Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Tòa án từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long

4,386
23
110
81
thống nhất các quy định của pháp luật và đưa ra những quyết định sáng suốt, công
bằng.
Hai là: Xác định lãi suất cho vay thống nhất giữa bộ luật dân sư năm 2015 và
luật các tổ chức tín dụng.
Theo điều 468 B luật Dân 2015 quy định: Lãi suất vay do các bên thỏa
thuận. Trường hợp các bên thỏa thun v lãi suất t lãi suất theo tha thun
không được vượt quá 20%/năm của khon tin vay, tr trường hp luật khác có liên
quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế theo đ xut của Chính phủ, y
ban thường v Quc hi quyết định điều chnh mức lãi suất nói trên báo cáo
Quc hi ti k hp gn nht.
Theo khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng 2010 quy đnh: T chức tín
dụng khách hàng quyền tha thun v lãi suất, phí cấp tín dụng trong hot
động ngân hàng của t chc tín dụng theo quy định của pháp luật…
Việc ghi thêm cụm t “theo quy định của pháp luật” sẽ càng làm cho các tổ
chức tín dụng, khách hàng có quan hệ tín dụng vi t chức tín dụng và các cơ quan
chức năng thực thi pháp luật khó áp dụng quy định này trên thực tế, khiến cho h
rơi vào thế lúng túng không biết theo pháp luật v tín dụng ngân hàng (không áp
dng trần lãi suất cho vay) hay theo pháp luật dân sự (áp dng trần lãi suất cho vay).
Chính vì vậy, Chính phủ cn phi hp với các cơ quan chuyên ngành như Tòa
án nhân dân tối cao, Vin kim sát nhân dân tối cao xem xét, xây dựng các văn bản
quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Bộ luật dân sự năm 2015 theo hướng quy
định c th v những đối tượng áp dụng hoc loi tr áp dụng vi mc trần lãi suất
theo quy định tại Điều 468 BLDS năm 2015, làm rõ quy định: tr trường hp lut
khác có liên quan quy định khácquy định ti khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015.
Mà theo đó, văn bản được ban hành phải quy định c th lãi suất tha thun của các
t chức tín dụng với khách hàng trong hoạt động cấp tín dụng tuân theo chế
“tha thun t do” (như trong Luật các tổ chức tín dụng năm 2010) hay “giới hn
trong phạm vi” (theo Bộ luật dân sự năm 2015) để hài hòa lợi ích giữa t chức tín
dụng và khách hàng. Theo tác giả, trong quan h cấp tín dụng thì khách hàng không
81 thống nhất các quy định của pháp luật và đưa ra những quyết định sáng suốt, công bằng. Hai là: Xác định lãi suất cho vay thống nhất giữa bộ luật dân sư năm 2015 và luật các tổ chức tín dụng. Theo điều 468 Bộ luật Dân sư 2015 quy định: Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Theo khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng 2010 quy định: Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật… Việc ghi thêm cụm từ “theo quy định của pháp luật” sẽ càng làm cho các tổ chức tín dụng, khách hàng có quan hệ tín dụng với tổ chức tín dụng và các cơ quan chức năng thực thi pháp luật khó áp dụng quy định này trên thực tế, khiến cho họ rơi vào thế lúng túng không biết theo pháp luật về tín dụng ngân hàng (không áp dụng trần lãi suất cho vay) hay theo pháp luật dân sự (áp dụng trần lãi suất cho vay). Chính vì vậy, Chính phủ cần phối hợp với các cơ quan chuyên ngành như Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét, xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Bộ luật dân sự năm 2015 theo hướng quy định cụ thể về những đối tượng áp dụng hoặc loại trừ áp dụng với mức trần lãi suất theo quy định tại Điều 468 BLDS năm 2015, làm rõ quy định: “trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác” quy định tại khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015. Mà theo đó, văn bản được ban hành phải quy định cụ thể lãi suất thỏa thuận của các tổ chức tín dụng với khách hàng trong hoạt động cấp tín dụng tuân theo cơ chế “thỏa thuận tự do” (như trong Luật các tổ chức tín dụng năm 2010) hay “giới hạn trong phạm vi” (theo Bộ luật dân sự năm 2015) để hài hòa lợi ích giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. Theo tác giả, trong quan hệ cấp tín dụng thì khách hàng không
82
thc s bình đẳng vi t chức tín dụng, thậm chí là yếu thế hơn nên cần có giới hn
khng chế mức lãi suất cho phù hợp. Bên cạnh đó, cn làm rõ hơn về phm vi ca
quy định cũng như tránh sự lòng vòng, dẫn chiếu sang nhiều các luật khác dễ gây ra
s mâu thun, chồng chéo.
Ba là: Thống nhất nội hàm các khái niệm kinh doanh, thương mại trong toàn
bộ văn bản pháp luật hiện hành
Hiện nay rất nhiều văn bản đưa ra khái niệm kinh doanh thương mại nhưng
chỉ ý tưởng chung chứ còn thực chất nội hàm pháp lý của c khái niệm trong
từng văn bản lại khác nhau. Điều này gây ra khó khăn trong việc giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại.
Thứ hai, cần xây dựng tiêu chí hoặc định nghĩa cụ thể về một số khái niệm
như: hoạt động kinh doanh, mục đích lợi nhuận, hoạt động của doanh nghiệp.
thể thấy hoạt động kinh doanh hoạt động từ quá trình đầu tư, sản xuất, mua bán
đầu vào, cung ứng dịch vụ hàng hóa đầu ra do các chủ thể đăng kinh doanh
thực hiện. Mục đích lợi nhuận thể mục đích trực tiếp hoặc gián tiếp phát sinh
trong hoạt động kinh doanh. Chính vậy cần quy định thể về các dấu hiệu hoặc các
phạm trù để xác định khái niệm này một ch chính xác thì mới không gây khó
khăn cho việc xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án theo loại việc.
