Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Long Biên, thành phố Hà Nội

6,109
382
90
16
a.2) C ý gây thương tích hoặc gây tn hi cho sc kho ca nn nhân là
lý do thc hin nhim v giáo dục, đào tạo, dy ngh ca h đối vi b cáo, không
phân bit nhim v đó đã được thc hiện hay đang được thc hin và không k thi
gian dài hay ngn;
a.3) T l thương tật ca nạn nhân dưới 11%
e) Phm ti có t chc
Phm ti t chc hình thức đồng phm s cu kết cht ch gia
những người cùng thc hin ti CYGTT hoc gây tn hi cho sc khe của người
khác. S cu kết cht ch gia những người thc hin ti phm th hin mc đ liên
kết, mc đ phân hóa vai trò, nhim v c th ca từng người.
g) Phm ti trong th tm gi, tm giam ho áp dng
bi giáo dc
Ngưi b tm gi người b bắt trong trường hp khn cp, phm ti qu
tang người b bt theo quyết định truy nã hoặc người phm ti t thú, đầu thú và đối
vi h đã có quyết định tm gi.
Ngưi b tm giam là b can, b cáo, b cơ quan Nhà nưc có thm quyn ra
quyết đnh áp dng bin pháp tm giam.
Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng áp dng đối với người chưa thành niên
phm ti là bin pháp do Tòa án quyết định, áp dụng đối với người chưa thành niên
t đủ 14 tuổi đến dưới 18 tui phm ti, nếu thy không cn thiết áp dng hình pht
vi họ, nhưng do tính chất ca hành vi phm ti, do nhân thân và môi trường sng
của người đó cần đưa người đó vào trường giáo dưỡng. Như vậy, có th thy
những người b áp dng bin pháp tm gi, tm giam hoặc đang bị áp dng bin
pháp đưa vào cơ sở giáo dc là những người đang bị áp dng biện pháp đặc biệt đ
qun lý h, tuy nhiên h vn tiếp tc thc hin hành vi phm ti CYGTT hoc gây
tn hi cho sc khe của người khác. Đây chính là lí do để tăng nặng TNHS đối vi
những người này.

16 a.2) Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân là vì lý do thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, dạy nghề của họ đối với bị cáo, không phân biệt nhiệm vụ đó đã được thực hiện hay đang được thực hiện và không kể thời gian dài hay ngắn; a.3) Tỷ lệ thương tật của nạn nhân dưới 11% e) Phm ti có t chc Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Sự cấu kết chặt chẽ giữa những người thực hiện tội phạm thể hiện mức độ liên kết, mức độ phân hóa vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng người. g) Phm ti trong th tm gi, tm giam ho áp dng bi giáo dc Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Người bị tạm giam là bị can, bị cáo, bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp tạm giam. Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội là biện pháp do Tòa án quyết định, áp dụng đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội, nếu thấy không cần thiết áp dụng hình phạt với họ, nhưng do tính chất của hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của người đó mà cần đưa người đó vào trường giáo dưỡng. Như vậy, có thể thấy những người bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục là những người đang bị áp dụng biện pháp đặc biệt để quản lý họ, tuy nhiên họ vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Đây chính là lí do để tăng nặng TNHS đối với những người này. 
17
Gây thương tích thuê trường hợp người phm ti li ích vt cht thp
hèn, mc th không mâu thun, thù hn vi nn nhân, mà vn thc hin
hành vi CYGTT hoc gây tn hi cho sc khe của người khác. Hành vi này th
hin nhu cu vt cht thp hèn, th hin s suy đồi v nhân cách, đạo đức đáng bị
hi lên án.
i) Có tính ch hoc tái phm nguy him
Phm ti tính chất côn đồ trường hp thc hin ti phm có tính hung
hãn cao độ, coi thường tính mng, sc khe của người khác, gây thương tích không
có nguyên c hoc phm ti vì lý do nh nhen; đâm, đánh người dã man…[2]
Dựa trên quy định của Điều 49 BLHS 1999 có th hiu tái phm nguy him
trưng hợp người phm tội đã bị kết án v ti rt nghiêm trng, tội đặc bit
nghiêm trng do c ý gây, chưa được xóa án tích mà li phm ti rt nghiêm trng,
đặc bit nghim trng do CYGTT hoc gây tn hi cho sc khe của người khác,
hoặc người này đã phm tội theo quy định t khon 2 Điu 104 BLHS 1999 tr lên
(là ti nghiêm trọng đặc bit nghiêm trng) chưa được xóa án tích mà li phm
ti thuc khon 3, khon 4 BLHS 1999 hoặc trường hợp đã tái phạm, chưa được
xóa án tích mà li phm ti này.
