Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Quản trị đại học tại các trường đại học tư thục theo mô hình công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay
3,775
678
85
22
và hội đồng quản trị được tự chủ toàn diện về tổ chức và tài chính... Rất tiếc,
không
có trường đại học tư thục nào kịp ra đời dựa trên cơ sở pháp lý này, một phần
bởi vì
văn bản này được thay thế bởi quy chế 196 chỉ chưa đầy một năm sau đó.
Năm 1994, Bộ trưởng BGDĐT ban hành “Quy chế tạm thời Đại học dân lập”
qua Quyết định số 196/TCCB, có nội dung tương tự Quyết định 240 nhưng thay từ
“tư thục” bằng từ “dân lập”, là tiền đề cho ra đời một loạt các trường đại học
dân
lập thời kỳ đầu, tập trung chủ yếu ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 1998, loại hình trường đại học dân lập được chính thức đưa vào luật khi
Quốc hội ban hành Luật Giáo dục 1998, cùng với đó là Quy chế trường đại học dân
lập được ban hành kèm theo Quyết định số 86/2000/QĐ-TTg, có nội dung cơ bản
giống quy chế 196 nhưng với các điểm mới: (1) Trường đại học dân lập phải do “tổ
chức” đứng ra xin thành lập; (2) Tài sản của trường đại học dân lập thuộc sở hữu
tập thể; và (3) Hội đồng quản trị của trường đại học dân lập là một cộng đồng
hẹp.
Năm 2005, loại hình trường đại học tư thục mới có hành lang pháp lý rõ ràng
cho việc phát triển khi Quy chế tổ chức và hoạt động của trường đại học tư thục
được ban hành tại Quyết định số 14/2005/QĐ-TTg và sau đó được thay thế bởi
Quyết định số 61/2009/QĐ-TTg. Quản trị đại học trong trường đại học tư thực theo
quy chế này khá rõ nét theo mô hình công ty cổ phần: Từ quy định điều kiện họp
Đại hội đồng cổ đông cho đến nguyên tắc “đối vốn” khi thông qua nội dung họp; Từ
quy định cổ đông được “chuyển nhượng quyền sở hữu và rút vốn” cho đến quy định
tài sản tăng thêm nhờ kết quả hoạt động của trường sẽ thuộc sở hữu chung.
Năm 2011, Quy chế tổ chức và hoạt động của trường đại học tư thục được
sửa đổi bổ sung bởi Quyết định số 63/2011/QĐ-TTg với những điểm mới: (1) Đại
hội đồng cổ đông là cấp độ quản trị đại học có quyền quyết định cao nhất; (2) Sở
hữu chung hợp nhất bao gồm: Quà biếu tặng là tài sản chung hợp nhất không phân
chia, còn tài sản tăng lên nhờ kết quả hoạt động của trường mới thuộc sở hữu
chung
hợp nhất có thể phân chia. Ngoài ra, cũng có một thay đổi đáng lưu ý ở mô hình
quản trị đại học trong trường đại học tư thục đã có sự thay đổi so với những quy
23
định tại Quyết định số 14/2005/QĐ-TTg, Quyết định số 61/2009/QĐ-TTg ở điểm
có một số thành phần đương nhiên trong hội đồng quản trị như hiệu trưởng, đại
diện
cơ quan quản lý địa phương, đại diện tổ chức đảng đoàn, đại diện giảng viên.
Năm 2012, Luật GDĐH lần đầu tiên ra đời, tách khỏi luật giáo dục chung.
Luật này có một số nội dung tác động mạnh đến mô hình quản trị đại học trong
trường đại học tư thục như về lợi tức của trường đại học hoạt động không vì lợi
nhuận; hay trường đại học tư thục phải dành ít nhất 25% chênh lệch thu chi để
tái
đầu tư; hay về thành phần đương nhiên của hội đồng quản trị.
Năm 2018, Luật Giáo dục đại học sửa đổi đã khắc phục một số bất cập chung
của giáo dục đại học, đem đến các cơ sở giáo dục đại học tư thục những điều mới
mẻ [9]. như mô hình quản trị như doạnh nghiệp lan tỏa sang lĩnh vực giáo dục đại
học qua việc tham chiếu Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp được thể hiện tại các
điều
16a, 17, 66; hay quy định rõ hơn về trường đại học tư thục hoạt động không vì
lợi
nhuận.