Thứ ba, cần nhận thức ý nghĩa thực tiễn của việc phân biệt tranh chấp kinh
doanh thương mại tranh chấp dân sự. Trong bối cảnh xác định thủ tục tố tụng
chung thì việc phân biệt tranh chấp chỉ ý nghĩa điều phối giữa các tòa chuyên
trách. Làm căn cứ để xác định nếu sai sót trong vụ án kinh tế hay dân sự.
Bốn là: Cần những quy định mới về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại, Phát triển án lệ, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động xét xử
của Tòa án nhân dân
Án lệ những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã hiệu lực
pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố là án lệ để
các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử.
82 thực sự bình đẳng với tổ chức tín dụng, thậm chí là yếu thế hơn nên cần có giới hạn khống chế mức lãi suất cho phù hợp. Bên cạnh đó, cần làm rõ hơn về phạm vi của quy định cũng như tránh sự lòng vòng, dẫn chiếu sang nhiều các luật khác dễ gây ra sự mâu thuẫn, chồng chéo. Ba là: Thống nhất nội hàm các khái niệm kinh doanh, thương mại trong toàn bộ văn bản pháp luật hiện hành Hiện nay có rất nhiều văn bản đưa ra khái niệm kinh doanh thương mại nhưng chỉ có ý tưởng chung chứ còn thực chất nội hàm pháp lý của các khái niệm trong từng văn bản lại khác nhau. Điều này gây ra khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại. Thứ hai, cần xây dựng tiêu chí hoặc định nghĩa cụ thể về một số khái niệm như: hoạt động kinh doanh, mục đích lợi nhuận, hoạt động của doanh nghiệp. Có thể thấy hoạt động kinh doanh là hoạt động từ quá trình đầu tư, sản xuất, mua bán đầu vào, cung ứng dịch vụ hàng hóa đầu ra do các chủ thể có đăng ký kinh doanh thực hiện. Mục đích lợi nhuận có thể là mục đích trực tiếp hoặc gián tiếp phát sinh trong hoạt động kinh doanh. Chính vì vậy cần quy định thể về các dấu hiệu hoặc các phạm trù để xác định khái niệm này một cách chính xác thì mới không gây khó khăn cho việc xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án theo loại việc. Thứ ba, cần nhận thức rõ ý nghĩa thực tiễn của việc phân biệt tranh chấp kinh doanh thương mại và tranh chấp dân sự. Trong bối cảnh xác định thủ tục tố tụng chung thì việc phân biệt tranh chấp chỉ có ý nghĩa điều phối giữa các tòa chuyên trách. Làm căn cứ để xác định nếu có sai sót trong vụ án kinh tế hay dân sự. Bốn là: Cần những quy định mới về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại, Phát triển án lệ, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân Án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử.
83
Việc áp dụng án lệ ý nghĩa giá trị rất quan trọng, giúp cho Tòa án kịp
thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác xét xử, khắc phục tình
trạng quá tải và chậm ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật nhất là trong
bối cảnh hiện nay, các vụ án đang tăng cả về số lượng mức độ phức tạp, nhiều
quy định của pháp luật còn mang tính định tính, chưa rõ, còn những cách hiểu
không thống nhất, những vấn đề chưa quy định cụ thể của pháp luật để điều
chỉnh. Áp dụng án lệ chính là phương thức hiệu quả để khắc phục các khiếm khuyết
của pháp luật, bảo đảm việc áp dụng pháp luật thống nhất trong xét xử, tạo lập tính
ổn định, minh bạch tiên liệu được trong các phán quyết của Tòa án. Nhiệm vụ
phát triển án lệ đã được quy định cụ thể trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm
2014, tại điểm c khoản 2 Điều 22 quy định Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao có nhiệm vụ “Lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn
mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án
nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”
3 tiêu chí lựa chọn án lệ
Án lệ được lựa chọn phải đáp ứng các tiêu chí sau:
(1) Có giá trị làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau, phân
tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý,
quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể hoặc thể hiện lẽ công
bằng đối với những vấn đề chưa có điều luật quy định cụ thể;
(2) Có tính chuẩn mực;
(3) Có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử.
Áp dụng án lệ trong xét xử
Án lệ được nghiên cứu, áp dụng trong xét xử sau 30 ngày kể từ ngày công bố.
Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ, bảo đảm
những vụ việc tình huống pháp tương tự thì phải được giải quyết như nhau.
83 Việc áp dụng án lệ có ý nghĩa và giá trị rất quan trọng, giúp cho Tòa án kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác xét xử, khắc phục tình trạng quá tải và chậm ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật nhất là trong bối cảnh hiện nay, các vụ án đang tăng cả về số lượng và mức độ phức tạp, nhiều quy định của pháp luật còn mang tính định tính, chưa rõ, còn có những cách hiểu không thống nhất, có những vấn đề chưa có quy định cụ thể của pháp luật để điều chỉnh. Áp dụng án lệ chính là phương thức hiệu quả để khắc phục các khiếm khuyết của pháp luật, bảo đảm việc áp dụng pháp luật thống nhất trong xét xử, tạo lập tính ổn định, minh bạch và tiên liệu được trong các phán quyết của Tòa án. Nhiệm vụ phát triển án lệ đã được quy định cụ thể trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, tại điểm c khoản 2 Điều 22 quy định Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ “Lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử” 3 tiêu chí lựa chọn án lệ Án lệ được lựa chọn phải đáp ứng các tiêu chí sau: (1) Có giá trị làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau, phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể hoặc thể hiện lẽ công bằng đối với những vấn đề chưa có điều luật quy định cụ thể; (2) Có tính chuẩn mực; (3) Có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử. Áp dụng án lệ trong xét xử Án lệ được nghiên cứu, áp dụng trong xét xử sau 30 ngày kể từ ngày công bố. Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ, bảo đảm những vụ việc có tình huống pháp lý tương tự thì phải được giải quyết như nhau.