 cn tr i thi hành công v hoc vì lý do công v ca nn nhân
Công v thường được hiu là nhng ng vic vì li ích chung mà vic thc
hin nhng công việc y đòi hỏi người thi hành phi có nhng quyn hành nht
định đối vi những ngưi khác [56; Tr.22] Ví d nhng công việc như giữ gìn trt
t công cng, gi gìn an toàn giao thông, soát vé ga tàu, sân bay…Ngưi thi hành
công v nhng người được giao thc hin công vic vì li ích chung do cơ quan
Nhà nước hoc t chc hi giao cho một cách thưng xuyên hoc tm thi
hưởng lương hoặc không hưởng lương hoặc không hưởng lương, họ có quyn hn
nhất định khi thc hin công v đó. d: công an, qun th trường, thanh tra
giao thông…
CYGTT hoc gây tn hi cho sc khe của người khác để cn tr người thi
hành công v là trường hợp người phm ti CYGTT hoc gây tn hi cho sc khe
17 Gây thương tích thuê là trường hợp người phạm tội vì lợi ích vật chất thấp hèn, mặc dù có thể không mâu thuẫn, thù hằn gì với nạn nhân, mà vẫn thực hiện hành vi CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Hành vi này thể hiện nhu cầu vật chất thấp hèn, thể hiện sự suy đồi về nhân cách, đạo đức đáng bị xã hội lên án. i) Có tính ch hoc tái phm nguy him Phạm tội có tính chất côn đồ là trường hợp thực hiện tội phạm có tính hung hãn cao độ, coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác, gây thương tích không có nguyên cớ hoặc phạm tội vì lý do nhỏ nhen; đâm, đánh người dã man…[2] Dựa trên quy định của Điều 49 BLHS 1999 có thể hiểu tái phạm nguy hiểm là trường hợp người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý gây, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiệm trọng do CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, hoặc người này đã phạm tội theo quy định từ khoản 2 Điều 104 BLHS 1999 trở lên (là tội nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng) chưa được xóa án tích mà lại phạm tội thuộc khoản 3, khoản 4 BLHS 1999 hoặc trường hợp đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội này.  cn tr i thi hành công v hoc vì lý do công v ca nn nhân Công vụ thường được hiểu là những công việc vì lợi ích chung mà việc thực hiện những công việc này đòi hỏi người thi hành phải có những quyền hành nhất định đối với những người khác [56; Tr.22] Ví dụ những công việc như giữ gìn trật tự công cộng, giữ gìn an toàn giao thông, soát vé ở ga tàu, sân bay…Người thi hành công vụ là những người được giao thực hiện công việc vì lợi ích chung do cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội giao cho một cách thường xuyên hoặc tạm thời có hưởng lương hoặc không hưởng lương hoặc không hưởng lương, họ có quyền hạn nhất định khi thực hiện công vụ đó. Ví dụ: công an, quản lí thị trường, thanh tra giao thông… CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác để cản trở người thi hành công vụ là trường hợp người phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
18
của người đang thi hành công vụ để cn tr người đó thi hành các nhim v do cơ
quan nhà nước, t chc xã hi giao cho vì li ích chung của nhà nưc, xã hội như:
gây thương tích cho cán b thuế đang thu thuếm cho h không thu được thuế.v.v.
Nếu người phm ti CYGTT hoc gây tn hi cho sc khe của người đang thi
hành công v nhưng vì động cơ khác không phải để cn tr người thi hành công v
thc hin nhim v được giao thì tùy từng trường hợp người phm ti b truy
cu TNHS các ti danh khác nhau.
1.1.2.3. Ch th ca ti c c gây tn hi cho sc khe
ci khác
Ch th ca ti phm theo lut hình s Vit Nam hin hành chth là con
người c th. BLHS 2015 đã quy định pháp nhân thương mại thch th ca
ti phm. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 76 BLHS 2015 thì pháp nhân thương
mi không th là ch th ca ti c ý gây thương tích hoặc gây tn hi cho sc khe
ca người khác (quy định ti Điu 134 BLHS 2015)
Ch th ca ti phạm là người có năng lực TNHS đạt độ tui nht định và đã
thc hin hành vi phm ti c th. Khi thc hin hành vi phm ti ch th kh
năng nhận thức được tính cht nguy him cho xã hi v hành vi ca mình và có kh
năng điều khin được hành vi y. Theo Điều 12 BLHS năm 1999 thì: i t 
16 tui tr lên phi chu TNHS v mi ti phm. i t  14 tui tr lên,
 16 tui phi chu TNHS v ti phm rt nghiêm trng do c ý hoc
ti phc bit nghiêm tr
Điều 13 BLHS 1999 quy định tình trạng không có năng lực TNHS ti khon
1 quy định: i thc hin hành vi nguy him cho xã hc các
bênh tâm thn hoc mt bnh khác làm mt kh n thc hoc kh 
u khin hành vi ca mình, thì không phi chi vi nhi này
phi áp dng bin pháp bt buc cha b
Như vậy theo quy đnh ca BLHS 1999 thì ch th ca ti  
 là một người có đủ năng lực chu TNHS và phải đạt độ tui nhất định mà xâm
phạm đến sc khe của người khác mt cách trái pháp lut. Nhng người t đủ 14