1.3.3.2. Phân loại trường đại học tư thục dựa trên mục tiêu lợi nhuận
a) Trường đại học tư thục hoạt động vì lợi nhuận
Thực ra thì trong luật thực định hay ngoài thực tiễn đều không có định nghĩa
trực tiếp để chỉ khái “trường đại học tư thục hoạt động vì lợi nhuận”; và đối
với loại
hình đại học này, luật giáo dục đại học cũng chỉ gọi là “trường đại học tư thục”
nói
chung. Và cũng như vậy, cụm từ “trường đại học tư thục hoạt động vì lợi nhuận”
chỉ xuất hiện khi đặt bên cạnh và để so sánh với “trường đại học tư thục hoạt
động
không vì lợi nhuận”.
Lợi nhuận là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà đơn vị kinh doanh đã
bỏ ra để đạt được doanh thu đó từ các hoạt động của đơn vị trong một thời kỳ
nhất
định. Để tồn tại, các trường đại học tư thục ở Việt Nam hiện nay hoạt động như
loại
hình doanh nghiệp, thì họ cần phải có vốn đầu tư để duy trì và phát triển cho
trường
học, các vốn này phần lớn chủ yếu được các cổ phần, cổ đông góp vốn vào thành
lập. Các trường này không nhận được sư ưu đãi từ phía nhà nước hay sự tài trợ,
24
quyên góp từ bên ngoài, do đó, quá trình hoạt động họ đặt tiêu chí lợi nhuận và
chia
lợi nhuận là hàng đầu, và xem đó như một mục tiêu tồn tại và phát triển.
b) Trường đại học tư thục hoạt động không vì lợi nhuận
Trường đại học tư thục hoạt động không vì lợi nhuận là cơ sở giáo dục đại
học mà nhà đầu tư cam kết hoạt động không vì lợi nhuận. Trong thực tế, trường
hoạt động không vì lợi nhuận, nghĩa là nhà đầu tư không rút vốn, không hưởng lợi
tức; thay vào đó, phần lợi nhuận tích lũy hàng năm của trường sẽ thuộc sở hữu
chung hợp nhất không phân chia để tiếp tục đầu tư phát triển trường đại học tư
thục
hoạt động không vì lợi nhuận. Phát triển loại hình trường không vì lợi nhuận góp
phần tạo nên nền giáo dục chất lượng cao, không bị ảnh hưởng bởi thần quyền, thế
quyền, hay các lợi ích đặc biệt khác. Tuy nhiên, loại hình trường này chỉ mới
xuất
hiện ở Việt Nam, việc xây dựng mô hình quản trị còn lúng túng.
1.3.3.3. Từ mô hình quản trị trường đại học tư thục hoạt động vì lợi nhuận
liên tưởng đến mô hình quản trị công ty cổ phần
Qua so sánh trường đại học tư thục hoạt động vì và không vì lợi nhuận, ta
nhận thấy mô hình quản trị của trường đại học tư thục hoạt động vì lợi nhuận thì
tương đồng hơn với mô hình quản trị công ty cổ phần. Để làm rõ nhận định này,
cần
một số phân tích mô hình mô hình quản trị của trường đại học tư thục hoạt động
vì
lợi nhuận theo Luật Giáo dục đại học 2012 so với mô hình quản trị công ty cổ
phần.
Về cơ cấu tổ chức, trong khi công ty cổ phần có đại hội đồng cổ đông, hội đồng
quản trị, ban kiểm soát, giám đốc và các chức danh quản lý khác, thì trường đại
học
tư thục có đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị, ban kiểm soát, hiệu trưởng,
phó
hiệu trưởng, các đơn vị trong trường. Các chức danh quản lý trong công ty cổ
phần
chỉ do đại hội đồng cổ đông quyết hay ủy quyền lại cho hội đồng quản trị quyết,
nhưng với trường đại học tư thục thì phải thêm bước công nhận bởi cơ quan quản
lý
nhà nước (Luật Giáo dục đại học 2018 đã sửa đổi nội dung này theo hướng như với
doanh nghiệp, không cần thông qua bước công nhận bởi cơ quan quản lý nhà nước
nữa). Về cấu trúc, trong khi công ty cổ phần hoạt động theo trên nguyên tắc đối
vốn
25
tuyệt đối, thì hội đồng quản trị (sau này là hội đồng trường) của trường đại học
tư
thục sẽ có đại diện từ các thành phần không có vốn.