84
Trường hợp vụ việc có tình huống pháp lý tương tự nhưng Tòa án không áp dụng án
lệ thì phải nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Tòa án.
Trường hợp Tòa án áp dụng án lệ để giải quyết vụ việc thì số, tên án lệ, tình
huống pháp lý, giải pháp pháp lý trong án lệ và tình huống pháp lý của vụ việc đang
được giải quyết phải được viện dẫn, phân tích trong phần "Nhận định của Tòa án";
tùy từng trường hợp cụ thể có thể trích dẫn toàn bộ hoặc một phần nội dung của án
lệ để làm rõ quan điểm của Tòa án trong việc xét xử, giải quyết vụ việc tương tự.
Bãi bỏ án lệ
Án lệ đương nhiên bị bãi bỏ trong trường hợp án lệ không còn phù hợp do
sự thay đổi của pháp luật.
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét, quyết định việc bãi bỏ
án lệ khi thuộc một trong các trường hợp sau: a- Án lệ không còn phù hợp do
chuyển biến tình hình; b- Bản án, quyết định có nội dung được lựa chọn phát triển
thành án lệ đã bị hủy, sửa toàn bộ hoặc phần liên quan đến án lệ.
Để triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ nêu trên đưa án lệ đi vào cuộc
sống, cần thực hiện các giải pháp đồng bộ sau:
(1) Xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc ban hành án lệ, cụ thể cần
bổ sung quy định của pháp luật tố tụng về giá trị pháp nguyên tắc áp dụng,
viện dẫn án lệ trong xét xử các vụ tranh chấp kinh doanh thương mại; xây dựng
Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình ban hành
và áp dụng án lệ, trong đó xác định cụ thể các tiêu chí đối với những bản án, quyết
định được lựa chọn, công nhận là án lệ; quy trình tuyển chọn, phát hiện án lệ; tiến
hành thẩm định, thông qua và công bố án lệ, nguyên tắc áp dụng án lệ trong xét xử,
việc thay thế, hủy bỏ.
(2) Tổ chức tập huấn, đào tạo kỹ năng viết bản án; kỹ năng biên tập án lệ; kỹ
năng nghiên cứu, phân tích, áp dụng án lệ cho Thẩm phán, Hội thẩm các chức
danh tư pháp khác trong và ngoài Tòa án.
84 Trường hợp vụ việc có tình huống pháp lý tương tự nhưng Tòa án không áp dụng án lệ thì phải nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Tòa án. Trường hợp Tòa án áp dụng án lệ để giải quyết vụ việc thì số, tên án lệ, tình huống pháp lý, giải pháp pháp lý trong án lệ và tình huống pháp lý của vụ việc đang được giải quyết phải được viện dẫn, phân tích trong phần "Nhận định của Tòa án"; tùy từng trường hợp cụ thể có thể trích dẫn toàn bộ hoặc một phần nội dung của án lệ để làm rõ quan điểm của Tòa án trong việc xét xử, giải quyết vụ việc tương tự. Bãi bỏ án lệ Án lệ đương nhiên bị bãi bỏ trong trường hợp án lệ không còn phù hợp do có sự thay đổi của pháp luật. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét, quyết định việc bãi bỏ án lệ khi thuộc một trong các trường hợp sau: a- Án lệ không còn phù hợp do chuyển biến tình hình; b- Bản án, quyết định có nội dung được lựa chọn phát triển thành án lệ đã bị hủy, sửa toàn bộ hoặc phần liên quan đến án lệ. Để triển khai và thực hiện tốt nhiệm vụ nêu trên và đưa án lệ đi vào cuộc sống, cần thực hiện các giải pháp đồng bộ sau: (1) Xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc ban hành án lệ, cụ thể cần bổ sung quy định của pháp luật tố tụng về giá trị pháp lý và nguyên tắc áp dụng, viện dẫn án lệ trong xét xử các vụ tranh chấp kinh doanh thương mại; xây dựng Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình ban hành và áp dụng án lệ, trong đó xác định cụ thể các tiêu chí đối với những bản án, quyết định được lựa chọn, công nhận là án lệ; quy trình tuyển chọn, phát hiện án lệ; tiến hành thẩm định, thông qua và công bố án lệ, nguyên tắc áp dụng án lệ trong xét xử, việc thay thế, hủy bỏ. (2) Tổ chức tập huấn, đào tạo kỹ năng viết bản án; kỹ năng biên tập án lệ; kỹ năng nghiên cứu, phân tích, áp dụng án lệ cho Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh tư pháp khác trong và ngoài Tòa án.
85
(3) Cần chuẩn bị tổ chức bộ máy cán bộ chuyên trách làm công tác tham
mưu, giúp việc theo hướng xác định trách nhiệm quan hệ phối hợp giữa các
đơn vị chức năng trong việc thực hiện quy trình lựa chọn, ban hành và công bố án lệ
trong từng lĩnh vực xét xử cụ thể, trong đó án lệ về tranh chấp kinh doanh
thương mại; chuẩn bị đầy đủ các điều kiện, phương tiện để tuyển chọn và phát hành
án lệ, trong đó phải kể đến vai trò của Cổng thông tin điện tử của ngành Tòa án.