18 của người đang thi hành công vụ để cản trở người đó thi hành các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội giao cho vì lợi ích chung của nhà nước, xã hội như: gây thương tích cho cán bộ thuế đang thu thuế làm cho họ không thu được thuế.v.v. Nếu người phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người đang thi hành công vụ nhưng vì động cơ khác không phải để cản trở người thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ được giao thì tùy từng trường hợp mà người phạm tội bị truy cứu TNHS các tội danh khác nhau. 1.1.2.3. Ch th ca ti c c gây tn hi cho sc khe ci khác Chủ thể của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam hiện hành chỉ có thể là con người cụ thể. BLHS 2015 đã quy định pháp nhân thương mại có thể là chủ thể của tội phạm. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 76 BLHS 2015 thì pháp nhân thương mại không thể là chủ thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (quy định tại Điều 134 BLHS 2015) Chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS đạt độ tuổi nhất định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể. Khi thực hiện hành vi phạm tội chủ thể có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy. Theo Điều 12 BLHS năm 1999 thì: i t  16 tui tr lên phi chu TNHS v mi ti phm. i t  14 tui tr lên,  16 tui phi chu TNHS v ti phm rt nghiêm trng do c ý hoc ti phc bit nghiêm tr Điều 13 BLHS 1999 quy định tình trạng không có năng lực TNHS tại khoản 1 quy định: i thc hin hành vi nguy him cho xã hc các bênh tâm thn hoc mt bnh khác làm mt kh n thc hoc kh  u khin hành vi ca mình, thì không phi chi vi nhi này phi áp dng bin pháp bt buc cha b Như vậy theo quy định của BLHS 1999 thì chủ thể của tội    là một người có đủ năng lực chịu TNHS và phải đạt độ tuổi nhất định mà xâm phạm đến sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật. Những người từ đủ 14
19
tuổi đến dưới 16 tui không phi chu TNHS theo các khon 1 2 của Điều 104
BLHS 1999 những ngưi này ch phi chu TNHS theo các khon 3 4 ca
Điu 104 BLHS 1999. Những người t đủ 16 tui tr lên phi chu TNHS v mi
khon của Điều 104 BLHS 1999.
BLHS 2015 đã có quy định mi v tui chịu TNHS, theo đó người t đủ 14
tuổi đến dưới 16 tui phi chu TNHS v mt s ti phm mà không phân biệt đó là
loi tội gì, trong đó có tội c ý gây thương tích hoặc gây tn hi cho sc khe ca
người khác. Như vy, so vi BLHS 1999 thì phm vi chu TNHS của người t đủ
14 tuổi đến dưới 16 tui vti c ý gây thương tích hoặc gây tn hi cho sc khe
ca ngưi khác theo quy định ca BLHS 2015 rộng hơn nhiều.
V cách tính tui chịu TNHS theo quy định ca BLHS thì độ tui đây là
tui tròn  14 tu hoc  16 tu. Trong thc tiễn cũng như trong luận
việc xác định độ tui không phi bao gi cũng dễ dàng, thông thường việc xác định
đổ tuổi căn cứ theo Gi . Tuy nhiên không phi trong mi
trưng hợp đều còn Giy khai sinh, hoc giy khai sinh không chính xác… Để khc
phục ng mắc trên TANDTC hướng dn ti mc 11 phn II Công văn số
81/2002/TANDTC ngày 10/06/2002 v cách 

a-        
        

b- 


c-  g không



19 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu TNHS theo các khoản 1 và 2 của Điều 104 BLHS 1999 mà những người này chỉ phải chịu TNHS theo các khoản 3 và 4 của Điều 104 BLHS 1999. Những người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi khoản của Điều 104 BLHS 1999. BLHS 2015 đã có quy định mới về tuổi chịu TNHS, theo đó người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về một số tội phạm mà không phân biệt đó là loại tội gì, trong đó có tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Như vậy, so với BLHS 1999 thì phạm vi chịu TNHS của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vềtội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định của BLHS 2015 rộng hơn nhiều. Về cách tính tuổi chịu TNHS theo quy định của BLHS thì độ tuổi ở đây là tuổi tròn  14 tu hoặc  16 tu. Trong thực tiễn cũng như trong lý luận việc xác định độ tuổi không phải bao giờ cũng dễ dàng, thông thường việc xác định đổ tuổi căn cứ theo Gi . Tuy nhiên không phải trong mọi trường hợp đều còn Giấy khai sinh, hoặc giấy khai sinh không chính xác… Để khắc phục vướng mắc trên TANDTC có hướng dẫn tại mục 11 phần II Công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10/06/2002 về “cách   a-                   b-    c-  g không   
20
d- 


Tác gi cho rng quy đnh này phù hp và khoa học đảm bo nguyên tc
có lợi cho người b can b cáo.
1.1.2.4. Mt ch quan ca ti c c gây tn hi cho sc
khe ci khác:
Ti phm mt th thng nht ca hai mt khách quan và ch quan. Mt
khách quan là nhng biu hin bên ngoài ca ti phm, mt ch quan hoạt động
tâm lý bên trong của người phm ti. [56; Tr 152]
Mt ch quan ca ti CYGTT bao gm: Li, động cơ và mục đích phạm ti.
Trong khoa hc Lut hình s, nhiều cách định nghĩa khác nhau về li.
