa tín ngưỡng. Đây là tiền
đề cơ sở để tác giả luận văn có những khẳng định những giá trị đặc sắc của hát
Xoan và đưa ra những bàn luận, những hướng đi để bảo tồn và phát huy được
những giá trị của hát Xoan trong điều kiện, tình hình mới.
Công trình Hát Xoan Phú Thọ (1998) [tr 112-114] của tác giả Nguyễn
Khắc Xương với cách tiếp cận của văn hóa dân gian đã phân tích, làm rõ một
số vấn để như: Nguồn gốc và sự phát triển của nghệ thuật hát Xoan; không gian,
thời gian, địa lý hành chính vùng Xoan, truyền thống văn hoá quê hương Xoan;
phương thức trình diễn hát Xoan; ngôn ngữ hát Xoan, các quả cách (làn điệu)
Xoan, trang phục hát Xoan. Ông phân tích rõ mọi đặc điểm của hát Xoan
không chỉ cái cốt lõi là âm nhạc đến hình thức diễn xướng của từng quả cách,
mà còn hiểu rõ mọi tín ngưỡng, phong tục tập quán, lề lối tổ chức làng xã cổ
truyền của người Việt vùng trung du đất Tổ và các tục lệ của nó như: tục lệ đưa
đón, tiếp đãi, tục giữ cửa đình, tục kết chạ, tục tế lễ, tục phường họ… Ở công
trình này hát Xoan được nghiên cứu trong mối quan hệ với âm nhạc chứ chưa
nghiên cứu sâu hát Xoan trong mối quan hệ với văn học.
Công trình Hát Xoan ở Phú Thọ (Xoan singing in Phú Thọ) (2010),
Vietnamese Institute for musicology, Department of Culture, Sports and
Tourism in Phú Thọ province [tr 120-134], là tập hợp các bài viết, bài phát biểu
trong Hội thảo khoa học quốc tế về Hát Xoan do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch phối hợp với UBND tỉnh Phú Thọ tổ chức. Các bài viết tập trung nghiên
cứu về nguồn gốc hình thành, lịch sử phát triển, các giá trị đặc trưng trong
điệu
múa, lời ca của hát Xoan, mối quan hệ giữa hát Xoan với các loại hình dân ca
các tỉnh trung du và đồng bằng sông Hồng như hát hát Xoan, hát trống quân,
hát chèo thuyền. Tác giả Sheen Dea Cheol (Hàn Quốc) và tác giả Xiao Mei
5
(Trung Quốc) đưa ra những so sánh những điểm tương đồng giữa hát Xoan của
Việt Nam với nghệ thuật biểu diễn mừng đầu năm - cuối năm của người Hàn
Quốc và phong cách ca hát của Trung Quốc. Vấn đề bảo tồn, phát huy và phổ
biến hát Xoan trong xã hội ngày nay cũng là một vấn đề được nhiều tác giả đề
cập đến để Hát Xoan giữ mãi được những giá trị đặc trưng đặc sắc và được phổ
biến rộng rãi, có được sức sống lâu bền.
Về các nghiên cứu là bài báo, bài viết có thể kể đến các kết quả dưới đây:
Tiến sĩ Lê Toàn, viện trưởng Viện âm nhạc Việt Nam trong tạp chí Văn
hoá Nghệ thuật, số 2/2000, tr. 7- 9
Tác giả Duy Linh với bài “Sức lan tỏa của làn điệu cổ - Hát Xoan”
(2010), Tạp chí Đất Tổ, số 5, tr. 3-7 đã giới thiệu sức sống và sự lan tỏa của
hát
Xoan qua vị trí, địa bàn hoạt động là trung tâm của di sản hát Xoan và các vùng
lân cận: thôn An Thái (xã Phượng Lâu - TP Việt Trì), thôn Thét, thôn Phù Đức,
thôn Kim Đái (xã Kim Đức - TP Việt Trì) và 17 xã, địa bàn liên quan đến hát
Xoan. Quy mô phát triển của Hát Xoan qua thời gian.
Bài viết “Hát Xoan - Hát Ghẹo dấu ấn một chặng đường”, (2012) của
tác giả Cao Khắc Thùy đã tổng quan về hát Xoan và Hát Ghẹo - một trong
những nét văn hóa đặc trưng thời kì Hùng Vương. Tác giả cũng công bố những
kết quả sưu tầm, nghiên cứu hát Xoan, Hát Ghẹo từ giữa những năm 1950 đến
nay, tác giả cũng đưa ra một số giải pháp nhằm khôi phục, bảo tồn ở các làng
Xoan, Ghẹo gốc và tiếp tục phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Kiến nghị về việc
thành lập các trung tâm sưu tầm, nghiên cứu hát Xoan, Hát Ghẹo.
Trong bài “Lịch sử hình thành và phong tục hát Xoan Phú Thọ”, (2013)
của Cao Văn Định với “Tập san di sản văn hóa Đất Tổ”, số 2, (tr 7-10) có nói
rằng trên mặt trống đồng Hùng Vương có những cảnh người múa hát. Một số
nhà nghiên cứu xem đó là sinh hoạt múa hát Việt Nam thời cổ đại và cho rằng
hát Xoan có nguồn gốc từ đây. Đã có một số bài dựa vào truyền thuyết Hùng
Vương để tìm ra nguồn gốc hát Xoan. Tất nhiên, truyền thuyết có cốt lõi từ lịch
6
sử, là sự thăng hoa của lịch sử. Nhưng truyền thuyết chỉ là truyện dân gian
truyền miệng về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử, thường mang
yếu tố thần kì. Chẳng hạn từ một câu chuyện về một hoàng hậu của Vua Hùng
trong cơn khó đẻ nghe dân chúng múa hát mà dễ bề sinh nở. Vua khen các điệu
múa hát, sai các Mị Nương học lấy để lưu truyền. Lối hát múa này diễn ra vào
màu xuân nên gọi là hát Xoan, chính vì vậy có thể nói hát Xoan có từ thời
Hùng Vương dựng nước.
Cũng đã có một số tác giả đề cập đến vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị của
hát Xoan trong các bài báo của mình như Tác giả Lê Thị Hoài Phương trong
bài “Bảo tồn Hát Xoan (Phú Thọ) gắn liền với không gian thờ cúng Hùng
Vương” (Báo Phú Thọ, năm 2017) đã nghiên cứu vấn đề bảo tồn hát Xoan ở
Phú Thọ gắn liền với không gian thờ cúng Hùng Vương qua việc trả lời và giải
quyết từng câu hỏi: Bảo tồn bằng cách nào? Bảo tồn bằng cái gì? Bảo tồn như
thế nào? Từ những phân tích trên, tác giả đề xuất một số ý kiến mang tính
phương pháp luận như: khôi phục lại càng sớm càng tốt môi trường văn hóa
cho hát Xoan, Việc truyền dạy nghệ thuật hát Xoan, chính sách của nhà nước
hỗ trợ vật chất cho hoạt động này.
Trong công trình “Những giá trị tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú
Thọ”, (Tạp chí Thế giới di sản, số 5, tr 6-7), GS.TS Nguyễn Chí Bền đã giới
thiệu Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương qua góc nhìn lịch sử. Phân tích những
giá trị Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương qua các phương diện: “Ở phương
diện xã hội, giá trị của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là sự thể hiện tính cố
kết cộng đồng, truyền thống đoàn kết dân tộc. Có thể coi tín ngưỡng thờ cúng
Hùng Vương như một sợi chỉ đỏ, nối kết quá khứ với hiện tại, là bệ đỡ tâm linh
cho các thế hệ con người Việt Nam”. Tác giả khẳng định tín ngưỡng thờ cúng
Hùng Vương là một sáng tạo văn hóa của người Việt qua trường kỳ lịch sử,
sáng tạo này mang tầm kiệt tác của nhân loại. Đó là một kho tàng văn hóa dân
gian từ truyền thuyết đến lễ hội, từ ẩm thực đến nghi lễ liên quan đến Hùng
Vương được dân gian sáng tạo và lưu truyền.
7
Như vậy có thể thấy, hát Xoan đã được quan tâm, nghiên cứu khá nhiều
tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu về hát Xoan trong mối quan hệ
với văn học và hát Xoan ở xã Hy Cương trong không gian văn hóa Phú Thọ
gắn với vấn đề giáo dục người học. Tuy vậy, các vấn đề liên quan mà các công
trình nghiên cứu của các học giả đi trước đã đề cập dưới các góc độ và cách
tiếp cận khác nhau sẽ là những thông tin, tư liệu rất hữu ích để chúng tôi tiếp
tục nghiên cứu hoàn thiện với một cách nhìn mới, điều kiện hoàn cảnh mới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là nghệ thuật hát Xoan ở xã Hy
Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ với vấn đề giáo dục ở trường phổ thông
hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi vấn đề: Nghiên cứu dựa trên nội dung và nghệ thuật của các văn
bản hát Xoan mà tác giả sưu tầm được, thực trạng lưu truyền và giáo dục các
bài hát Xoan cho học sinh phổ thông. Một số biện pháp giáo dục hát Xoan cho
học sinh phổ thông trên địa bàn huyện Lâm Thao, Phú Thọ.
Phạm vi tư liệu: Trong luận văn tác giả sử dụng chủ yếu tư liệu điền dã
sưu tầm từ các nghệ nhân đặc biệt từ nghệ nhân Nguyễn Thị Sen hiện cư trú ở
làng Cổ Tích, xã Hy Cương. Ngoài ra, tôi còn sử dụng liệu được sưu tầm, biên
soan trong công trình “Tổng tập hát Xoan Phú Thọ”, 2016, do Sở văn hóa, thể
thao và du lịch Phú Thọ xuất bản [tr 22- 170].
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn được thực hiện nhằm cung cấp thêm cho người đọc có thêm
hững hiểu biết về nghệ thuật hát Xoan ở xã Hy Cương nói riêng và huyện Lâm
Thao, Phú Thọ nói chung, từ đó gây dựng niềm yêu thích và hứng thú của nhân
dân Việt Nam với loại hình nghệ thuật truyền thống quý giá và đặc sắc này.
8
Đặc biệt, đối với đề tài này, người làm nghiên cứu muốn chú trọng đến vấn đề
phát huy, vận dụng hát Xoan trong công tác giáo dục, giảng dạy ở trường phổ
thông trên địa bàn xã Hy Cương, Huyện Lâm Thao. Người thực hiện nghiên
cứu hiểu rằng, muốn phát huy được giá trị văn hóa thì cần việc thay đổi nhận
thức từ gốc rễ, tức là thế hệ trẻ Việt Nam nói chung và thế hệ trẻ ở tỉnh Phú
Thọ nói riêng cần được nâng cao nhận thức, phải tạo niềm đam mê từ phía các
bạn đối với “báu vật” của quê hương.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục tiêu mà nghiên cứu đặt ra, người thực hiện nghiên cứu tự nhận
thấy các nhiệm vụ mà mình sẽ và cần thực hiện để đạt được các mục tiêu trên
như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu một số vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn về hát
Xoan ở ở xã Hy Cương, Lâm Thao, Phú Thọ.
Thứ hai, nghiên cứu, phân tích sâu về nội dung và nghệ thuật của các bài
hát Xoan ở xã Hy Cương, Lâm Thao, Phú Thọ, chỉ ra mối liên hệ giữa nội dung
và nghệ thuật các bài hát với đời sống sinh hoạt, văn hóa của nhân dân.
Thứ ba, khảo sát thực trạng giáo dục, giảng dạy hát Xoan trong các trường
Phổ thông trung học huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ và cuối cùng là đề xuất các
giải pháp nhằm phát huy tối đa việc giáo dục hát Xoan cho thế hệ trẻ trên địa
bàn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp sau:
Phương pháp điền dã văn học: Điền dã văn hóa văn học dân gian để sưu
tầm các bài hát, khảo sát được thực trạng cụ thể về hoạt động giáo dục hát Xoan
ở
xã Hy Cương, Lâm Thao, nhu cầu của học sinh phổ thông về hát Xoan, tạo cơ sở
cho để làm cơ sở nghiên cứu nội dung nghệ thuật để đề xuất một số biện pháp.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở tổng hợp, phân loại tư liệu
điền dã chúng tôi sử dụng phương pháp này để tiến hành phân tích những điểm
nổi bật về giá trị nội dung và nghệ thuật của hát Xoan ở xã Hy Cương. Sau khi
đã phân tích, chúng tôi đưa ra những nhận xét tổng hợp, đánh giá sâu sắc về cả
9
phương diện nội dung, nghệ thuật của hát Xoan ở Hy Cương, đánh giá thực
trạng, nhu cầu của học sinh ở một số trường phổ thông đối với hát Xoan.
Phương pháp so sánh, đối chiếu: Phương pháp này được sử dụng bước
đầu để chỉ ra một số nét tương đồng cũng như khác biệt, nét đặc sắc của hát
Xoan ở xã Hy Cương với hát Xoan Phú Thọ nói chung.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Hát Xoan vốn gắn liền với đời
sống của người dân, không tách rời hoạt động diễn xướng trong dân gian, bởi
vậy, khi tiếp cận hát Xoan ở xã Hy Cương, Lâm Thao, chúng tôi tiếp cận ở
nhiều phương diện, nhiều lĩnh vực, nhiều ngành khoa học khác nhau như âm
nhạc, nghệ thuật, lịch sử, văn hóa, văn học, du lịch, trong mối quan hệ với đời
sống văn hóa tín ngưỡng gắn với tín ngưỡng thờ cúng vua Hùng để có được
những hiểu biết đầy đủ, khoa học nhất về hát Xoan.
6. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình đầu tiên tổng hợp và nghiên cứu sâu về hệ thống các
bài hát Xoan ở xã Hy Cương, đặc biệt trong vấn đề vận dụng hát Xoan vào
công tác giáo dục học sinh phổ thông. Cụ thể tác giả đã sưu tầm thống kê được
23 bài hát Xoan từ các nghệ nhân, đây có thể coi là tư liệu rất đáng quý góp
phần tạo nên diện mạo phong phú cho hát Xoan ở Phú Thọ nói chung. Đề tài
hoàn thành có thể được sử dụng như một nguồn tham khảo cho các nghiên cứu
sau này về hát Xoan ở Phú Thọ nói chung và hát Xoan ở xã Hy Cương nói
riêng. Thực tiễn nghiên cứu cho thấy, hát Xoan dù mang giá trị nghệ thuật và
văn hóa lớn, cần được bảo tồn và phát huy song mức độ đầu tư nghiên cứu, tìm
hiểu và phổ biến kiến thức về loại hình này chưa cao. Số lượng nghiên cứu
chuyên sâu rất ít. Do đó, việc thực hiện đề tài như một loại tài liệu tham khảo
cho những nghiên cứu chuyên sâu sau này là hết sức thực tiễn.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của
luận văn được trình bày trong ba chương:
10
Chương 1: Hát Xoan ở xã Hy Cương trong không gian văn hóa Phú Thọ
Chương 2: Nội dung và nghệ thuật hát Xoan ở xã Hy Cương, huyện Lâm
Thao, Phú Thọ
Chương 3: Hát Xoan với vấn đề giáo dục, giảng dạy ở trường phổ thông
11
NỘI DUNG
Chƣơng 1
HÁT XOAN Ở XÃ HY CƢƠNG TRONG KHÔNG GIAN VĂN HÓA
HUYỆN LÂM THAO, PHÚ THỌ
1.1 Khái quát về xã Hy Cƣơng, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ
Xã Hy Cương nằm ở phía Tây của huyện Lâm Thao, phía đông giáp xã
Kim Đức và phường Vân Phú (TP. Việt Trì), phía Tây giáp xã Tiên Kiên
(huyện Lâm Thao), phía Nam giáp xã Chu Hóa (TP. Việt Trì) và phía Bắc giáp
xã Phù Ninh (huyện Phù Ninh). Xã có diện tích 7,03 km² trong đó có hơn 5,00
km² thuộc khu di tích lịch sử Đền Hùng, dân số năm 2006 là 4.760 người, mật
độ dân số đạt 595 người/km².
Xã Hy Cương được xem là một trong những điểm hành hương quan
trọng của người Việt Nam vì nơi đây có đền thờ và mộ Tổ Vua Hùng. Nơi đây
cũng được xác định như khu vực của trung tâm nhà nước Văn Lang cổ xưa, có
nhiều di tích thờ Hùng Vương, gia quyến và các tướng lĩnh thời Hùng Vương,
là nơi bảo tồn được bản Ngọc phả quý với tên gọi đầy đủ là Hùng đồ thập bát
diệp thánh vương Ngọc phả cổ truyện do Hàn lâm viện Trực học sĩ Nguyễn Cố
biên soạn vào năm Nhâm Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ 3 (1472) đời vua Lê
Thánh Tông, Hàn lâm Thị độc Nguyễn Trọng trùng đính vào năm Canh Tý
niên hiệu Hoằng Định thứ nhất (1600) đời vua Lê Kính Tông và Lễ phiên Lê
Đình Hoan phụng sao. Ngọc phả ghi đầy đủ về 18 đời vua Hùng, còn ghi đầy
đủ danh tính của 100 người con từ bọc trứng do Quốc mẫu Âu Cơ sinh ra. Đây
còn là nơi sản sinh và lưu truyền nghệ thuật Hát Xoan đến tận ngày nay.
Trải qua hàng ngàn năm cư dân Văn Lang đã góp phần xây dựng cơ sở
vật chất, tạo nền tảng dân tộc Việt Nam, nền tảng văn hóa Việt Nam và truyền
thống tinh thần Việt Nam.
Từ lâu đời nay, cư dân Phú Thọ là con cháu người Việt cổ, họ bảo lưu
nhiều phong tục tập quán cổ truyền và tiếp tục truyền thống đấu tranh bảo vệ
độc lập chủ quyền đất nước. Những cư dân nơi đây do giao lưu văn hóa,
12
thương mại và thích ứng với hoàn cảnh để cải tiến công cụ sản xuất, đưa trình
độ sản xuất ngày một phát triển cao hơn… một số vùng đã trở thành nơi đô hội,
có làng nghề đúc, làng nghề gốm, nung gạch, đan lát… Cũng có nơi trở thành
thị trường buôn bán sầm uất. Mặc dù bị bọn đô hộ áp bức nặng nề, nhưng do
cần cù lao động và thông minh sáng tạo, lại biết đùm bọc bảo vệ lẫn nhau, nên
cư dân nơi đây vẫn đẩy mạnh sản xuất, phát triển không ngừng mọi mặt và tiến
bộ nhanh hơn bộ phận dân cư sống biệt lập lâu đời, với nền kinh tế tự cấp, tự
túc ở vùng miền núi.
Từ thế kỷ X trở đi diễn ra sự phân lập người Mường và người Việt.
Người Lạc Việt ở đồng bằng trung du đông hơn, điều kiện phát triển kinh tế
thuận lợi nên đã hình thành dân tộc Việt hiện đại, phân hóa với người Mường
là bộ phận người Lạc Việt sống ở miền núi. Có thể nói con người Phú Thọ là
những cư dân sống lâu đời trên vùng Đất Tổ của đất nước Việt Nam được phát
triển ngày một đông trong quá trình lịch sử. Các thành phần cư dân sống trên
đất Phú Thọ, cơ bản vẫn là làm nông nghiệp, lấy cây lúa nước làm kinh tế chủ
đạo. Trước Cách mạng tháng Tám, nông dân chiếm 99%. Sau cách mạng đặc
biệt từ năm 1954 tới nay, do sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế- xã hội, từ nền nông
nghiệp, chúng ta xây dựng nền công nghiệp xã hội chủ nghĩa, do đó thành phần
công nhân và thị dân tăng lên, nhưng bản thân họ vẫn là người xuất thân từ
nông dân, phẩm chất, phong cách, lề lối làm ăn sinh sống vẫn còn mang nhiều
sắc thái nông dân. Phú Thọ ngoài hai thành phần chủ yếu là người Việt cổ và
người Mường, còn có các thành phần dân tộc Dao, Cao Lan… chiếm số lượng
ít nhưng đã hòa nhập vào cộng đồng các dân tộc Phú Thọ. Đó là sự giao lưu,
đan xen văn hóa tạo nên sắc thái riêng phong phú đa dạng trên cơ sở văn hóa
truyền thống từ thời Hùng Vương. Chính các sắc thái đó ảnh hưởng quyết định
tới sự hình thành truyền thống tinh thần của nhân dân các dân tộc Phú Thọ. Đó
là những phẩm chất tốt đẹp của cư dân vùng Đất Tổ, dòng dõi người Việt cổ
Phùng Nguyên- Đồng Đậu- Gò Mun- Đông Sơn, những con người tham gia
vào công cuộc chinh phục thiên nhiên vùng đất Ngã ba sông từ ngày đầu dựng
13
nước, đã góp phần xương máu vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Họ đã
cùng đồng bào cả nước viết lên truyền thống tốt đẹp: Lòng yêu nước thương
nòi, tinh thần đoàn kết, ý chí kiên cường bất khuất, niềm tin sâu sắc và mãnh
liệt vào tài năng của mình.
Trên một ngàn di tích lịch sử văn hóa, di tích cách mạng kháng chiến lớn
nhỏ, trong đó có trên 300 di tích đã được Bộ Văn hóa và UBND tỉnh xếp hạng
bảo vệ, hiện còn là minh chứng lịch sử hùng hồn, là niềm tự hào của người dân
Phú Thọ. Đặc biệt Khu di tích lịch sử Đền Hùng- nơi có đền thờ Quốc Tổ Hùng
Vương và rất nhiều di tích vừa có giá trị lịch sử, giá trị kiến trúc vừa là nơi
tổ
chức lễ hội truyền thống nhằm giáo dục đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, tôn
vinh người có công dựng nước, giữ nước như: Đình và chùa Hiền Quan, Đình
Hùng Lô, Đào Xá, Hữu Bổ, chùa Xuân Lũng… dưới lòng đất Phú Thọ, hiện tại
còn ẩn chứa bao bí mật, ẩn chứa những thông tin về nền văn minh Việt cổ và
Đại Việt đang từng bước được các nhà khảo cổ học làm sáng tỏ từ văn hóa Sơn
Vi, Phùng Nguyên, Gò Mun, Đồng Đậu, Làng Cả… cách đây mấy ngàn năm.
Vì thế cho tới nay dòng văn hóa dân gian đặc sắc vùng Đất Tổ vẫn không
ngừng phát triển, phản ánh một cách phong phú cuộc sống lao động, sản xuất,
đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Các giá trị văn hóa truyền thống ấy luôn được
các thế hệ lưu giữ qua các truyền thuyết như: Truyền thuyết Hùng Vương,
truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh, các hình thức diễn xướng văn nghệ dân
gian như: hát Xoan ở xã Hy Cương, hát Ghẹo ở Thanh Uyên, Nam Cường; các
trò diễn hội làng: Rước chúa Gái ở Chu Hóa - Hy Cương, trò Trám ở Tứ Xã,
cướp Kén ở Dị Nậu, cướp Phết ở Hiền Quan… và rất nhiều ca dao, tục ngữ,
truyện ngụ ngôn, cổ tích, truyện cười mang đặc trưng quê hương Phú Thọ. Là
trung tâm Nhà nước Văn Lang xưa, nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam,
miền đất Phú Thọ là nơi hội tụ của 21 dân tộc anh em, mỗi dân tộc với một
phong tục tập quán đa dạng cùng các loại hình văn nghệ dân gian phong phú ở
Phú Thọ như: Hát Xoan, Ghẹo, Trống quân, chàm thau, đâm đuống, cồng