Đây là một trong những nhiệm vụ mới, quan trọng mà ngành Tòa án phải thực
hiện, nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong
công tác xét xử; bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử, nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác xét xử; từ đó góp phần bảo đảm Tòa án thực sự là chỗ
dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân.
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật v mô hình, cơ cấu t chc của Tòa án:
Tiếp tục nghiên cứu, sắp xếp tổ chức bộ máy của tòa án nhân dân các cấp theo
thẩm quyền xét xử và phù hợp với thực tiễn, vì vic t chc tòa án nhân dân cấp sơ
thẩm chủ yếu theo đơn vị hành chính cp huyện như hiện nay dẫn đến b trí sở
vt cht dàn tri, b máy cng knh, biên chế tăng. Sắp xếp tổ chức bộ máy của
viện kiểm sát nhân dân các cấp phù hợp với hệ thống tổ chức của tòa án tăng
cường trách nhiệm thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra. Tiếp tục
nghiên cứu, từng bước sắp xếp, thu gọn đầu mối cơ quan điều tra, đáp ứng yêu cầu
công tác điều tra hình sự, phòng, chống tội phạm và phù hợp với tổ chức, hoạt động
của viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân theo tinh thần cải cách tư pháp.
Luận văn đưa ra ý kiến về đổi mới mô hình hệ thống Tòa án:
- Tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân theo cấp xét xử gồm ba cấp: thẩm,
phúc thẩm và Tòa án nhân dân tối cao.
- Thành lập Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm theo khu vực, không
theo địa giới hành chính.
- Mỗi Tòa cấp thẩm, phúc thẩm khu vực chỉ có một bộ phận văn phòng
nhưng đội ngũ Thẩm phán thì được phân công thành các ban khác nhau trong đó có
ban chuyên trách xét xử về tranh chấp kinh doanh thương mại
85 (3) Cần chuẩn bị tổ chức bộ máy và cán bộ chuyên trách làm công tác tham mưu, giúp việc theo hướng xác định rõ trách nhiệm và quan hệ phối hợp giữa các đơn vị chức năng trong việc thực hiện quy trình lựa chọn, ban hành và công bố án lệ trong từng lĩnh vực xét xử cụ thể, trong đó có án lệ về tranh chấp kinh doanh thương mại; chuẩn bị đầy đủ các điều kiện, phương tiện để tuyển chọn và phát hành án lệ, trong đó phải kể đến vai trò của Cổng thông tin điện tử của ngành Tòa án. Đây là một trong những nhiệm vụ mới, quan trọng mà ngành Tòa án phải thực hiện, nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác xét xử; bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác xét xử; từ đó góp phần bảo đảm Tòa án thực sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân. 3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về mô hình, cơ cấu tổ chức của Tòa án: Tiếp tục nghiên cứu, sắp xếp tổ chức bộ máy của tòa án nhân dân các cấp theo thẩm quyền xét xử và phù hợp với thực tiễn, vì việc tổ chức tòa án nhân dân cấp sơ thẩm chủ yếu theo đơn vị hành chính cấp huyện như hiện nay dẫn đến bố trí cơ sở vật chất dàn trải, bộ máy cồng kềnh, biên chế tăng. Sắp xếp tổ chức bộ máy của viện kiểm sát nhân dân các cấp phù hợp với hệ thống tổ chức của tòa án và tăng cường trách nhiệm thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra. Tiếp tục nghiên cứu, từng bước sắp xếp, thu gọn đầu mối cơ quan điều tra, đáp ứng yêu cầu công tác điều tra hình sự, phòng, chống tội phạm và phù hợp với tổ chức, hoạt động của viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân theo tinh thần cải cách tư pháp. Luận văn đưa ra ý kiến về đổi mới mô hình hệ thống Tòa án: - Tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân theo cấp xét xử gồm ba cấp: sơ thẩm, phúc thẩm và Tòa án nhân dân tối cao. - Thành lập Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm theo khu vực, không theo địa giới hành chính. - Mỗi Tòa cấp sơ thẩm, phúc thẩm khu vực chỉ có một bộ phận văn phòng nhưng đội ngũ Thẩm phán thì được phân công thành các ban khác nhau trong đó có ban chuyên trách xét xử về tranh chấp kinh doanh thương mại
86
- Tòa án tối cao bộ phận văn phòng, các ban chuyên trách Hội đồng
Thẩm phán tối cao. Trong đó các ban chuyên trách sẽ xét xử giám đốc thẩm, tái
thẩm từng lĩnh vực còn Hội đồng Thẩm phán tối cao không xét xử chỉ làm
nhiệm vụ giải thích, hướng dẫn việc áp dụng pháp luật cho ngành Tòa án.
Về quyền giải thích pháp luật của Tòa án: Tại Điều 79 Hiến pháp 2013 quy
định quyền “Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh” Ủy ban thường vụ Quốc hội
Trên thực tế thì Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thực hiện không hiệu quả chức năng
này, nhiều ý kiến cho rằng “Giải thích Hiến pháp luật phải một trong những
biểu hiện thẩm quyền của quyền pháp”. Tác giả đồng ý với quan điểm này bởi
muốn giải thích được các điều luật một cách chính xác thì phải đặt việc giải thích
trong từng trường hợp, gắn với các sự kiện pháp lý cụ thể. Mặc dù Hiến pháp không
quy định Tòa án quyền giải thích pháp luật nhưng trên thực tế, Tòa án luôn
vai trò quan trọng trong việc giải thích pháp luật thông qua các Nghị quyết của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và các công văn giải đáp nghiệp vụ, hướng
dẫn thi hành pháp luật thống nhất.