Theo GS.TS. Nguyn Ngc Hòa thì i thc hin hành vi nguy him cho xã hi
b coi là có li nu khi thc hin nhn thc ho u ki nhn thc
c tính nguy him cho xã hi c u kin la chn, thc hin
hành vi khác phù hp vi ca xã hi [8; tr.91, 92]
Ngưi phm ti CYGTT hoc gây tn hi cho sc khe của người khác ch
b coi li nếu hành vi đó kết qu ca s t la chn ca chính h, h t ý
thc và kim soát hành vi ca mình, trong khi h có đủ điều kin khách quan và ch
quan để la chn và thc hin x s khác phù hp với đòi hỏi ca xã hi (tc là có
đủ điều kin la chn x s không thương tích hoc tn hi cho sc khe của người
khác). Ti c ý gây thương tích hoặc gây tn hi cho sc khe của người khác luôn
được thc hin vi li c ý, có th là c ý trc tiếp hoc c ý gián tiếp.
Muốn xác định đúng lỗi của người phm ti c ý gây thương tích hoặc gây
tn hi cho sc khe ca nn nhân là c ý hay vô ý, thì cn làm sáng t hai vấn đề:
1) Người phm ti thy trước hu qu nguy him do hành vi ca mình
gây ra không;
2) Nếu thấy trước thì h mong mun hay ý thc chp nhn hu qu
này không.
20 d-    Tác giả cho rằng quy định này là phù hợp và khoa học đảm bảo nguyên tắc có lợi cho người bị can bị cáo. 1.1.2.4. Mt ch quan ca ti c c gây tn hi cho sc khe ci khác: Tội phạm là một thể thống nhất của hai mặt khách quan và chủ quan. Mặt khách quan là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, mặt chủ quan là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội. [56; Tr 152] Mặt chủ quan của tội CYGTT bao gồm: Lỗi, động cơ và mục đích phạm tội. Trong khoa học Luật hình sự, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về lỗi. Theo GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa thì i thc hin hành vi nguy him cho xã hi b coi là có li nu khi thc hin nhn thc ho u ki nhn thc c tính nguy him cho xã hi c u kin la chn, thc hin hành vi khác phù hp vi ca xã hi [8; tr.91, 92] Người phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chỉ bị coi là có lỗi nếu hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn của chính họ, họ tự ý thức và kiểm soát hành vi của mình, trong khi họ có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội (tức là có đủ điều kiện lựa chọn xử sự không thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác). Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác luôn được thực hiện với lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Muốn xác định đúng lỗi của người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân là cố ý hay vô ý, thì cần làm sáng tỏ hai vấn đề: 1) Người phạm tội có thấy trước hậu quả nguy hiểm do hành vi của mình gây ra không; 2) Nếu thấy trước thì họ có mong muốn hay có ý thức chấp nhận hậu quả này không.
21
Ch khi một người thỏa mãn đầy đủ c hai điều kiện trên thì xác định h
người có li.
Để xác định người phm ti có thy trước hu qu nguy him cho xã hi hay
không phi xut phát t năng lực nhn thc ca họ, cũng như những điều kin, hoàn
cnh khách quan, nhng du hiu thuc mặt khách quan như: Tính chất công c
phm tội, phương tiện cũng như cách thức s dng; tình trng sc khỏe cũng như
kh năng chống đỡ ca nạn nhân…
Để xác định người phm ti mong mun, hay chp nhn hu qu gây
thương tích hoặc gây tn hi cho sc khe của người khác hay không cn xem xét
đánh giá những tình tiết như: sự la chn công cụ, phương tiện phm ti, ch thc
s dng; din biến tâm của người phm ti trong quá trình thc hin ti phm;
tính cht nguy him ca hành vi phm tội; động cơ, mục đích phạm ti; v trí tác
động… Trong trường hp mong mun hu qu gây thương tích hoc gây tn hi
sc khe cho người khác, người phm tội thường s dng các ng c phm ti
mang tính cht cao như dao, kiếm, mã tấu, côn… Bên cạnh đó người
phm ti còn lc chn v trí tác động, cách thc s dng công cụ, phương tiện
kh năng gây ra thương tích hoặc tn hi sc khe ln cho di tượng tác động.
Ngưc li, nếu ch có ý thc chp nhn hu qu y thương tích hoặc tn hi
cho người khác, người phm tội không quan tâm đến công cụ, phương tiện, phương
pháp phm ti, v trí tác động đến nn nhân có nguy him, có kh năng gây thương
tích hay tn hi sc khe hay không, ch quan tâm đến việc đạt được mục đích
của mình. Cho nên người phm tội trong trưng hp y có th dùng bt c công
cụ, phương tiện, phương pháp phạm ti nào, không ph thuc vào tính cht nguy
him của nó, đồng thi chp nhn mi cách thc s dng công c phương tiện
phm ti.
Ngoài du hiu li, trong mt ch quan ca ti      hoc
gây tn hi cho sc khe ci khác động cơ, mục đích phạm ti không phi
là du hiu bt buc trong CTTP bản. Tuy nhiên, mt s CTTP tăng nặng
mt ch quan quy định du hiệu động mục đích phạm ti du hiu bt
21 Chỉ khi một người thỏa mãn đầy đủ cả hai điều kiện trên thì xác định họ là người có lỗi. Để xác định người phạm tội có thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội hay không phải xuất phát từ năng lực nhận thức của họ, cũng như những điều kiện, hoàn cảnh khách quan, những dấu hiệu thuộc mặt khách quan như: Tính chất công cụ phạm tội, phương tiện cũng như cách thức sử dụng; tình trạng sức khỏe cũng như khả năng chống đỡ của nạn nhân… Để xác định người phạm tội có mong muốn, hay chấp nhận hậu quả gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hay không cần xem xét đánh giá những tình tiết như: sự lựa chọn công cụ, phương tiện phạm tội, cách thức sử dụng; diễn biến tâm lý của người phạm tội trong quá trình thực hiện tội phạm; tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội; động cơ, mục đích phạm tội; vị trí tác động… Trong trường hợp mong muốn hậu quả gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác, người phạm tội thường sử dụng các công cụ phạm tội mang tính chất cao như dao, kiếm, mã tấu, côn… Bên cạnh đó người phạm tội còn lực chọn vị trí tác động, cách thức sử dụng công cụ, phương tiện có khả năng gây ra thương tích hoặc tổn hại sức khỏe lớn cho dối tượng tác động. Ngược lại, nếu chỉ có ý thức chấp nhận hậu quả gây thương tích hoặc tổn hại cho người khác, người phạm tội không quan tâm đến công cụ, phương tiện, phương pháp phạm tội, vị trí tác động đến nạn nhân có nguy hiểm, có khả năng gây thương tích hay tổn hại sức khỏe hay không, mà chỉ quan tâm đến việc đạt được mục đích của mình. Cho nên người phạm tội trong trường hợp này có thể dùng bất cứ công cụ, phương tiện, phương pháp phạm tội nào, không phụ thuộc vào tính chất nguy hiểm của nó, đồng thời chấp nhận mọi cách thức sử dụng công cụ phương tiện phạm tội. Ngoài dấu hiệu lỗi, trong mặt chủ quan của tội      hoc gây tn hi cho sc khe ci khác động cơ, mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP cơ bản. Tuy nhiên, ở một số CTTP tăng nặng mà mặt chủ quan có quy định dấu hiệu động cơ và mục đích phạm tội là dấu hiệu bắt
22
buc thì việc xác định đúng động cơ, mục đích phạm ti s giúp cho vic xác định
đúng tội danh phân bit ti CYGTT hoc gây tn hi sc khỏe cho người khác
vi mt s ti khác.
Động cơ phạm ti được hiểu là động lc bên trong thúc đẩy người phm ti
c ý gây thương tích hoặc gây tn hi cho sc khe của người khác. Quy định
điểm h khoản 1 Điều 104 BLHS 1999  là mt d. Ngưi
phm ti c ý gây thương tích hoặc gây tn hi cho sc khe của người khác trong
trưng hp này xut phát t động cơ vụ li.
Mục đích phạm ti là kết qu trong ý thc ch quan mà người phm tội đặt ra
để đạt được khi h thc hin hành vi phm ti. Trưng hợp quy định đim k khon 1
Điu 104 BLHS 1999  cn tr i thi hành công v một trường hp
ngưi phm ti c ý gây thương tích hoặc gây tn hi cho sc khe của người khác có
mục đích là để cn tr ngưi thi hành công v thc thi công v ca mình.
1.2. Phân bit ti c ý gây thƣơng tích hoc gây tn hi cho sc khe ca
ngƣời khác vi mt s ti phm khác
1.2.1. Phân bit ti c ý gây thương tích hoc gây tn hi cho sc khe ca
ngưi khác trong trưng hp dn đến chết ngưi (khoản 3 Điều 104 BLHS 1999)
vi ti giết người (Điu 93 BLHS 1999)
Trong quá trình điều tra, truy tc giai đoạn xét x, vic phân bit hai
ti này còn gp nhiều khó khăn, s ng án b hy, sa phn ln do có s nhm ln
trong việc xác định ranh gii ca hai loi ti này.
Ví d: Do mâu thuẫn trong làm ăn, ngày 23/8/2008 Lâm nh một người bn
ly xe máy ch đến ca hàng cầm đồ ca anh Nam tại đường Ngô Gia Khm
ngồi đợi đầu đường để quan sát. Đến khong 9 gi ti, khi anh Nam đang dọn dp
để đóng cửa hàng ra v thì Lâm xông vào dùng dao bấm đâm 02 nhát vào lưng anh
Nam khiến anh Nam gc xuống đất. Khi thy anh Nam quay li Lâm liền đâm thêm
01 nhát vào bụng sau đó bỏ về. Người đi đường qua thy anh Nam nm gục dưới
đất liền vào giúp đưa đi cấp cu. Tuy nhiên anh Nam đã không qua khỏi và chết do
mt nhiu máu và vết đâm quá hiểm. Anh Nam b thương với t l thương tật 72%.
22 buộc thì việc xác định đúng động cơ, mục đích phạm tội sẽ giúp cho việc xác định đúng tội danh và phân biệt tội CYGTT hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác với một số tội khác. Động cơ phạm tội được hiểu là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Quy định ở điểm h khoản 1 Điều 104 BLHS 1999  là một ví dụ. Người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trường hợp này xuất phát từ động cơ vụ lợi. Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra để đạt được khi họ thực hiện hành vi phạm tội. Trường hợp quy định ở điểm k khoản 1 Điều 104 BLHS 1999  cn tr i thi hành công v là một trường hợp mà người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có mục đích là để cản trở người thi hành công vụ thực thi công vụ của mình. 1.2. Phân biệt tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác với một số tội phạm khác 1.2.1. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trường hợp dẫn đến chết người (khoản 3 Điều 104 BLHS 1999) với tội giết người (Điều 93 BLHS 1999) Trong quá trình điều tra, truy tố và cả ở giai đoạn xét xử, việc phân biệt hai tội này còn gặp nhiều khó khăn, số lượng án bị hủy, sửa phần lớn do có sự nhầm lẫn trong việc xác định ranh giới của hai loại tội này. Ví dụ: Do mâu thuẫn trong làm ăn, ngày 23/8/2008 Lâm nhờ một người bạn lấy xe máy chở đến cửa hàng cầm đồ của anh Nam tại đường Ngô Gia Khảm và ngồi đợi ở đầu đường để quan sát. Đến khoảng 9 giờ tối, khi anh Nam đang dọn dẹp để đóng cửa hàng ra về thì Lâm xông vào dùng dao bấm đâm 02 nhát vào lưng anh Nam khiến anh Nam gục xuống đất. Khi thấy anh Nam quay lại Lâm liền đâm thêm 01 nhát vào bụng sau đó bỏ về. Người đi đường qua thấy anh Nam nằm gục dưới đất liền vào giúp đưa đi cấp cứu. Tuy nhiên anh Nam đã không qua khỏi và chết do mất nhiều máu và vết đâm quá hiểm. Anh Nam bị thương với tỷ lệ thương tật 72%.
23
VKSND qun Long Biên đã truy tố b cáo v ti      theo
khoản 3 Điều 104 BLHS. Tuy nhiên, tại phiên tòa, HĐXX đã đề ngh VKSND qun
Long Biên truy t b cáo v tội “Giết người” [38a]. Như vậy, ranh gii gia hai ti
này hiện đang còn nhiều tranh cãi trong việc định ti danh. Theo BLHS hin hành
thì ti c ý gây thương tích hoặc gây tn hi cho sc khe của người khác là hành vi
c ý gây thương tích hoặc y tn hại đến sc khe của ngưi khác, còn ti giết
người là hành vi c ý tước đoạt trái pháp lut tính mng của con người. Vic phân
bit hai ti này da trên bn yếu t cu thành ti phm, đó là: Khách thể, mt khách
quan, mt ch quan và ch th.
* Khách th ca ti phm
Khách th ca ti c ý y thương tích hoặc gây tn hi cho sc khe ca
người khác là quyn bt kh xâm phm v sc khe của ngưi khác, còn khách th
ca ti giết người là quyn bt kh xâm phm v tính mng của con người.
*Mt khách quan ca ti phm:
Hành vi khách quan ca ti c ý gây thương tích hoặc y tn hi cho sc
khe của người khác là hành vi c ý tác động trái pháp luật lên cơ th người khác,
làm cho người đó bị thương tích hoặc b tn hại đến sc khe. Thương tích gây ra
cho người khác trong trường hp này đã dẫn đến hu qu chết người. Tuy nhiên hu
qu chết người đây không phải là kết qu trc tiếp, tt yếu ca hành vi phm ti,
không nm trong ý chí của người phm ti mong mun hoặc để mc cho hu qu đó
xảy ra. Người phm ti ch mong mun hoc đ mc cho thương tích xy ra.
Hành vi khách quan ca ti giết người hành vi tước đoạt trái pháp lut
tính mng của người khác. Tước đoạt trái pháp lut tính mng của người khác được
hiểu là hành vi tác động trái pháp luật đến thân th người khác hành vi đó cha
đựng kh năng thực tế gây ra cái chết cho người khác.Hành vi khách quan phi
nguyên nhân gây ra hu qu người b hi t vong.
Như vậy, hành vi khách quan ca ti c ý gây thương tích hoặc gây tn hi
cho sc khe của người khác và ti giết người đều có biu hin tương tự nhau, đó là
dùng sc mnh vt cht để tác động trái pháp lut vào thân th ngưi khác. C hai
23 VKSND quận Long Biên đã truy tố bị cáo về tội      theo khoản 3 Điều 104 BLHS. Tuy nhiên, tại phiên tòa, HĐXX đã đề nghị VKSND quận Long Biên truy tố bị cáo về tội “Giết người” [38a]. Như vậy, ranh giới giữa hai tội này hiện đang còn nhiều tranh cãi trong việc định tội danh. Theo BLHS hiện hành thì tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác, còn tội giết người là hành vi cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng của con người. Việc phân biệt hai tội này dựa trên bốn yếu tố cấu thành tội phạm, đó là: Khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và chủ thể. * Khách th ca ti phm Khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người khác, còn khách thể của tội giết người là quyền bất khả xâm phạm về tính mạng của con người. *Mt khách quan ca ti phm: Hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi cố ý tác động trái pháp luật lên cơ thể người khác, làm cho người đó bị thương tích hoặc bị tổn hại đến sức khỏe. Thương tích gây ra cho người khác trong trường hợp này đã dẫn đến hậu quả chết người. Tuy nhiên hậu quả chết người ở đây không phải là kết quả trực tiếp, tất yếu của hành vi phạm tội, không nằm trong ý chí của người phạm tội mong muốn hoặc để mặc cho hậu quả đó xảy ra. Người phạm tội chỉ mong muốn hoặc để mặc cho thương tích xảy ra. Hành vi khách quan của tội giết người là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác. Tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác được hiểu là hành vi tác động trái pháp luật đến thân thể người khác và hành vi đó chứa đựng khả năng thực tế gây ra cái chết cho người khác.Hành vi khách quan phải là nguyên nhân gây ra hậu quả người bị hại tử vong. Như vậy, hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và tội giết người đều có biểu hiện tương tự nhau, đó là dùng sức mạnh vật chất để tác động trái pháp luật vào thân thể người khác. Cả hai
24
trưng hp trên, biu hin thc tế ca hành vi khách quan có những điểm tương tự
nhau như: đâm, chém, đánh, đấm…tác động trái pháp luật vào thể người khác.
Hai trưng hp này ch yếu khác nhau v mt ch quan.
* Mt ch quan ca ti phm
V mt li thì c hai ti này đều được thc hin vi li c ý.
Ti c ý gây thương tích hoặc gây tn hi cho sc khe của người khác được
thc hin vi li c ý (trc tiếp hoc gián tiếp). Nghĩa là ngưi phm ti khi thc
hiện hành vi đã nhận thức được hành vi ca mình nguy him cho hi, thy
trước được hu qu do hành vi mình thc hin nhất định hoc có th gây ra thương
tích hoc tn hi cho sc khe của người khác, nhưng mong muốn hoặc để mc cho
hu qu nn nhân b thương tích, bị tn hi cho sc khỏe gây ra. Trong trường hp
dẫn đến chết người thì người phm ti không mong mun và tin rng hu qu chết
người s không xy ra.
Đối vi ti giết người: Tội này được thc hin vi li c ý (trc tiếp hoc
gián tiếp). Trường hp giết người do li c ý trc tiếp, người phm ti nhn thc
hành vi ca mình là gây nguy him cho xã hi, thấy trước được hu qu chết người
th hoc tt yếu xy ra mong mun cho hu qu chết người xy ra. Trong
trưng hp trên do hu qu chết người chưa xảy ra vì nguyên nhân khách quan thì
vẫn định ti danh giết người chưa đạt. Trong trường hp giết người do li c ý
gián tiếp, người phm ti nhn thc hành vi ca mình nguy him cho xã hi,
thấy trước được hu qu chết người th xy ra, tuy không mong mun cho hu
qu chết người xy ra nhưng để mc hu qu xảy ra. Trong trường hp này phải căn
c vào hu qu thc tế đã xảy ra để định ti danh. Nếu gây ra hu qu chết ngưi thì
định ti danh v ti giết người. Nếu ch gây ra thương tích thì định ti danh v ti
c ý gây thương tích khi thỏa mãn các điều kiện khác theo quy định ca BLHS.
Như đã phân tích ở trên, chúng ta có th thy rng v mt ch quan, ti c ý
gây thương tích hoặc gây tn hi cho sc khe của người khác xy ra hu qu
chết người thì ngưi phm tội đã thực hin hành vi c ý gây thương tích với li c
ý, nhưng lại ý vi hu qu chết người, h không mong mun xy ratin rng
24 trường hợp trên, biểu hiện thực tế của hành vi khách quan có những điểm tương tự nhau như: đâm, chém, đánh, đấm…tác động trái pháp luật vào cơ thể người khác. Hai trường hợp này chủ yếu khác nhau về mặt chủ quan. * Mt ch quan ca ti phm Về mặt lỗi thì cả hai tội này đều được thực hiện với lỗi cố ý. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được thực hiện với lỗi cố ý (trực tiếp hoặc gián tiếp). Nghĩa là người phạm tội khi thực hiện hành vi đã nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả do hành vi mình thực hiện nhất định hoặc có thể gây ra thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác, nhưng mong muốn hoặc để mặc cho hậu quả nạn nhân bị thương tích, bị tổn hại cho sức khỏe gây ra. Trong trường hợp dẫn đến chết người thì người phạm tội không mong muốn và tin rằng hậu quả chết người sẽ không xảy ra. Đối với tội giết người: Tội này được thực hiện với lỗi cố ý (trực tiếp hoặc gián tiếp). Trường hợp giết người do lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là gây nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả chết người có thể hoặc tất yếu xảy ra và mong muốn cho hậu quả chết người xảy ra. Trong trường hợp trên do hậu quả chết người chưa xảy ra vì nguyên nhân khách quan thì vẫn định tội danh là giết người chưa đạt. Trong trường hợp giết người do lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả chết người có thể xảy ra, tuy không mong muốn cho hậu quả chết người xảy ra nhưng để mặc hậu quả xảy ra. Trong trường hợp này phải căn cứ vào hậu quả thực tế đã xảy ra để định tội danh. Nếu gây ra hậu quả chết người thì định tội danh về tội giết người. Nếu chỉ gây ra thương tích thì định tội danh về tội cố ý gây thương tích khi thỏa mãn các điều kiện khác theo quy định của BLHS. Như đã phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy rằng về mặt chủ quan, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà xảy ra hậu quả chết người thì người phạm tội đã thực hiện hành vi cố ý gây thương tích với lỗi cố ý, nhưng lại vô ý với hậu quả chết người, họ không mong muốn xảy ra vì tin rằng
25
hu qu chết người s không xảy ra. Nhưng đối vi ti giết người, người phm ti
đã cố ý thc hin hành vi giết người c ý để hu qu chết người xy ra, mong
mun hu qu chết ngưi xy ra, hoc tuy không mong muốn nhưng vẫn để mc
hu qu xy ra.
* Ch th ca ti phm:
Ch th ca ti c ý gây thương tích hoặc gây tn hi cho sc khe ca
người khác theo quy định ca BLHS 1999 người có năng lực TNHS, đủ 16 tui
tr lên, riêng người đủ 14 tui tr lên nhưng chưa đủ 16 tui ch chu TNHS nếu
thuộc các trường hợp quy định ti khon 3, khoản 4 Điu 104 BLHS. Đối vi ti
giết ngưi, ch th là người có năng lực TNHS, đủ 14 tui tr lên thì phi chu trách
nhim hình s do thc hin hành vi phm ti. Theo quy định ca BLHS 2015 thì
không còn s khác nhau v độ tui chu TNHS ca hai loi ti này.
Hin nay trên thc tiễn, các Cơ quan tiến hành t tng gp phi rt nhiu khó
khăn để xác định ti danh đối với trường hợp ngưi thc hin hành vi phm ti
ý chí ch quan không mong mun cho hu qu chết người xy ra hoặc để mc
cho hu qu chết người xy ra, tức là người phm ti vi li c ý gián tiếp. Đối vi
hành vi được gây ra vi li c ý gián tiếp, nguyên tắc thông thường được áp dng
để xác định tội danh đó hậu qu đến đâu thì xử đến đó. Tuy nhiên, việc áp
dng nguyên tc trên mt cách cng nhc s dẫn đến việc xác định sai ti danh, d
b lt ti phm hoặc tăng nặng TNHS đối với người phm ti. Mc cu thành
ca ti giết người cu thành vt chất, nhưng không phải lúc nào hu qu chết
người xy ra mi x v ti giết người, còn xem xét đến hành vi phm ti
(phm tội chưa đạt) hành vi khách quan đã đ các yếu t cu thành ca ti giết
người nhưng hậu qu chết người chưa xảy ra. Thc tin áp dng pháp lut hin nay,
có th thy rng cùng một hành vi nhưng nơi này xử lý v ti giết người, nơi khách
li x lý v ti c ý gây thương tích hoặc gây tn hi cho sc khe của người khác
bi ranh gii gia chúng rất mong manh. Theo quan điểm ca tác giả, thì người
phm ti c ý đối với hành vi gây thương tích cố ý đối vi hu qu chết người
(mong mun hoặc để mc cho nn nhân chết) thì x v ti giết người nn
25 hậu quả chết người sẽ không xảy ra. Nhưng đối với tội giết người, người phạm tội đã cố ý thực hiện hành vi giết người và cố ý để hậu quả chết người xảy ra, mong muốn hậu quả chết người xảy ra, hoặc tuy không mong muốn nhưng vẫn để mặc hậu quả xảy ra. * Ch th ca ti phm: Chủ thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định của BLHS 1999 là người có năng lực TNHS, đủ 16 tuổi trở lên, riêng người đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ chịu TNHS nếu thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 104 BLHS. Đối với tội giết người, chủ thể là người có năng lực TNHS, đủ 14 tuổi trở lên thì phải chịu trách nhiệm hình sự do thực hiện hành vi phạm tội. Theo quy định của BLHS 2015 thì không còn sự khác nhau về độ tuổi chịu TNHS của hai loại tội này. Hiện nay trên thực tiễn, các Cơ quan tiến hành tố tụng gặp phải rất nhiều khó khăn để xác định tội danh đối với trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội mà ý chí chủ quan là không mong muốn cho hậu quả chết người xảy ra hoặc để mặc cho hậu quả chết người xảy ra, tức là người phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp. Đối với hành vi được gây ra với lỗi cố ý gián tiếp, nguyên tắc thông thường được áp dụng để xác định tội danh đó là hậu quả đến đâu thì xử lý đến đó. Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc trên một cách cứng nhắc sẽ dẫn đến việc xác định sai tội danh, dễ bỏ lọt tội phạm hoặc tăng nặng TNHS đối với người phạm tội. Mặc dù cấu thành của tội giết người là cấu thành vật chất, nhưng không phải lúc nào hậu quả chết người xảy ra mới xử lý về tội giết người, mà còn xem xét đến hành vi phạm tội (phạm tội chưa đạt) và hành vi khách quan đã đủ các yếu tố cấu thành của tội giết người nhưng hậu quả chết người chưa xảy ra. Thực tiễn áp dụng pháp luật hiện nay, có thể thấy rằng cùng một hành vi nhưng nơi này xử lý về tội giết người, nơi khách lại xử lý về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác bởi ranh giới giữa chúng rất mong manh. Theo quan điểm của tác giả, thì người phạm tội cố ý đối với hành vi gây thương tích và cố ý đối với hậu quả chết người (mong muốn hoặc để mặc cho nạn nhân chết) thì xử lý về tội giết người dù nạn