Từ những phân tích trên, trường đại học tư thục trong đối tượng nghiên cứu
của đề tài này được giới hạn là trường đại học tư thục hoạt động vì lợi nhuận.
Tiểu kết chương 1
Trong chương này, luận văn trước hết làm rõ đại học và trường đại học là hai
khái niệm khác nhau theo pháp luận Việt Nam, mặc dù sự phân biệt này còn gây
nhiều tranh cãi về mặt lý luận. Thêm nữa, có ba mô hình quản trị đại học trên
thế
giới cũng được tổng kết như là các cơ sở thực tiễn quan trọng, bao gồm mô hình
quản trị đại học dựa vào giới khoa học được tìm thấy ở Anh, Đức…; mô hình quản
trị đại học dựa vào nhà nước phổ biến ở Pháp, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc; và
mô hình quản trị đại học dựa vào thị trường dễ dàng tìm thấy ở Hoa Kỳ, Canada,
Australia và một số nước khác. Các mô hình quản trị đại học ở Việt Nam từ thời
bao cấp cho đến nay cũng được lược khảo để có cái nhìn tổng quát.
Về mô hình quản trị công ty cổ phần, luận văn trước hết là rõ khái niệm công
ty cổ phần và quản trị công ty cổ phần. Về các mô hình, luận văn khẳng định
không
chỉ có các mô hình quản trị công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam là cơ sở để
áp
dụng cho quản trị trường đại học tư thục, mà còn phải quan tâm đến các mô hình
quản trị công ty cổ phần theo pháp luật một số nước khác
Về pháp luật quản trị đại học và pháp luật về trường đại học tư thục, luận văn
trước hết khái lược pháp luật và thể chế về quản trị đại học ở một số nước trên
thế
giới như Hoa Kỳ, Singapore hay cơ chế quản trị đại học theo kiểu tập đoàn hóa ở
Nhật Bản, cũng như thiết chế đặc biệt về quản trị đại học theo kiểu phường hội
thuần túy ở đại học Anh quốc. Trong phần này, cũng bao gồm các khái lược pháp
luật và thể chế về quản trị đại học ở Việt Nam trước và sau đổi mới.
26
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUẢN TRỊ ĐẠI HỌC TRONG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TƯ THỤC VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về quản trị đại học trong các trường
đại học tư thục
2.1.1. Có nhiều biến đổi trong trong quy định về cơ cấu tổ chức và quản trị
đại học đối với trường đại học tư thục theo pháp luật Việt Nam từ trước đến nay
2.1.1.1. Cơ cấu tổ chức và quản trị của trường đại học theo Điều lệ trường
đại học 2003 và Quy chế tổ chức và hoạt động của trường đại học tư thục 2005
Thời điểm năm 2003, Việt Nam chưa có luật riêng biệt cho giáo dục đại học,
pháp luật về giáo dục đại học lúc này được quy định trong Luật giáo dục 1998.
Sau
đó, được cụ thể hóa trong điều lệ trường đại học được ban hành theo quyết định
của
TTCP số 153/2003/QĐ-TTG ngày 30/7/2003 và Quy chế tổ chức và hoạt động của
trường đại học tư thục được ban hành tại Quyết định số 14/2005/QĐ-TTg của TTCP
phủ ngày 17/01/2005. Cơ cấu tổ chức và quản trị của trường đại học tư thục theo
quy định tại thời điểm này bao gồm: Hội đồng quản trị; Hiệu trưởng và các Phó
Hiệu trưởng; Hội đồng khoa học và đào tạo; Các phòng chức năng; Các khoa và bộ
môn trực thuộc trường; Các bộ môn thuộc khoa; Các tổ chức khoa học và công
nghệ như viện, trung tâm, các cơ sở phục vụ đào tạo, khoa học và công nghệ; Các
doanh nghiệp, các đơn vị sự nghiệp; Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam; Các đoàn
thể và tổ chức xã hội.
2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức và quản trị của trường đại học theo Luật Giáo dục đại
học 2012 và Điều lệ trường đại học 2014
Đến khi Luật giáo dục đại học 2012 được thông qua và điều lệ trường đại
học năm 2014 được tiếp tục ban hành trên hành lang pháp lý của Luật giáo dục đại
học 2012, cơ cấu tổ chức và quản trị của trường đại học tư thục đã có một số
thay
đổi gồm: (1) Không còn đặt “tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam” và “các đoàn thể
27
và tổ chức xã hội” nằm trong cơ cấu tổ chức và quản trị của trường đại học tư
thục;
(2) có một bổ sung khá quan trọng là “ban kiểm soát” vào thành phần quản trị đại
học trong trường đại học tư thục; mà qua đó ta thấy đã có xu hướng quản trị đại
học
theo mô hình công ty cổ phần hay công ty TNHH có nhiều thành viên.
2.1.1.3. Cơ cấu tổ chức và quản trị của trường đại học theo Luật GDĐH 2018
Luật GDĐH 2018, có hiệu lực năm 2019, đã gom nhóm trong cơ cấu tổ chức
và quản trị của trường đại học tư thục thành 5 nhóm gọn hơn. Điểm thay đổi đáng
lưu ý nhất của Luật GDĐH 2018 về cơ cấu tổ chức và quản trị của trường đại học
tư
thục là đã thống nhất tên gọi cơ quan quản trị của trường đại học là “hội đồng
trường”, thay vì là “hội đồng quản trị” như trước đó. Điều này thể hiện nỗ lực
của
cơ quan lập pháp trong việc rút ngắn khoảng cách bình đẳng giữa trường đại công
lập và trường đại học tư thục. Ngoài ra, Luật GDĐH 2018 đã không còn bắt buộc
phải có ban kiểm soát trong cơ cấu quản trị trường đại học tư thục; thay vào đó,
việc
thành lập hay không thành lập ban kiểm soát do nhà đầu tư của trường đại học tư
thục quyết định như quy định tại Điểm g, Khoản 2, Điều 16a.
2.1.2. Nhà đầu tư là một cấp quản trị độc lập trong mô hình quản trị đại học
đối với các trường đại học tư thục
2.1.2.1. Khái niệm nhà đầu tư
Luật GDĐH 2012 quy định “Hội đồng quản trị là tổ chức đại diện duy nhất
cho chủ sở hữu của nhà trường” mà không minh định một cơ cấu nào khác đại diện
cho quyền lợi của nhà đầu tư. Cho dù thuật ngữ “nhà đầu tư” đối với cơ sở GDĐH
có vốn đầu tư trong nước được nhắc đến một lần duy nhất khi luật đề cập đến quản
lý tài chính của trường đại học tư thục; quy định có đoạn “phần còn lại (phần
75%
của chênh lệch giữa thu và chi từ hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học của cơ
sở
giáo dục đại học tư thục), nếu phân phối cho các nhà đầu tư và người lao động
của
cơ sở giáo dục đại học thì phải nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế”.
Ngược lại, Luật GDĐH 2018 đã quy định nhà đầu tư là một cấp quan trọng
trong cơ cấu quản trị trường đại học tư thục. Điều 16a là điều khoản hoàn toàn
mới
28
được bổ sung vào Luật GDĐH 2018 để quy định riêng cho nhà đầu tư của trường
đại học tư thục. Theo đó, “nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước
ngoài đầu tư thành lập cơ sở giáo dục đại học tư thục, cơ sở giáo dục đại học tư
thục
hoạt động không vì lợi nhuận bằng nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước.”
2.1.2.2. Phân loại nhà đầu tư
Về nguồn gốc của nhà đầu tư, Khoản 1, Điều 16a, Luật GDĐH 2018 quy
định “nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài…”. Hơn nữa,
Điểm b, Khoản 2, Điều 7, Luật GDĐH 2018 khẳng định “Cơ sở giáo dục đại học tư
thục do nhà đầu tư trong nước hoặc nước ngoài đầu tư”. Như vậy, về nguồn gốc,
nhà đầu tư cơ sở giáo dục đại học tư thục có thể là nhà đầu tư trong nước hoặc
là
nhà đầu tư nước ngoài. Trong khuôn khổ có hạn của luận văn thạc sĩ, đề tài chỉ
nghiên cứu đối với trường đại học tư thục thuộc sở hữu của nhà đầu tư trong
nước.
Về tư cách pháp lý của nhà đầu tư, một nhà đầu tư trong nước bao gồm tổ
chức trong nước hoặc cá nhân trong nước.
Về tư cách sở hữu của nhà đầu tư, một nhà đầu từ có thể là người sở hữu duy
nhất đối với trường đại học tư thục; khi đó, nhà đầu tư được Luật GDĐH 2018 gọi
đồng nhất với thuật ngữ “chủ sở hữu”. Một nhà đầu tư cũng có thể chỉ là một đồng
sở hữu trong một nhóm các nhà đầu tư cùng sở hữu một trường đại học tư thục.
2.1.2.3. Hội nghị nhà đầu tư
Hội nghị nhà đầu tư là hội nghị của tất cả các nhà đầu tư của trường đại học
tư thục. Điều kiện, hình thức quyết định, tổ chức và hoạt động của hội nghị nhà
đầu
tư gần như để ngỏ chưa được nhắc đến trong Luật GDĐH 2018; tuy nhiên, luật
cũng ghi chú tất cả những vấn đề này phải được quy định cụ thể trong quy chế tổ
chức và hoạt động của cơ sở giáo dục đại học. Ngược lại, quy chế tổ chức và hoạt
động của trường đại học tư thục, theo quy định tại Điểm đ, Khoản 2, Điều 16a,
Luật
GDĐH 2018, lại do hội nghị nhà đầu tư thông qua nội dung. Do được luật định là
“khai sinh” lẫn nhau, nên Điểm b, Khoản 4, Điều 8, Nghị định 99, đã tháo gỡ
vướng
mắc này thông qua quy định về hội nghị lần đầu tiên (khi chưa có quy chế tổ chức
29
và hoạt động tương ứng được thông qua để điều chỉnh những vấn đề liên quan đến
hội nghị nhà đầu tư) sẽ được phép tiến hành hợp pháp “khi có số nhà đầu tư đại
diện
ít nhất 65% tổng số vốn góp tham dự; nếu lần triệu tập thứ nhất chưa đủ tỷ lệ
này thì
từ lần triệu tập thứ hai về cùng nội dung hội nghị phải có số nhà đầu tư đại
diện ít
nhất 51% tổng số vốn góp tham dự hội nghị”.
Hội nghị nhà đầu tư phải được ghi biên bản và thông qua ngay tại hội nghị,
cùng với chữ ký của người chủ trì và thư ký hội nghị. Nghị quyết của hội nghị
được
thông qua khi số thành viên góp vốn đại diện ít nhất 65% tổng số vốn góp của tất
cả
thành viên dự hội nghị thông qua bằng hình thức biểu quyết hoặc bỏ phiếu kín.
2.1.3. Mô hình quản trị đại học trong các trường đại học tư thục có sự khác
biệt trong các trường hợp trường được sở hữu bởi một hay nhiều nhà đầu tư
2.1.3.1. Trường hợp trường đại học tư thục thuộc sở hữu bởi một nhà đầu tư
Đối với trường hợp một nhà đầu từ là người sở hữu duy nhất đối với trường
đại học tư thục thì nhà đầu tư đó được gọi là chủ sở hữu. Tên gọi khiến người ta
dễ
liên hệ đến trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân (Điều 184, LDN 2014), hay chủ
sở hữu công ty TNHH một thành viên (Khoản 1, Điều 73, LDN 2014). Sự so sánh
này là hoàn toàn có căn cứ xét trên đặc điểm tỷ lệ sở hữu vốn là 100%, chủ doanh
nghiệp tư nhân, chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên, hay chủ sở hữu trường
đại học tư thục đều có thể ra các quyết định quản trị một cách đơn phương. Tuy
vậy, nếu như chủ doanh nghiệp tư nhân hay chủ sở hữu công ty TNHH một thành
viên có quyền lực hầu như tối thượng đối với doanh nghiệp một chủ do mình làm
chủ sở hữu, thì đặc điểm quản trị chủ sở hữu trường đại học tư thục có khác biệt
cơ
bản do quy định đặc thù của Luật Giáo dục đại học.
Xét trường hợp công ty TNHH một thành viên, tùy theo chủ sở hữu công ty
là cá nhân hay tổ chức mà mô hình quản trị công ty có sự khác biệt. Nếu là các
nhân
thì không thể có hội đồng thành viên ở cấp dưới của chủ sở hữu; nếu là tổ chức
thì
tùy thuộc tổ chức đó ủy quyền cho một hay từ hai người trở lên làm đại diện vốn
30
chủ sở hữu mà mô hình quản trị công ty TNHH một thành viên có thể có hội đồng
thành viên và thậm chí là có thể xuất hiện thêm Kiểm soát viên hoặc Ban kiểm
soát.