Thực tiễn thấy rằng, Tòa án nhân n các địa phương vẫn thực hiện theo
hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao đối với từng vấn đề cụ thể của các văn bản
khác liên quan đến hoạt động xét xử. vậy vấn đề quyền giải thích pháp luật của
Tòa án cần được pháp luật quy định cụ thể, đảm bảo việc áp dụng thống nhất các
quy định của pháp luật.
Nên quy định Tòa án có thẩm quyền giải thích luật để phù hợp với Hiến pháp
2013 đã ghi nhận Tòa án quan thực hiện quyền pháp để phù hợp với chức
năng xét xử của Tòa án. Hiện tại quyền giải thích pháp luật của Tòa án chưa được
quy định trong Hiến pháp nên việc giải thích pháp luật mới chỉ dừng lại Nghị
quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chỉ Tòa án các địa
phương trong cả nước thực hiện theo các hướng dẫn này.
3.2.3. Hoàn thiện công tác tổ chức thi hành Bản án, quyết đnh của Tòa án
Sau quá trình giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại; các Bản án,
quyết định của Tòa kinh tế cần được thi hành một cách nghiêm túc, đúng pháp luật
86 - Ở Tòa án tối cao có bộ phận văn phòng, các ban chuyên trách và Hội đồng Thẩm phán tối cao. Trong đó các ban chuyên trách sẽ xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm ở từng lĩnh vực còn Hội đồng Thẩm phán tối cao không xét xử mà chỉ làm nhiệm vụ giải thích, hướng dẫn việc áp dụng pháp luật cho ngành Tòa án. Về quyền giải thích pháp luật của Tòa án: Tại Điều 79 Hiến pháp 2013 quy định quyền “Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh” là Ủy ban thường vụ Quốc hội Trên thực tế thì Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thực hiện không hiệu quả chức năng này, nhiều ý kiến cho rằng “Giải thích Hiến pháp và luật phải là một trong những biểu hiện thẩm quyền của quyền tư pháp”. Tác giả đồng ý với quan điểm này bởi muốn giải thích được các điều luật một cách chính xác thì phải đặt việc giải thích trong từng trường hợp, gắn với các sự kiện pháp lý cụ thể. Mặc dù Hiến pháp không quy định Tòa án có quyền giải thích pháp luật nhưng trên thực tế, Tòa án luôn có vai trò quan trọng trong việc giải thích pháp luật thông qua các Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và các công văn giải đáp nghiệp vụ, hướng dẫn thi hành pháp luật thống nhất. Thực tiễn thấy rằng, Tòa án nhân dân các địa phương vẫn thực hiện theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao đối với từng vấn đề cụ thể của các văn bản khác liên quan đến hoạt động xét xử. Vì vậy vấn đề quyền giải thích pháp luật của Tòa án cần được pháp luật quy định cụ thể, đảm bảo việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật. Nên quy định Tòa án có thẩm quyền giải thích luật để phù hợp với Hiến pháp 2013 đã ghi nhận Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp để phù hợp với chức năng xét xử của Tòa án. Hiện tại quyền giải thích pháp luật của Tòa án chưa được quy định trong Hiến pháp nên việc giải thích pháp luật mới chỉ dừng lại ở Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và chỉ Tòa án các địa phương trong cả nước thực hiện theo các hướng dẫn này. 3.2.3. Hoàn thiện công tác tổ chức thi hành Bản án, quyết định của Tòa án Sau quá trình giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại; các Bản án, quyết định của Tòa kinh tế cần được thi hành một cách nghiêm túc, đúng pháp luật
87
để đảm bảo quyền lợi nghĩa vụ của các bên liên quan. Do đó, cần hoàn thiện
công tác tổ chức của cơ quan thi hành án để các phán quyết về giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại được thi hành một cách đầy đủ, nhanh chóng và kịp thời.
Một trong những nhiệm vụ chủ yếu là quán triệt, tổ chức triển khai thực hiện
nghiêm túc, hiệu quả những chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước
trong hoạt động thi hành án tranh cấp kinh doanh thương mại, đặc biệt là các Nghị
quyết như Nghị quyết TW 4 khóa XII, Nghị quyết TW 5 khóa XII, Nghị quyết số
18-NQ/TW, Nghị quyết số 56 ngày 24/11/2017 Quốc hội khóa XIV gắn với Chỉ thị
số 05 CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị, các Nghị quyết, chỉ đạo của Bộ Tư
pháp, các văn bản, chỉ đạo của Tổng cục THADS, qua đó tiếp tục xây dựng các
quan THADS trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm an
ninh trật tự, an toàn hội, p phần cải thiện môi trường đầu kinh doanh
nâng cao mức độ tín nhiệm của nền kinh tế.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế về THA trong đó thi hành án tranh chấp kinh
doanh thương mại. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Tư pháp, cấp ủy Đảng,
chính quyền các cấp trong tổ chức thi hành pháp luật THA. Tổ chức thi hành
nghiêm các văn bản pháp luật về THA các văn bản pháp luật có liên quan đến
quá trình THA, kịp thời hướng dẫn, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi
hành. Bên cạnh đó, hoàn thành chỉ tiêu, nhiệm vụ THA theo các Nghị quyết của
Quốc hội, Chính phủ Chỉ thị 05 về tăng cường công tác THA của Thủ tướng
Chính phủ.
Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp liên ngành và phối hợp với cấp ủy, chính
quyền địa phương trong công tác tổ chức thực hiện nghiêm túc các Nghị quyết, Chỉ
thị của Đảng và pháp luật THA, công tác giáo dục chính trị, tưởng, kiểm tra,
giám sát và công tác cán bộ.
