Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Quản trị đại học tại các trường đại học tư thục theo mô hình công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay
3,862
678
85
52
2.2.3.2. Những hạn chế của các trường đại học tư thục nói chung và của các
trường đại học tư thục áp dụng quản trị theo mô hình công ty cổ phần nói riêng
Về khả năng thu hút giảng viên, đối với các trường đại học tư thục đó là một
hạn chế, đặc biệt khó khăn đối với những trường mới thành lập hay những trường ở
tỉnh nhỏ. Các trường gặp nhiều khó khăn trong việc tuyển dụng, đào tạo giảng
viên
và cán bộ quản lý; đội ngũ giảng viên trẻ còn mỏng với phần lớn là người mới tốt
nghiệp, ít kinh nghiệm; giảng viên chủ chốt hầu hết là cao tuổi do đa số là các
giảng
viên đã nghỉ hưu từ các trường đại học công lập.
Về đất đai xây dựng trường, theo thống kê của Hiệp hội Các trường đại học
và cao đẳng Việt Nam, đến nay có những trường đại học tư thục thành lập đã trên
20 năm nhưng chưa có đất xây trường, phải đi thuê cơ sở vật chất, trụ sở, văn
phòng
và phòng học.
Về nguồn lực tài chính, trong khi phải đối mặt với tình trạng tự thân vận
động về đất đai, xây dựng, đầu tư cơ sở vật chất thì các trường đại học tư thục
lại
còn hạn chế về các nguồn cung tài chính. Về đầu tư ban đầu, rất hiếm có trường
hợp
một tập đoàn nào lớn được như VinGroup, nên càng hiếm có quyết tâm đầu tư nào
được như Trường Đại học VinUni, đa số các trường đại học tư thục được sáng lập
hoặc mua lại từ những doanh nghiệp có tích lũy vừa phải, hoặc thậm chí có nhiều
trường được đầu tư đơn giản bởi một hay một vài nhà giáo thành đạt, có chút tích
lũy khi về hưu và mang đi đầu tư trường đại học tư thục.
Về công tác tuyển sinh và thu hút sinh viên, phần lớn trường đại học tư thục
đều gặp khó khăn. Đa số các trường đại học tư thục ở tỉnh (ngoài các thành phố
trực
thuộc trung ương), tuyển sinh đều rất khó khăn do dòng chảy tự nhiên của các thí
sinh đổ về thành phố lớn. Một số trường khác tuyển sinh được tốt hơn thì lại quá
chú trọng số lượng chưa quan tâm đúng mức đến chất lượng thí sinh.
Bên cạnh đó, các trường đại học tư thục cũng còn nhiều hạn chế về chất
lượng đào tạo, nội dung và phương pháp dạy học, hoạt động nghiên cứu khoa học.
53
2.2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế và tồn tại ở các trường đại học tư thục nói
chung và của các trường đại học tư thục áp dụng quản trị theo mô hình công ty cổ
phần nói riêng
a) Nguyên nhân khách quan
Việt Nam trải qua một thời gian dài trong cuộc chiến tranh xâm lược và tranh
chấp biên giới, rồi bị cấm vận kinh tế, rồi phải loay hoay với các công cuộc cải
cách
và đổi mới cho phù hợp với tình hình nội tại và chính trị thế giới, cho nên
trường
đại học ngoài công lập đầu tiên của Việt Nam (nếu không tính các trường đại học
tư
ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975) chỉ mới được thí điểm lần đầu năm 1988,
rồi đến 5-10 năm sau đó mới có một thế hệ các trường đại học dân lập đầu tiên ra
đời, trong bối cảnh nhà nước thì còn lúng túng, nhân dân thì còn e dè, và trường
đại
học ngoài công lập thì còn phải làm theo kiểu thử và sai, làm đến đâu hay đến
đó.
Do sống dài qua thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp, đặc điểm tâm lý của
người Việt Nam đã nặng bị động, trông chờ vào nhà nước. Nhiều người sinh ra, lớn
lên, đi học, đi làm đều có tâm lý tìm cho được một nhiệm sở công lập, cho nên
người học và phụ huynh luôn chú trọng đến các trường công lập, và luôn mặc định
rằng trường công lập thì đào tạo chất lượng hơn, bằng cấp có giá trị cao hơn.
Chưa kể, do mặt bằng đời sống kinh tế của người dân chưa cao, nên thí sinh
và phụ huynh thường chọn vào học các trường đại học công lập để có học phí thấp.
Ngày nay, cho dù nhiều trường đại học công lập tự chủ tài chính thu học phí rất
cao;
ngược lại, nhiều trường đại học tư thục địa phương phải thu học phí ở mức thấp
hơn
nhiều trường công lập (do sức ép cạnh tranh về giá và do khả năng chi trả còn
thấp
của sinh viên tỉnh lẻ). Dù vậy định kiến của xã hội vẫn mặc định là ngược lại.
Cho
nên vẫn còn nhiều trường hợp nặng tâm lý trường công cho bằng được.
Đầu tư cho giáo dục đại học tư thục rất cần những nhà đầu tư đủ mạnh. Tuy
nhiên, rất hiếm có những doanh nghiệp tư nhân lớn và ổn định. Các tập đoàn kinh
tế
ổn định của Việt Nam vẫn là các tập đoàn nhà nước với lịch sử và lợi thế của
mình.
Còn các tập đoàn kinh tế tư nhân có sức khỏe khá phập phù, biên độ lên xuống khá
lớn theo nền kinh tế.
54
b) Nguyên nhân chủ quan
Về phía bản thân các trường đại học tư thục, theo Đặng Ứng Vận, thực tế các
trường đại học tư thục đã sử dung mô hình quản trị có địa vị pháp lý như một
doanh
nghiệp, được quản lý như một công ty thương mại cổ phần, theo mục đích vì lợi
nhuận. Do đó, trường đại học tư thục cũng chịu chấp nhận rủi ro trong hoạt động
kinh doanh, có thể bị phá sản, bị giải thể, và cổ đông có quyền tự do chuyển
nhượng
cổ phần, tức là thay đổi chủ đầu tư. Và đó chính là yếu tố dẫn đến tính không ổn
định của các trường đại học tư thục. Các trường có quyền tự trị nhưng chỉ bởi
những người nằm trong thành phần cổ đông và hội đồng quản trị, đồng thời chịu
ảnh hưởng rất lớn của thị trường tuyển sinh và sử dụng lao động.
Về phía nhà nước, cũng chưa có những chỉ tiêu cụ thể để thực hiện mục tiêu
phát triển đại học tư thục. Theo Thái Vân Hà, khuôn khổ pháp lý cho các trường
đại
học đều hướng đến mục tiêu còn chung chung như khuyến khích xã hội hóa đầu tư
giáo dục, tăng tỷ lệ trường ngoài công lập, tiến tới bình đẳng về quyền được
nhận
hỗ trợ của Nhà nước đối với người học ở trường công và tư... [25]. Tuy nhiên,
các
chủ trương chưa được cụ thể hóa thành các chỉ tiêu để có cơ sở cho hành động cụ
thể từ đất đai, nguồn lực đến thuế suất, viện trợ...
Về bình đẳng giữa các trường đại học công lập và trường đại học tư thục, đó
là câu chuyện muôn thuở. Nếu như bất bình đẳng ở văn hóa định kiến của thí sinh,
phụ huynh, người sử dụng lao động… thì chấp nhận như đó là một nguyên nhân
khách quan. Nhưng vẫn còn tồn tại nhiều bất bình đẳng chủ quan từ trong các
chính
sách, pháp luật và áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước. Các trường đại học
công và tư đều làm nhiệm vụ như nhau, nhưng trường đại học công lập được Nhà
nước đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí cho các nhiệm vụ chi
thường xuyên; trong khi đó, trường đại học tư thục không những không được quyền
lợi như đại học công lập mà còn thường xuyên chịu sự phân biệt đối xử từ các
quyết
định hành chính, hợp tác truyền thông, công tác Đoàn - Hội, quan hệ với các hội
nghề nghiệp, cơ quan báo chí…
55
Về tài sản và nguồn vốn, thực tiễn chính sách và thực hiện pháp luật còn
nhiều bất lợi cho các trường đại học tư thục. Việc đầu tư vào đại học tư thục
rất đa
dạng theo nhiều hình thức huy động vốn khác nhau, nhưng pháp luật thực định lại
không đáp ứng được thực tiễn sống động như thế. Ví dụ như:
(i) Với Luật GDĐH 2012, tinh thần “công ty cổ phần” bao trùm toàn bộ nội
dung luật này trong quản trị trường đại học tư thục. Thực tế một số trường đại
học
tư thục có chủ thể góp vốn chỉ là một công ty hay một cá nhân tương tự công ty
TNHH một thành viên, một số khác được đầu tư bởi một số thành viên góp vốn trên
cơ sở hợp tác cùng đầu tư tương tự công ty THHH hai thành viên trở lên, nhưng
các
trường này đều phải bám theo mô hình CTCP để quản trị đại học tư thục như luật
định. Điều này khiến chủ đầu tư phải “biến hóa” để nắm giữ quyền quản trị, từ đó
dẫn đến đến nhiều hệ lụy phức tạp.
(ii) Với GDĐH 2018 thì lại ngược lại. Có thể do yếu tố lịch sử của pháp luật
giáo dục đại học mà thực tiễn hiện nay có rất nhiều trường đại học tư thục đã
đầu tư
và đang quản trị theo mô hình công ty cổ phần một cách thực chất, từ đại hội
đồng
cổ đông cho đến hội đồng quản trị, từ cổ phần cho đến cổ tức. Vậy mà đến Luật
GDĐH 2018 lại quy định rằng “quy chế tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục
đại học phải quy định cụ thể về … việc lựa chọn áp dụng quy định của pháp luật
liên quan về công ty TNHH … để giải quyết những vấn đề trong cơ sở giáo dục đại
học mà Luật GDĐH chưa quy định”. Đây là một quy định đảo chiều rất khó hiểu so
với Luật GDĐH 2012. Tại sao cứ phải là “pháp luật liên quan về công ty TNHH”
trong khi thực tiễn đầu tư và quản trị trường đại học tư thục đã, đang, và sẽ
phải
được quyền sử dụng nhiều hình thức khác nhau phù hợp với thực tế của riêng mình.
Về khả năng tiếp cận vốn, một trường đại học tư thục dù là vì lợi nhuận hay
không vì lợi nhuận thì bản chất của một trường đại học hoạt động giáo dục không
thể giống và không thể vị lợi hoàn toàn như một doanh nghiệp kinh doanh các
ngành nghề khác. Vì thế khoản tín dụng nào ưu đãi là hợp lý và cần thiết, thế
nhưng
thực tế Nhà nước chưa có một khoản nào như thế cho các trường đại học tư thục.
Thay vào đó, trường đại học tư thục phải huy động vốn theo thỏa thuận cao hơn
“lãi
56
suất trái phiếu chính phủ” và hạch toán lãi suất vào chi phí, thêm gánh nặng cho
trường, cho nhà đầu tư, cho học phí của sinh viên, làm giảm tính cạnh tranh của
trường đại học tư thục.
Tiểu kết chương 2
Trong chương này, luận văn đã nghiên cứu, phân tích và rút ra một số kết
luận về thực trạng pháp luật Việt Nam về quản trị đại học trong các trường đại
học
tư thục, như: Có nhiều biến đổi trong trong quy định về cơ cấu tổ chức và quản
trị
đại học đối với trường đại học tư thục theo pháp luật Việt Nam từ trước đến nay;
Nhà đầu tư là một cấp quản trị độc lập trong mô hình quản trị đại học đối với
các
trường đại học tư thục; Mô hình quản trị đại học trong các trường đại học tư
thục có
sự khác biệt trong các trường hợp trường được sở hữu bởi một hay nhiều nhà đầu
tư; Hội đồng trường trong mô hình quản trị trường đại học tư thục có sự tương
đồng
so với hội đồng quản trị của công ty cổ phần; Về địa vị pháp lý, hiệu trưởng
không
mặc định là người đại diện theo pháp luật của trường đại học tư thục.
Về điều kiện kinh tế - xã hội và sự tác động đến việc thi hành pháp luật về
quản trị đại học trong các trường đại học tư thục ở Việt Nam hiện nay, luận văn
đã
khái lược về định hướng và chủ trương ủng hộ của Đảng và Nhà nước, về cơ chế
chính sách và hành lang pháp lý còn nhiều bất cập, về định kiến xã hội đối với
loại
hình trường đại học tư thục, về tình trạng trường đại học tư thục ở Việt Nam
dưới
sức ép từ hệ thống các trường đại học công lập có nhiều lợi thế, cũng như về nền
tảng kinh nghiệm và không gian phát triển của trường đại học tư thục Việt Nam.
Qua đó, kết luận chung rằng trường đại học tư thục gặp nhiều bất lợi hơn là
thuận
lợi trong điều kiện phát triển và quản trị đại học.
Về thực tiễn quản trị đại học và quản trị đại học trong trường đại học tư thục
theo mô hình công ty cổ phần ở Việt Nam, luận văn trước hết đã khái quát chung
về
thực tiễn quản trị đại học ở Việt Nam, sau đó mới đi sâu vào điểm cứu một số
trường hợp thực tiễn quản trị đại học trong trường đại học tư thục theo mô hình
57
công ty cổ phần ở Việt Nam. Các trường được lựa chọn khảo sát và báo cáo sau đây
đại diện cho hệ thống các trường đại học tư thục ở ba miền Bắc, Trung, Nam bao
gồm: Trường Đai học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội (miền Bắc), Trường Đai
học Thái Bình Dương (miền Trung), và Trường Đai học Hoa Sen (miền Nam). Các
kết luận cơ bản qua một số trường hợp cụ thể này bao gồm nhận định quản trị đại
học hiệu quả không đơn thuần chỉ cần một kỹ thuật pháp lý đủ tốt, mà còn rất cần
một nghệ thuật quản trị và chọn người quản trị phù hợp với lĩnh vực kinh doanh
giáo dục. Bên cạnh việc tuân thủ pháp luật về giáo dục đại học, có trường còn
chủ
động vận dụng các quy định của pháp luật về công ty cổ phần theo luật doanh
nghiệp để tổ chức quản trị nhà trường. Tuy nhiên, cũng có trường hợp, không
những cơ cấu quản trị theo mô hình công ty cổ phần được thể hiện một cách rõ
nét,
mà thị trường chuyển nhượng cổ phần giữa các nhà đầu tư cũng đã được vận dụng
pháp luật doanh nghiệp về công ty cổ phần một cách quá triệt để và khô cứng đến
mức gây bất lợi cho hiệu quả quản trị đại học.
Để đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về quản trị đại học trong trường đại
học tư thục theo mô hình công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay, luận văn trước hết
tổng hợp kết quả hoạt động của các trường đại học tư thục áp dụng quản trị đại
học
theo mô hình công ty cổ phần ở Việt Nam trong thời gian qua, cũng như chỉ ra
những hạn chế của các trường đại học tư thục nói chung và của các trường đại học
tư thục áp dụng quản trị theo mô hình công ty cổ phần nói riêng trong quá trình
hoạt
động. Về nguyên nhân của hạn chế và tồn tại ở các trường đại học tư thục nói
chung
và của các trường đại học tư thục áp dụng quản trị theo mô hình công ty cổ phần
nói
riêng, bên cạnh những nguyên nhân khách quan, luận văn cũng làm rõ một số
nguyên nhân chủ quan từ phía bản thân các trường đại học tư thục, từ phía nhà
nước, từ tình trạng bất bình đẳng giữa các trường đại học công lập và trường đại
học
tư thục, cũng như những nguyên nhân về tài sản và khả năng tiếp cận vốn.
58
Chương 3
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ ĐẠI HỌC TRONG TRƯỜNG
ĐẠI HỌC TƯ THỤC THEO MÔ HÌNH CÔNG TY CỔ PHẦN
3.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về quản trị đại học trong trường
đại học tư thục theo mô hình công ty cổ phần ở Việt Nam
Theo Nguyễn Thị Mai Lan, giáo dục đại học Việt Nam là một phần của giáo
dục đại học thế giới nên cũng không tránh khỏi những xu thế phát triển chung của
giáo dục đại học thế giới [22]. Đáp ứng xu thế đó, năm 2005 Chính phủ Việt Nam
đã ban hành một nghị quyết về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học Việt
Nam giai đoạn 2006-2020 với mục tiêu là tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng,
hiệu quả và quy mô, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và nhu cầu học tập của nhân dân.
Hoàn thiện pháp luật về quản trị đại học trong trường đại học tư thục ở Việt
Nam hiện nay nhằm đáp ứng các yêu cầu cần thiết sau đây:
Thứ nhất, để đáp ứng các yêu cầu cải thiện vị thế của trường đại học tư thục
so với thực tế hiện nay. Hiện nay, vai trò và vị thế của đại học tư thục vẫn
chưa
được nhìn nhận, đánh giá đúng mức và chưa tạo động lực để thúc đẩy sự phát triển
của các trường tư thục. Trong khi đó, các trường này có nguồn thu chủ yếu từ học
phí của sinh viên nên việc tuyển sinh khó khăn sẽ khiến các trường khó chủ động
về
việc tuyển giảng viên cơ hữu, đảm bảo chất lượng dạy và học. Đồng thời, việc
thuê
mướn cơ sở vật chất để giảng dạy, học tập của nhiều trường đại học tư thục cũng
khá chật vật do không có quỹ đất riêng để xây trường, các dịch vụ hỗ trợ hoạt
động
học tập như khu thể chất, xưởng thực hành... Trong những năm qua, hệ thống đại
học tư thục đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới của đất nước. Tuy
nhiên,
chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học chưa đáp ứng tốt nhu cầu phát triển
kinh
tế - xã hội, cơ chế tự chủ đại học và trách nhiệm giải trình còn nhiều hạn chế,
thiếu
chính sách hiệu quả để thu hút đầu tư của xã hội cho giáo dục đại học.
59
Thứ hai, để đáp ứng yêu cầu khách quan của việc tăng cường quản lý nhà
nước bằng pháp luật đối với các trường đại học tư thục ở Việt Nam. Tăng cường
quản lý nhà nước bằng pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động của
cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục đại học. Quản lý nhà nước tạo phải điều
kiện
thuận lợi tối đa cho các trường đại học tư thục phát triển, tạo quyền tự chủ và
tự
chịu trách nhiệm của nhà trường phù hợp với pháp luật và thực tiễn của Việt Nam.
Tăng cường công tác pháp chế bao gồm công tác hoàn thiện hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật điều chỉnh các hoạt động giáo dục đại học theo hướng quy định cụ
thể và khả thi, quy định rõ trách nhiệm và quyền của từng chủ thể.
Thứ ba, để đáp ứng yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước trong quản lý
đối với các trường đại học tư thục ở Việt Nam. Nghị quyết đại hội đã nhấn mạnh
tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước theo hướng nhà nước thực sự là của dân, do dân
và vì dân; theo đó, nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Với tinh thần tiếp tục khẳng định rõ những nhiệm vụ trọng tâm để kiện toàn
nhà nước pháp quyền Việt Nam bao gồm: Cải cách nền hành chính nhà nước; Làm
cho bộ máy tinh gọn, tập trung, thống nhất, thông suốt. Nâng cao năng lực quản
lý
nhà nước theo pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục đổi
mới
quản lý giáo dục trên tinh thần tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
các
trường đại học tư thục, gắn với đổi mới cơ chế tài chính hiệu quả.
Thứ tư, để đáp ứng yêu cầu đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học
Việt Nam, bao gồm đối với các trường đại học tư thục. Đổi mới giáo dục đại học
phải bảo đảm sứ mệnh, tầm nhìn của các trường đại học tư thục, đào tạo nguồn
nhân
lực có trình độ cao cho các ngành nghề, các thành phần kinh tế thuộc tất cả các
lĩnh
vực kinh tế - xã hội. Đổi mới giáo dục đại học tư thục là quá trình làm cho từng
trường và toàn hệ thống đổi mới từ mục tiêu, quy trình, nội dung đến phương pháp
dạy - học và phương thức đánh giá kết quả học tập; liên thông giữa các ngành các
hình thức, các trình độ đào tạo; gắn bó chặt chẽ và tạo động lực để tiếp tục đổi
mới
giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp. Đổi mới giáo dục đại học phải kế
thừa
những thành quả giáo dục đào tạo trong nước và thế giới.
60
Thứ năm, để đáp ứng yêu cầu hội nhập của pháp luật GDĐH Việt Nam với
khu vực và thế giới, cũng như nhu cầu hội nhập của các trường đại học tư thục
Việt
Nam với thị trường giáo dục đại học thế giới. Mục tiêu của chính phủ “đến năm
2020, GDĐH Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và tiếp cận trình độ
tiên
tiến trên thế giới” có lẽ đã không thành hiện thực ở thời điểm này. Nhưng dù
thời
điểm nào, Luật GDĐH phải tạo được hành lang pháp lý cho việc thực hiện mục tiêu
phát triển giáo dục đại học đó. Nước ta đã trở thành thành viên của WTO và cũng
đã ký cam kết về GATS trong giáo dục, và theo đó giáo dục đại học sẽ phải mở cửa
như một thị trường để các nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận, bước sang giai đoạn
mới,
hội nhập và phát triển. Như vậy, Luật GDĐH cũng phải là cơ sở và định hướng để
nâng cao năng lực hợp tác và cạnh tranh của các cơ sở giáo dục đại học trong
nước.
3.2. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về quản trị đại học trong trường
đại học tư thục theo mô hình công ty cổ phần ở Việt Nam
Xây dựng pháp luật về quản trị đại học trong trường đại học tư thục theo mô
hình công ty cổ phần phải dựa trên quan điểm thực tiễn, toàn diện và phát triển,
vừa
đáp ứng những nhu cầu ngắn hạn đang đặt ra vừa nhằm thực hiện những mục tiêu
chiến lược lâu dài. Hoàn thiện pháp luật về quản trị đại học trong trường đại
học tư
thục theo mô hình công ty cổ phần ở Việt Nam dựa trên những quan điểm như sau:
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật giáo dục đại học và pháp luật về quản trị đại
học trong trường đại học tư thục phải dựa trên thể chế hoá các quan điểm, đường
lối
chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục đại học. Các quan điểm
của cơ bản và chủ trương của Đảng trong các văn kiện cần được thể chế hoá trong
văn bản pháp luật về giáo dục đại học và đại học tư thục. Nghị quyết Đại hội
Đảng
toàn quốc xác định những quan điểm và phương hướng cơ bản để tiếp tục nâng cao
chất lương giáo dục và đào tạo toàn diện; Tiếp tục đổi mới chương trình, nội
dung,
phương pháp giáo dục và công tác quản lý giáo dục; Nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện, coi trọng cả nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài cả dạy chữ, dạy nghề,
dạy
làm người, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, nhân cách, phẩm chất, đạo đức.
61
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật giáo dục đại học và pháp luật về quản trị đại
học trong trường đại học tư thục phải cụ thể hoá và phát triển các quy định về
GDĐH trong Luật GDĐH hiện hành. Giáo dục là quốc sách hàng đầu được thể hiện
ở sự tập trung cho giáo dục về đầu tư tài chính, đầu tư cán bộ và ban hành các
chính
sách. Ví dụ như Đảng và Nhà nước đã chú trọng xây dựng đội ngũ nhà giáo nhân tố
quyết định chất lượng cũng như sự thành công của giáo dục, nhưng chính sách đối
với nhà giáo vẫn chưa tạo được động lực đủ mạnh cho người dạy, nhất là trong các
trường đại học tư thục. Hay như cơ sở vật chất, mặc dù Đảng và Nhà nước có nhiều
cố gắng và đã tạo ra những chuyển biến đáng kể về trường sở, thiết bị và đồ dùng
dạy học, song nhìn chung, cơ sở vật chất chỉ mới tập trung cho cơ sở giáo dục
công
lập, mà chưa có cơ chế nào hỗ trợ nguồn lực cho các trường đại học tư thục.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật giáo dục đại học và pháp luật về quản trị đại
học trong trường đại học tư thục phải phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành.
Việc hoàn thiện pháp luật về giáo dục đại học phải được xây dựng trên cơ sở đảm
bảo sự đồng bộ, thống nhất với các luật chuyên ngành khác, đặc biệt là các luật
mới
ban hành trong những năm gần đây như Bộ luật dân sự, Luật Đầu tư, Luật Doanh
nghiệp. Hiện nay, khung pháp lý để điều chỉnh các hoạt động giáo dục đại học và
quản trị trường đại học tư thục vẫn chưa đầy đủ. Hàng năm, có kế hoạch rà soát
các
văn bản quy định về giáo dục đại học và quản trị trường đại học tư thục, điều
chỉnh
và quyết định bãi bỏ, thay thế, bổ sung các văn bản không còn phù hợp với tình
hình phát triển giáo dục, với chủ trương đường lối và các quy định có liên quan.
Thứ tư, hoàn thiện pháp luật giáo dục đại học và pháp luật về quản trị đại học
trong trường đại học tư thục phải đáp ứng nhu cầu thực tiễn tổ chức và hoạt động
giáo dục đại học trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Trước sự phát triển
mạnh mẽ của hoạt động giáo dục và nhu cầu học tập ngày càng cao của nhân dân đã
xuất hiện một số bức xúc do thực tiễn đặt ra cần phải hoàn thiện pháp luật về
giáo
dục đại học, tạo cơ sở pháp lý để phát triển mạnh mẽ sự nghiệp phát triển giáo
dục,
đáp ứng ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới đất nước trong bối cảnh toàn cầu
hoá.
Pháp luật giáo dục đại học cũng sẽ là hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động