Hình 2.1. Mô hình quản trị công ty TNHH một thành viên
(Nguồn: Tác giả mô phỏng theo Luật doanh nghiệp 2014)
Ngược lại, với Luật GDĐH 2018, không có khác biệt về mô hình quản trị đại
học giữa hai trường hợp trường đại học tư thục thuộc sở hữu bởi một chủ sở hữu
là
cá nhân hay là tổ chức kinh tế. Thậm chí, Luật GDĐH 2018 cũng không có bất cứ
đề cập nào đến trường hợp trường đại học tư thục thuộc sở hữu bởi một chủ sở hữu
là cá nhân; và cũng chỉ một lần duy nhất đề cập đến trường hợp một chủ sở hữu là
tổ chức, khi gợi mở về một phương thức đầu tư thành lập trường đại học tư thục
theo hướng thành lập trước một tổ chức kinh tế, để tổ chức kinh tế đó đầu tư làm
chủ sở hữu trường (Điểm a, Khoản 3, Điều 16a, Luật GDĐH 2018).
2.1.3.2. Trường hợp trường đại học tư thục thuộc sở hữu bởi nhiều nhà đầu tư
Trước hết phải khẳng định rằng không có bất cứ sự thể hiện tường minh nào
trong Luật GDĐH 2018 về việc phân loại trường đại học tư thục thuôc sở hữu duy
nhất bởi một hay nhiều nhà đầu tư. Nhưng tinh thần pháp luật trong Luật GDĐH
2018 thể hiện sự phân loại đó thông qua hai việc xuất hiện của hai thuật ngữ
“chủ
sở hữu” và “hội nghị nhà đầu tư”; và chúng được phân chia như là hai trường hợp
Chủ sở hữu công ty
Chủ tịch công ty
Chủ sở hữu công ty
Kiểm soát viên/
Ban kiểm soát
Chủ tịch công ty (*) /
Hội đồng thành viên
Giám đốc / TGĐ
Giám đốc / TGĐ
(*) Mô hình chủ
tịch công ty nếu
chủ sở hữu chỉ cử 1
đại diện, hoặc mô
hình hội đồng thành
viên nếu chủ sở
hữu cử 3-7 đại diện
tham gia và lập hội
đồng thành viên
31
khác nhau ở cấp quản trị nhà đầu tư của mô hình quản trị đại học trong trường
đại
học tư thục. Qua đó, “hội nghị nhà đầu tư” được Luật GDĐH 2018 quy định như là
thiết chế nhằm quản trị đại học ở cấp nhà đầu tư trong trường hợp trường đại học
tư
thục thuộc đồng sở hữu bởi nhiều nhà đầu tư. Số nhiều nhà đầu tư ở đây không có
sự phân biệt về số lượng, nghĩa là nếu trường đại học tư thục thuộc đồng sở hữu
bởi
hai nhà đầu tư trở lên thì sẽ áp dụng các quy định pháp luật liên quan đến hội
nghị
nhà đầu tư; và tất nhiên là theo đó, phải áp dụng một mô hình quản trị đại học
mà
trong đó hội nghị nhà đầu tư là một cấp quản trị cao nhất (điều này tiếp tục
củng cố
cho nhận định “Nhà đầu tư là một cấp quản trị độc lập trong mô hình quản trị đại
học đối với các trường đại học tư thục theo Luật GDĐH 2018” ở mục 2.1.2).
Hình 2.2. So sánh mô hình quản trị trường đại học tư thục thuộc sở hữu duy
nhất bởi một nhà đầu tư và thuộc đồng sở hữu bởi nhiều nhà đầu tư
(Nguồn: Tác giả mô phỏng theo Luật Giáo dục đại học 2018)
Như vậy, điểm khác biệt cơ bản giữa hai mô hình quản trị đại học trong các
trường hợp trường đại học tư thục thuộc sở hữu duy nhất bởi một nhà đầu tư và
thuộc đồng sở hữu bởi nhiều nhà đầu tư chính là ở cấp độ quản trị của nhà đầu
tư. Ở
đó, “chủ sở hữu trường đại học tư thục” có thể ra các quyết định quản trị một
cách
đơn phương dựa trên đặc điểm tỷ lệ sở hữu vốn là 100% của mình, khác với thiết
Hội nghị nhà đầu tư
Chủ sở hữu trường
Hội đồng trường Hội đồng trường
Trường hợp trường đại học tư thục thuộc
đồng sở hữu bởi nhiều nhà đầu tư
Trường hợp trường đại học tư thục thuộc
sở hữu duy nhất bởi một nhà đầu tư
Ban kiểm
soát
Ban kiểm
soát
Hiệu trưởng
Hiệu trưởng