3.2.4. Tăng cường cơ s vt cht cho hoạt động xét xử và chế độ đãi ngộ phù hợp
vi những người tiến hành tố tng
Hiện nay cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật phục vụ cho hoạt
động xét xử của ngành Tòa án nói chung, đối với Tòa nhân dân thành phố Hạ Long
87 để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan. Do đó, cần hoàn thiện công tác tổ chức của cơ quan thi hành án để các phán quyết về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại được thi hành một cách đầy đủ, nhanh chóng và kịp thời. Một trong những nhiệm vụ chủ yếu là quán triệt, tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả những chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước trong hoạt động thi hành án tranh cấp kinh doanh thương mại, đặc biệt là các Nghị quyết như Nghị quyết TW 4 khóa XII, Nghị quyết TW 5 khóa XII, Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 56 ngày 24/11/2017 Quốc hội khóa XIV gắn với Chỉ thị số 05 CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị, các Nghị quyết, chỉ đạo của Bộ Tư pháp, các văn bản, chỉ đạo của Tổng cục THADS, qua đó tiếp tục xây dựng các cơ quan THADS trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội, góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và nâng cao mức độ tín nhiệm của nền kinh tế. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về THA trong đó có thi hành án tranh chấp kinh doanh thương mại. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Tư pháp, cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp trong tổ chức thi hành pháp luật THA. Tổ chức thi hành nghiêm các văn bản pháp luật về THA và các văn bản pháp luật có liên quan đến quá trình THA, kịp thời hướng dẫn, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành. Bên cạnh đó, hoàn thành chỉ tiêu, nhiệm vụ THA theo các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ và Chỉ thị 05 về tăng cường công tác THA của Thủ tướng Chính phủ. Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp liên ngành và phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương trong công tác tổ chức thực hiện nghiêm túc các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và pháp luật THA, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, kiểm tra, giám sát và công tác cán bộ. 3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất cho hoạt động xét xử và chế độ đãi ngộ phù hợp với những người tiến hành tố tụng Hiện nay cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật phục vụ cho hoạt động xét xử của ngành Tòa án nói chung, đối với Tòa nhân dân thành phố Hạ Long
88
nói riêng chưa được bảo đảm, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác xét xử.
Những trang thiết bị như hệ thống máy vi tính, máy phô tô, hệ thống âm thanh, loa
máy, máy ghi âm, ghi hình, máy chiếu… còn chậm được trang bị. Bên cạnh đó, chế
độ bổ nhiệm, nhiệm kỳ công tác, các chế độ chính sách, chế độ tiền lương, phụ cấp
của những người tiến hành tố tụng còn thấp, chưa tương xứng với tính chất lao động
đặc thù của những người làm công tác xét xử, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến
sự độc lập và tinh thần trách nhiệm của họ trong hoạt động xét xử.
Để hoạt động xét xử của Tòa án có chất lượng và hiệu quả, cần đảm bảo đủ cơ
sở vật chất cần thiết về trụ sở, trang thiết bị làm việc, phương tiện kỹ thuật, các văn
bản pháp luật cần thiết như hiện đại hoá các phương tiện làm việc và cơ sở vật chất
phục vụ cho công tác của Thẩm phán, cán bộ và hoạt động xét xử, cần trang bị cho
mỗi Thẩm phán một máy tính cá nhân và phần mềm lưu trữ văn bản pháp luật được
cập nhật liên tục, nhất là các văn bản pháp luật mới ban hành liên quan đến hoạt
động xét xử của Tòa án nhân dân; Cần tăng cường việc cấp phát tài liệu, sách báo
về khoa học pháp lý, các tài liệu tham khảo cho các Thẩm phán cán bộ nhất
các tạp chí lý luận chuyên sâu, các chuyên đề nghiên cứu về pháp luật, các tài liệu
tổng kết công tác xét xử, bình luận khoa học pháp lý chuyên ngành... để họ thể
kịp thời nắm bắt được tri thức khoa học pháp lý phục vụ cho việc nghiên cứu nhằm
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Nhà nước cần những chính sách đãi
ngộ phù hợp với yêu cầu cải cách pháp, nhất là đối với đội ngũ Thẩm phán, như
chế độ tiền lương, phụ cấp, các chế độ ưu đãi khi thi hành công vụ, chế độ bảo vệ để
chống lại sự đe dọa của tội phạm. Làm tốt những điều này sẽ tạo tâm lý yên tâm cho
những người làm công tác xét xử, để họthể hoàn thành tốt những công việc mà
mình được giao, phát huy tính độc lập, chủ động trong việc xét xử, góp phần nâng
cao chất lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của ngành Tòa án nói
chung, xét xử các vụ tranh chấp kinh doanh thương mại nói riêng của Tòa án nhân
dân thành phố Hạ Long trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian tới.
3.2.5. Hoàn thiện công tác đào tạo cán bộ trong gii quyết tranh chp kinh doanh
thương mại
88 nói riêng chưa được bảo đảm, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác xét xử. Những trang thiết bị như hệ thống máy vi tính, máy phô tô, hệ thống âm thanh, loa máy, máy ghi âm, ghi hình, máy chiếu… còn chậm được trang bị. Bên cạnh đó, chế độ bổ nhiệm, nhiệm kỳ công tác, các chế độ chính sách, chế độ tiền lương, phụ cấp của những người tiến hành tố tụng còn thấp, chưa tương xứng với tính chất lao động đặc thù của những người làm công tác xét xử, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sự độc lập và tinh thần trách nhiệm của họ trong hoạt động xét xử. Để hoạt động xét xử của Tòa án có chất lượng và hiệu quả, cần đảm bảo đủ cơ sở vật chất cần thiết về trụ sở, trang thiết bị làm việc, phương tiện kỹ thuật, các văn bản pháp luật cần thiết như hiện đại hoá các phương tiện làm việc và cơ sở vật chất phục vụ cho công tác của Thẩm phán, cán bộ và hoạt động xét xử, cần trang bị cho mỗi Thẩm phán một máy tính cá nhân và phần mềm lưu trữ văn bản pháp luật được cập nhật liên tục, nhất là các văn bản pháp luật mới ban hành liên quan đến hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân; Cần tăng cường việc cấp phát tài liệu, sách báo về khoa học pháp lý, các tài liệu tham khảo cho các Thẩm phán và cán bộ nhất là các tạp chí lý luận chuyên sâu, các chuyên đề nghiên cứu về pháp luật, các tài liệu tổng kết công tác xét xử, bình luận khoa học pháp lý chuyên ngành... để họ có thể kịp thời nắm bắt được tri thức khoa học pháp lý phục vụ cho việc nghiên cứu nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Nhà nước cần có những chính sách đãi ngộ phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp, nhất là đối với đội ngũ Thẩm phán, như chế độ tiền lương, phụ cấp, các chế độ ưu đãi khi thi hành công vụ, chế độ bảo vệ để chống lại sự đe dọa của tội phạm. Làm tốt những điều này sẽ tạo tâm lý yên tâm cho những người làm công tác xét xử, để họ có thể hoàn thành tốt những công việc mà mình được giao, phát huy tính độc lập, chủ động trong việc xét xử, góp phần nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của ngành Tòa án nói chung, xét xử các vụ tranh chấp kinh doanh thương mại nói riêng của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian tới. 3.2.5. Hoàn thiện công tác đào tạo cán bộ trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
89
Trong quá trình tố tụng các tranh chấp kinh doanh, thương mại nói riêng
các tranh chấp khác được giải quyết tại tòa án nói chung, luôn cần đến sự hiểu biết,
công tâm của những người tham gia tiến hành giải quyết. Trình độ chuyên môn
nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp là điều mà các cán bộ của Tòa án luôn quan tâm
và không ngừng hướng đến để hoàn thiện bản thân. vậy, trong công tác đào tạo
cán bộ của Tòa kinh tế để giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại; cần
tuân thủ một số vấn đề sau:
Tiếp tục tăng cường công tác quản lý cán bộ và kỷ luật ngành; thực hiện chặt
chẽ công tác quản lý bộ máy và công tác cán bộ, công chức Tòa án trong sạch vững
mạnh, phẩm chất, đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị - nghề nghiệp, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, kỹ năng tác nghiệp được nâng cao; nhạy bén,
linh hoạt, có sáng kiến cải tiến trong các lĩnh vực công tác.
Tăng cường đào tạo công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và lý
luận chính trị cho Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư tòa án, Hội thẩm nhân dân,
nhất là tập trung đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý trong diện đã quy hoạch, bảo đảm
đội ngũ kế thừa. Khuyến khích công chức học ngoại ngữ, tin học, để nâng cao năng
lực, trình độ về mọi mặt, nhất cán bộ trẻ có khả năng phát triển để đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ đối ngoại.
Thực hiện tốt công tác quy hoạch, bổ sung quy hoạch định kỳ và quản lý quy
hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý trong ngành Tòa án nhân dân Quảng Ninh. Tiếp tục
thực hiện công tác luân chuyển, biệt phái, điều động, bổ nhiệm, chuyển đổi vị trí
công tác đối với cán bộ trong ngành theo nhu cầu và đặc điểm của từng Tòa án.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện xử nghiêm
đối với tập thể nhân cán bộ, công chức trong ngành Tòa án vi phạm, lợi
dụng nghề nghiệp, chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ để tham nhũng, hối
lộ, tiêu cực, lãng phí, móc ngoặc để trục lợi, cũng như các biểu hiện vi phạm đạo
đức nghề nghiệp, vi pham quy tắc ứng xử cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân
dân. Kiên quyết loại ra khỏi ngành những cán bộ, công chức vi phạm Quy chế hoạt
động của ngành.
89 Trong quá trình tố tụng các tranh chấp kinh doanh, thương mại nói riêng và các tranh chấp khác được giải quyết tại tòa án nói chung, luôn cần đến sự hiểu biết, công tâm của những người tham gia tiến hành giải quyết. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp là điều mà các cán bộ của Tòa án luôn quan tâm và không ngừng hướng đến để hoàn thiện bản thân. Vì vậy, trong công tác đào tạo cán bộ của Tòa kinh tế để giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại; cần tuân thủ một số vấn đề sau: Tiếp tục tăng cường công tác quản lý cán bộ và kỷ luật ngành; thực hiện chặt chẽ công tác quản lý bộ máy và công tác cán bộ, công chức Tòa án trong sạch vững mạnh, có phẩm chất, đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị - nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, kỹ năng tác nghiệp được nâng cao; nhạy bén, linh hoạt, có sáng kiến cải tiến trong các lĩnh vực công tác. Tăng cường đào tạo công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị cho Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký tòa án, Hội thẩm nhân dân, nhất là tập trung đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý trong diện đã quy hoạch, bảo đảm đội ngũ kế thừa. Khuyến khích công chức học ngoại ngữ, tin học, để nâng cao năng lực, trình độ về mọi mặt, nhất là cán bộ trẻ có khả năng phát triển để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ đối ngoại. Thực hiện tốt công tác quy hoạch, bổ sung quy hoạch định kỳ và quản lý quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý trong ngành Tòa án nhân dân Quảng Ninh. Tiếp tục thực hiện công tác luân chuyển, biệt phái, điều động, bổ nhiệm, chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ trong ngành theo nhu cầu và đặc điểm của từng Tòa án. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm đối với tập thể và cá nhân cán bộ, công chức trong ngành Tòa án có vi phạm, lợi dụng nghề nghiệp, chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ để tham nhũng, hối lộ, tiêu cực, lãng phí, móc ngoặc để trục lợi, cũng như các biểu hiện vi phạm đạo đức nghề nghiệp, vi pham quy tắc ứng xử cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân. Kiên quyết loại ra khỏi ngành những cán bộ, công chức vi phạm Quy chế hoạt động của ngành.
90
Việc quản lý, sử dụng công sở, tài chính, công sản phải đúng quy định, đúng
mục đích, đúng chế độ, hiệu quả, tiết kiệm và công khai, minh bạch. Thực hiện kịp
thời các chính sách của Nhà nước đối với cán bộ, công chức; có kế hoạch điều hành
tiết kiệm chi trong kinh phí, thực hiện tự chủ để chi thu nhập tăng thêm cho cán bộ,
công chức, tạo động lực để phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Nếu thẩm phán được giao giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại
nhưng do chủ quan, thiếu trách nhiệm, do trình độ nghiệp vụ yếu kém, để án bị hủy
từ 1,16% trở lên hoặc để án bị sửa từ 4,2% trở lên, hoặc để án quá hạn luật định 3%
trở lên phải kiểm điểm, giải trình. Thẩm phán đã phải kiểm điểm liên tiếp từ 3 năm
trở lên phải tự nguyện thôi làm Thẩm phán, hoặc tự nguyện để điều động đến các
huyện miền núi ít án, phù hợp với năng lực bản thân. Nếu không tự nguyện thì sẽ áp
dụng biện pháp tổ chức giải quyết nghỉ theo Nghị định của Chính phủ quy định
chính sách tinh giản biên chế với do nhiều năm không hoàn thành nhiệm vụ.
Tiêu chí này cũng được áp dụng với Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân hai
cấp; Chánh tòa, Phó Chánh tòa các Tòa chuyên trách.
Đối với thẩm phán
Thẩm phán là một chức danh tư pháp quan trọng không thể thiếu trong tổ chức
Tòa án nói riêng trong bộ máy nhà nước nói chung. Thẩm phán giữ vị trí quan
trọng trong việc xét xử - giai đoạn trung tâm của hoạt động tố tụng, vì thế số lượng,
chất lượng của đội ngũ thẩm phán cũng như cách thức tổ chức, cơ chế vận hành đối
với đội ngũ thẩm phán yếu tố mang tính quyết định đến hiệu quả quá trình giải
quyết vụ án của các quan tiến hành tố tụng. Pháp luật cần quy định ràng, c
thể hơn nữa về tính chuyên nghiệp của thẩm phán trên tất cả các lĩnh vực như:
chế bảo đảm, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nhiệp, kỹ năng xét xử... để có thể
xây dựng đội ngũ thẩm phán chuyên nghiệp.
Việc đảm bảo nh chuyên nghiệp trong hoạt động xét xử của thẩm phán và
xây dựng đội ngũ thẩm phán chuyên nghiệp yếu tố quan trọng mang tính tiên
quyết để nâng cao địa vị của Thẩm phán trong hoạt động tư pháp và đối với xã hội,
góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử.
90 Việc quản lý, sử dụng công sở, tài chính, công sản phải đúng quy định, đúng mục đích, đúng chế độ, hiệu quả, tiết kiệm và công khai, minh bạch. Thực hiện kịp thời các chính sách của Nhà nước đối với cán bộ, công chức; có kế hoạch điều hành tiết kiệm chi trong kinh phí, thực hiện tự chủ để chi thu nhập tăng thêm cho cán bộ, công chức, tạo động lực để phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Nếu thẩm phán được giao giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại nhưng do chủ quan, thiếu trách nhiệm, do trình độ nghiệp vụ yếu kém, để án bị hủy từ 1,16% trở lên hoặc để án bị sửa từ 4,2% trở lên, hoặc để án quá hạn luật định 3% trở lên phải kiểm điểm, giải trình. Thẩm phán đã phải kiểm điểm liên tiếp từ 3 năm trở lên phải tự nguyện thôi làm Thẩm phán, hoặc tự nguyện để điều động đến các huyện miền núi ít án, phù hợp với năng lực bản thân. Nếu không tự nguyện thì sẽ áp dụng biện pháp tổ chức giải quyết nghỉ theo Nghị định của Chính phủ quy định chính sách tinh giản biên chế với lý do là nhiều năm không hoàn thành nhiệm vụ. Tiêu chí này cũng được áp dụng với Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân hai cấp; Chánh tòa, Phó Chánh tòa các Tòa chuyên trách. Đối với thẩm phán Thẩm phán là một chức danh tư pháp quan trọng không thể thiếu trong tổ chức Tòa án nói riêng và trong bộ máy nhà nước nói chung. Thẩm phán giữ vị trí quan trọng trong việc xét xử - giai đoạn trung tâm của hoạt động tố tụng, vì thế số lượng, chất lượng của đội ngũ thẩm phán cũng như cách thức tổ chức, cơ chế vận hành đối với đội ngũ thẩm phán là yếu tố mang tính quyết định đến hiệu quả quá trình giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng. Pháp luật cần quy định rõ ràng, cụ thể hơn nữa về tính chuyên nghiệp của thẩm phán trên tất cả các lĩnh vực như: cơ chế bảo đảm, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nhiệp, kỹ năng xét xử... để có thể xây dựng đội ngũ thẩm phán chuyên nghiệp. Việc đảm bảo tính chuyên nghiệp trong hoạt động xét xử của thẩm phán và xây dựng đội ngũ thẩm phán chuyên nghiệp là yếu tố quan trọng mang tính tiên quyết để nâng cao địa vị của Thẩm phán trong hoạt động tư pháp và đối với xã hội, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử.