Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nhân thân người phạm tội trên địa bàn huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh
250
775
106
14
người có trình độ cao đẳng trở lên.
- Đặc điểm về địa vị xã hội và nghề nghiệp: Khi nghiên cứu đặc điểm về địa
vị xã hội và nghề nghiệp của NPT sẽ cho biết được nhóm người làm việc ở những
ngành, lĩnh vực nào trong xã hội dễ thực hiện tội phạm và loại tội phạm họ thực
hiện
[43, tr.145], từ đó có biện pháp phòng ngừa phù hợp. Bởi nghề nghiệp và địa vị
xã
hội quan hệ mật thiết với việc hình thành và phát triển nhân cách con người. Đặc
điểm về địa vị xã hội và nghề nghiệp của những người thực hiện tội phạm cho biết
được ở những điều kiện và nhóm xã hội nào, ở những lĩnh vực nào của hoạt động
sống, loại tội phạm này hay tội phạm khác được thực hiện; biết được những nhân
tố
phạm tội đặc trưng cho những nhóm NPT khác nhau, những ngành khác nhau của
nền kinh tế.
Thực tiễn nhân thân NPTcho thấy rằng: Nghề nghiệp ổn định, thu nhập cao,
địa vị xã hội cao sẽ ít tác động làm phát sinh các đặc điểm nhân thân tiêu cực
của
NPT. Ngược lại, nghề nghiệp có điều kiện làm việc nặng nhọc, thu nhập thấp, bấp
bênh hoặc thậm chí là thất nghiệp... đều được coi là những yếu tố tác động lớn
đến
việc hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của con người. Bên cạnh đó,
người
có nghề nghiệp ổn định, thu nhập tốt nhưng công tác quản lý bị buông lỏng, thiếu
kiểm tra, giám sát cũng sẽ dễ dàng tác động đến sự hình thành các đặc điểm nhân
thân tiêu cực, như lòng tham, sự ích kỷ, vụ lợi, hám danh, hám lợi...
-. Đặc điểm về hoàn cảnh gia đình: Hoàn cảnh gia đình có tác động rất lớn đến
sự hình thành các đặc điểm nhân thân của NPT. Dưới tác động của các yếu tố tiêu
cực khác, các khiếm khuyết của gia đình sẽ ảnh hưởng đến quá trình hình thành
các
đặc điểm nhân thân xấu của con người và trong những tình huống, điều kiện thuận
lợi sẽ dễ dàng phát sinh hành vi phạm tội. Phần lớn NPT thường rơi vào những gia
đình khiếm khuyết (thiếu cha, thiếu mẹ, hoặc thiếu cả cha lẫn mẹ), gia đình đông
con,
gia đình có kinh tế khó khăn, gia đình có người vi phạm pháp luật, gia đình bạo
hành... Do đó, Tội phạm học nghiên cứu làm rõ hoàn cảnh gia đình mà NPT đã sống,
đang sống và ảnh hưởng, tác động của yếu tố gia đình đến quá trình thực hiện tội
phạm cũng như vai trò của gia đình đối với quá trình giáo dục, cải tạo người
phạm
15
tội, từ đó thực hiện các biện pháp phòng ngừa THTP một cách hiệu quả hơn.
- Đặc điểm về nơi cư trú: Nơi cư trú của NPT là nơi mà người đó thường xuyên
sinh sống, đó có thể là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú. Xét về khía cạnh tội
phạm
học, nơi cư trú là môi trường của sự hình thành và phát triển nhân cách cá nhân
con
người, nó thể hiện quá trình xã hội hóa của cá nhân, xác định vai trò, vị trí
của mỗi
cá nhân trong môi trường lớn. Vì trong môi trường nơi cư trú, con người sẽ giao
lưu
với nhiều mối quan hệ đang xen lẫn nhau như bạn bè, gia đình, tình cảm, công
việc
trong đời sống hàng ngày và do đó sẽ chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi những đặc điểm
riêng về kinh tế, văn hóa, giáo dục, đạo đức, thuần phong, mỹ tục, truyền thống,
tác
động của hương ước, lệ làng… Nghiên cứu về nơi cư trú của NPT sẽ cho thấy sự tác
động mạnh mẽ của nơi cư trú đến quá trình hình thành hành vi tội phạm. Điều này
có
ý nghĩa trong hoạt động dự báo và phòng ngừa THTP.
1.2.2. Các đặc điểm về đạo đức - tâm lý
Những đặc điểm đạo đức - tâm lý đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành
động cơ và trong sự lựa chọn phương án hành vi phạm tội trong những tình huống
nhất định [45, tr.136]. Những đặc điểm đạo đức - tâm lý của nhân thân NPT bao
gồm:
- Đặc điểm về nhu cầu, hứng thú
Nhu cầu của con người được hình thành và phát triển trong những điều kiện
xã hội lịch sử nhất định, trong quá trình hoạt động của mỗi cá nhân nó vừa mang
tính
cơ động lại vừa có tính bền vững, ổn định. Có những nhu cầu phong phú, lành mạnh
đồng thời cũng có những nhu cầu lệch chuẩn.
Khi nghiên cứu về đặc điểm nhu cầu của NPT thì Tội phạm học nhận thấy có
sự hạn hẹp của các nhu cầu, sự mất cân đối trong hệ thống nhu cầu, thường tập
trung
vào một số nhu cầu thực dụng và cực đoan, chẳng hạn như nhu cầu sử dụng ma túy,
thỏa mãn tình dục.... dẫn đến phương thức thỏa mãn trái pháp luật hình sự.
Hứng thú có vai trò quan trọng trong cơ chế hình thành hành vi phạm tội, nó
tác động trực tiếp đến quá trình hình thành động cơ và mục đích của việc thực
hiện
hành vi phạm tội, nó tạo ra sự say mê, cuốn hút cao độ đối với cá nhân trong
việc
thực hiện những hành vi chống đối xã hội. Những người thực hiện hành vi phạm tội
16
thường thiên về những hứng thú thấp kém, những khoái cảm vật chất, hưởng thụ,
thậm chí có sự lệch chuẩn nghiêm trọng trong những đam mê, hấp dẫn của bản thân.
NPT thường bị lôi cuốn, bị hấp dẫn bởi những hành vi và suy nghĩ lệch chuẩn, đi
ngược lại với những chuẫn mực, đạo đức xã hội. Với những nhóm tội khác nhau thì
biểu hiện của sự hứng thú của NPT cũng khác nhau.
Từ các khía cạnh đó, Tội phạm học tập trung làm rõ sự ảnh hưởng của nhu
cầu, hứng thú đối với việc làm phát sinh động cơ, mục đích phạm tội và sự ảnh
hưởng
của nhu cầu, hứng thú lên hành vi và việc xử sự của con người khi nó không được
thỏa mãn, để tạo cơ sở định hướng xây dựng các biện pháp phòng ngừa THTP một
cách chủ động và hiệu quả.
- Đặc điểm về định hướng giá trị:
Đặc điểm về định hướng giá trị thể hiện những đánh giá của cá nhân về các
nhóm giá trị trong cuộc sống. Các nhóm giá trị này được thể hiện một cách cụ thể
như giữa vật chất-tinh thần, cá nhân-tập thể, nội dung - hình thức, truyền thông
- hiện
đại, dân tộc – quốc tế... Khi nghiên cứu về định hướng giá trị của người phạm
tội, tội
phạm học nhận thấy NPT có sự đánh giá không đúng, có sự nhầm lẫn giữa các giá
trị
xã hội. Mất cân đối trong hệ thống các giá trị, NPT thường chỉ tập trung và chú
trọng
vào những giá trị trước mắt, giá trị thực dụng. Luôn đặt lợi ích cá nhân lên
trên các
nhóm lợi ích khác. Giữa nhu cầu, cách thỏa mãn nhu cầu, định hướng giá trị cùng
với
tình hình tội phạm có một mối liên hệ chặc chẽ với nhau, cùng với nhu cầu, hứng
thú
được coi là hệ thống động lực của nhân cách.
- Đặc điểm về ý thức đạo đức, ý thức pháp luật
Đối với yếu tố đạo đức, NPT có sự hạn chế trọng việc tiếp cận các giá trị đạo
đức. NPT có những quan niệm, đánh giá riêng biệt về nội dung của những giá trị
đạo
đức, quan niệm của họ về điều thiện-ác, tốt-xấu, chính-tà có sự sai lệch so với
những
chuẫn mực chung của đời sống xã hội, họ thường có xu hướng phủ định những điều
thiện, cái tốt, cái lương thiện. Thực tiễn cho thấy sự hiểu biết của họ về giá
trị đạo
đức là không đầy đủ, thiếu chiều sâu, vì vậy làm cho họ dễ dàng hơn trong việc
lựa
chọn cho mình xử sự chống đối xã hội.
17
Trong ý thức pháp luật, NPT thường có xu hướng chống đối xã hội, chống đối
pháp luật hoặc ở mức độ thấp là sự coi thường pháp luật.
1.2.3. Đặc điểm pháp lý hình sự
Nhóm đặc điểm này là một trong những dấu hiệu thể hiện tính chất nguy hiểm
của tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự và thái độ, ý thức pháp luật
của
người phạm tội, có ý nghĩa trong việc định tội và quyết định hình phạt. Điều này
có
vai trò quan trọng đối với công tác phòng ngừa THTP bởi việc định tội, quyết
định
hình phạt một cách đúng đắn, nghiêm minh, có tình, có lý sẽ giúp ngăn ngừa tình
trạng tái phạm cũng như tác dụng răn đe chung đối với xã hội, qua đó ngăn ngừa
việc
người khác khác phạm tội.
- Động cơ và mục đích: Động cơ phạm tội là trạng thái tâm lý bên trong thúc
đẩy hoạt động, làm tăng thêm tính tích cực ở chủ thể khi thực hiện hành vi phạm
tội.
Mục đích phạm tội là cái mà NPTnhằm đạt được bằng hành vi phạm tội. Việc lựa
chọn mục đích là do động cơ quyết định, động cơ hướng thái độ của chủ thể vào
những mục đích nhất định. Như vậy, mục đích của hành vi phạm tội thường không
do điều kiện khách quan mà do chủ thể định ra và được nhận thức như là yếu tố
cần
thiết và có khả năng thực hiện trong điều kiện nhất định. Động cơ phạm tội
thường
xuất phát từ những nhu cầu nhỏ nhen, hẹp hòi hoặc đố kị, thực dụng, suy thoái…
- Hình thức phạm tội: Nghiên cứu về hình thức phạm tội là nghiên cứu xem
tội phạm do một người hay do nhiều người cùng gây ra. Nếu tội phạm chỉ do một cá
nhân thực hiện mà không có sự giúp sức của bất kỳ người nào khác thì đó là tội
phạm
riêng lẻ. Nếu có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm thì đó là
đồng
phạm. Nếu tội phạm được thực hiện là đồng phạm thì đó là đồng phạm đơn giản hay
đồng phạm phức tạp? Đồng phạm có thông mưu trước hay không có thông mưu
trước? Nếu là đồng phạm thì vai trò của mỗi người trong khi thực hiện hành vi
phạm
tội như thế nào để từ đó xác định tính chất, mức độ tham gia của họ trong vụ án,
xác
định hình phạt chính xác với mức độ tham gia của mỗi người.
- Phạm tội lần đầu, tái phạm, tái phạm nguy hiểm: Việc nghiên cứu xem người
thực hiện hành vi phạm tội lần đầu hay tái phạm, tái phạm nguy hiểm có ý nghĩa
quan
18
trọng trong việc xem xét trách nhiệm hình sự, quyết định hình phạt đối với người
phạm tội.
- Đặc điểm về tiền án, tiền sự:Khi nghiên cứu đặc điểm nhân thân người phạm
tội, chúng ta không thể bỏ qua vấn đề tiền án, tiền sự của người thực hiện hành
vi
phạm tội. Tiền án, tiền sự là cụm từ mà không ai muốn nó xuất hiện trên nhân
thân
của mình, bởi nó như một vết tích ảnh hưởng đến lý lịch của bản thân, ảnh hưởng
đến
công việc sau này, cũng như là một yếu tố có thể ảnh hưởng đến việc bị truy cứu
hay
không truy cứu trách nhiệm hình sự của một người trong vụ việc hình sự.
- Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Nghiên cứu
về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội là việc làm cần
thiết
để có thể đánh giá đầy đủ, chính xác về hành vi phạm tội. Tính chất nguy hiểm
cho
xã hội của hành vi nghĩa là xem xét hành vi ấy đã xâm hại hoặc đe dọa xâm hại
quan
hệ xã hội nào, khách thể nào, có tính chất, tầm quan trọng ra sao? Người thực
hiện
hành vi phạm tội có mang tính chất chuyên nghiệp, côn đồ hay không? Mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi nghĩa là hành vi ấy gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt
hại ở mức độ nào…
Tóm lại, đặc điểm của nhân thân NPT bao gồm 03 nhóm đặc điểm cơ bản là:
Đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu, đặc điểm về đạo đức - tâm lý và đặc điểm
pháp
lý hình sự. Mỗi nhóm đặc điểm thể hiện khía cạnh khác nhau của nhân thân NPT.
Các đặc điểm này không tách rời nhau mà luôn gắn liền với từng cá nhân con
người,
chúng có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành nhân cách tiêu cực của
cá
nhân người phạm tội.
1.3. Các yếu tố tác động đến việc hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu
cực ở người phạm tội
Các đặc điểm về nhân thân con người được hình thành qua quá trình tương tác
lâu dài giữa thực thể đó với môi trường bên ngoài trong quá trình nhận thức thế
giới
khách quan. Trong quá trình tương tác đó, những yếu tố tích cực của môi trường
sống
sẽ có những tác động tốt đối với con người, hình thành những đặc điểm nhân thân
tốt
và ngược lại. Nếu mang trong mình những đặc điểm nhân thân xấu, con người khi
19
gặp được điều kiện, hoàn cảnh cụ thể sẽ làm phát sinh tội phạm. Do vậy, nghiên
cứu
quá trình hình thành các đặc điểm nhân thân xấu của NPTchúng ta không thể bỏ qua
vai trò quan trọng của các yếu tố khách quan từ môi trường bên ngoài và các yêu
tố
chủ quan của người phạm tội.
1.3.1. Các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến việc hình thành nhân thân tiêu
cực của người phạm tội
Một là, yếu tố thuộc về môi trường gia đình
Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con người, một thiết
chế văn hóa – xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở
của
quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dương và giáo dục… giữa các
thành viên. Gia đình cũng là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dương và
giáo
dục nhân cách của con người. nếu môi trường gia đình không an toàn, không lành
mạnh, thì chính những yếu tố tiêu cực trong môi trường sẽ tác động, làm hình
thành
những đặc điểm nhân thân tiêu cưc, nhân cách lệch lạc và chính những đặc điểm
tiêu
cực và lệch lạc này khi gặp tình huống, điều kiện thuận lợi sẽ làm phát sinh
hành vi
phạm tội, nhất là lứa tổi thanh thiếu niên. Có thể kể đến một số kiểu gia đình
sau đây:
- Gia đình quá nuông chiều con cái: Hiện nay do sự bùng nổ của khoa học
công nghệ, thời đại công nghệ 4.0 của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, cùng
với sự phát triển của kinh tế-xã hội, thì đời sống con người đã được nâng cao
nhưng
lại có sự nghịch lý so với trước đây đó là nhiều gia đình có điều kiện kinh tế
(gia đình
giàu có) nhưng lại sinh rất ít con và rất nuông chiều con cái. Mọi yêu cầu của
con cái
thì ngay lập tức được đáp ứng và được thỏa mãn, kể cả những đòi hỏi không phù
hợp
với lứa tuổi cũng như chuẩn mực của xã hội. Sự nuông chiều thái quá của cha mẹ
đã
vô tình hình thành ở những đưa con thân yêu của họ tính ích kỷ, lười nhác, dựa
dẫm
và vô trách nhiệm, luôn đòi hỏi được phục vụ, được hưởng thụ… Rồi đến một lúc
nào đó khi lợi ích cá nhân bị ảnh hưởng, tác động theo hướng bất lợi và nhu cầu
không được thỏa mãn thì những người trẻ này rất dễ đi vào con đường phạm tội.
- Gia đình không hạnh phúc: Ngày nay, với những biến đổi của nền kinh tế
hàng hóa và cơ chế thị trường văn hóa gia đình đang có biểu hiện xuống cấp vì
những
20
tác động xấu của đời sống xã hội. Với ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế thị
trường
và hội nhập quốc tế đã kích thích nhu cầu ham muốn vật chất, ít chú trọng đời
sống
tình cảm tinh thần, tình trạng xung đột gia đình dẫn đến đổ vỡ và ly hôn ngày
càng
gia tăng, làm cho gia đình không được bền vững. Những gia đình không hạnh phúc
thường có đặc điểm: cha, mẹ không hòa thuận, thường cãi nhau, đánh nhau; cha mẹ
ly thân hoặc đã ly hôn, con cái phải sống chung với cha dượng hay mẹ ghẻ... Bên
cạnh đó còn có nhiều trường hợp cha, mẹ mất sớm hoặc bỏ rơi con cái… Những đứa
trẻ trưởng thành trong những gia đình kiểu này thường mang tâm lý dẫn đến việc
con
cái bị bỏ rơi, thiếu sự dạy dỗ và tình thương của cha mẹ, không được dạy dỗ và
chăm
sóc chu đáo trẻ sẽ có tâm lý lệch lạc, tự do ngang bướng, bất cần. Chúng dễ dàng
phạm tội khi bị rủ rê, lôi kéo.
- Gia đình giáo dục con cái không đúng cách:Có những gia đình bố mẹ thiếu
hiểu biết hoặc không kiềm chế được nên khi trẻ có lỗi, cha mẹ đã buồn bực và sử
dụng đòn, roi để phạt con. Nhiều đứa trẻ nghĩ cha mẹ làm vậy vì không còn yêu
thương, che chắn và bảo vệ mình nữa. Điều đó khiến trẻ bị khủng hoảng về tâm lý,
tự ti, khó hòa nhập, trẻ trở lên hung hãn, lì lợm, xa lánh mọi người và căm ghét
gia
đình. Trong hoàn cảnh đó trẻ dễ bị kẻ xấu lôi kéo, lợi dụng, khống chế thực hiện
những hành vi trái pháp luật. Ngược lại, có những gia đình nuông chiều con cái
quá
mức. Sự nuông chiều,cha mẹ bao bọc mọi việc khiến trẻ hình thành tính ỷ lại, dựa
dẫm, sống ích kỷ, lười nhác, không ý thức về trách nhiệm, quen được phục vụ,
hưởng
thụ. Đến một lúc nào đó, khi gia đình không thỏa mãn được hoặc không có điều
kiện
phục vụ thì con cái trở nên bất mãn, thậm chí thù ghét bố mẹ, chúng thường bỏ
nhà
đi bụi, tụ tập với bạn bè hư. Nhiều trẻ trộm cắp tài sản của chính bố mẹ mình
hoặc
của người khác để thỏa mãn những nhu cầu không chính đáng như đua đòi ăn diện,
đánh bạc, hút chích…
- Gia đình thiếu sự quan tâm chăm sóc, giáo dục con cái: Vì hoàn cảnh gia
đình kinh tế quá khó khăn mà chỉ chú tâm vào cuộc sống mưu sinh hàng này, không
có thời gian quan tâm, dạy dỗ, uốn nắng kịp thời cho con cái. Cũng có những gia
đình
có điều kiện kinh tế khá giả, nhưng vì mãi mê kiếm tiền, cha mẹ đi sớm về trễ,
phó
21
mặt con cái cho nhà trường, cho người giúp việc, con cái muốn làm gì thì làm
miễn
có nhiều tiền cho con là được. Mặc khác, trên thực tế cũng có nhiều trường hợp
cha,
mẹ chưa có phương pháp đúng đắn trong việc giáo dục con cái hoặc ỷ lại cho nhà
nhà
trường. Vì vậy, có trường hợp con cái bỏ học thời gian dài, đi chơi qua đêm,
nghiện
hút, kết bè, kết phái, đánh nhau gây thương tích… thậm chí còn phạm tội mà cha,
mẹ
không hay biết, chỉ khi con bị bắt tạm giam mới biết con mình đã phạm tội.
- Gia đình có thân nhân vi phạm pháp luật, phạm tội: Những ảnh hưởng từ việc
gia đình có ông bà, bố mẹ, anh chị em thường xuyên có những hành vi vi phạm pháp
luật hoặc phạm tội sẽ dẫn tới các em có nhận thức, tâm lý coi thường pháp luật,
chà
đạp lên các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, côc cằn, lì lợm và coi thường
tính
mạng, sức khỏe của người khác. Không có sự quản lý, giám sát của gia đình cùng
với
những điều kiện, hoàn cảnh tiêu cực, họ sẽ dễ dàng thực hiện hành vi phạm tội.
Hai là, yếu tố thuộc về môi trường nhà trường
Môi trường nhà trường hay nói cách khác là môi trường giáo dục giữ vai trò
trò quan trọng trong việc phát triển và hình thành nhân cách của con người. Nếu
môi
trường giáo dục tốt thì sẽ hình thành ở người học những phẩm chất, nhân cách con
người tốt. Ngược lại, quá trình phát triển và hình thành nhân cách của người học
theo
chiều hướng tiêu cực nếu môi trường nhà trường có những hạn chế, bất cập như
sau:
- Nhà trường chưa chú trọng giáo dục đạo đức, nhân cách, hiểu biết pháp luật
và kỹ năng sống.
Hiện nay, nhiều trường học chỉ coi trọng giáo dục kiến thức giao khoa, mà
xem nhẹ việc giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng xử lý tình huống trong cuộc
sống,
cũng như văn hóa ứng xử cho các cháu học sinh. Sự xem nhẹ thậm chí coi thường
công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhân cách, phẩm chất đạo đức cho
học
sinh đã để lại nhiều hậu quả nặng nề cho việc hoàn thiện, và phát triển nhân
cách của
hoc sinh như: Nhận thức sai lệch về giá trị cuộc sống, đạo đức học đường xuống
cấp
nghiêm trọng, bạo lực học đường, coi trọng giá trị đồng tiền, xem thường lời dạy
của
thầy cô giáo… dễ đưa các em đi vào con đường vi phạm pháp luật.
- Việc quản lý học sinh, sinh viên còn lỏng lẻo, chưa có sự phối hợp chặt chẽ
22
giữa nhà trường với gia đình.
Việc thường xuyên bỏ học, trốn học, thích đua đòi, ham mê ăn chơi, nghiện
rượu bia, thuốc lá, thậm chí nghiện ma túy… đang có chiều hướng gia tăng trong
giới
học sinh, sinh viên. Tuy nhiên, thầy cô, nhà trường không kịp thời để uốn nắn,
chỉnh
đốn các em, chưa thực hiện được những giải pháp hữu hiệu trong quản lý, giáo dục
và giúp đơ những học sinh chưa ngoan, học sinh cá biệt. Điều này không chỉ tạo
ra
khoảng trống trong quản lý, giáo dục của nhà trường đối với học sinh vi phạm mà
còn làm phát sinh tâm lý tiêu cực, sự chán nãn, bất cần, sự căm hận, căm ghét,
thậm
chí hình thành ý định trả thù. Những đặc điểm tâm lý này dễ làm phát sinh thêm
tội
phạm trong môi trường học đường nói riêng và tình hình tội phạm nói chung.
Ba là, yếu tố thuộc về môi trường sống
Môi trường sống là môi trường nơi cá nhân cư trú, sinh sống, có vai trò rất lớn
trong việc hình thành và phát triển nhận thức, lối sống cũng như những phẩm chất
đạo đức cá nhân. Cá nhân được sống trong môi trường lành mạnh, an toàn, mọi
người
biết quan tâm, giúp đơ lẫn nhau, chí thú làm ăn, nghiêm chỉnh chấp hành pháp
luật
sẽ hình thành, phát triển nhân cách một cách đúng đắn. Ngược lại, môi trường
chứa
đựng nhiều nhân tố tiêu cực như có người sống bê tha, tệ nạn xã hội, phạm tội…
là
môi trường xấu, tiềm ẩn nguy cơ lôi kéo, tác động đến những người thiếu bản
lĩnh,
dễ sa ngã trước cái xấu, cái tiêu cực của đời sống xã hội, từ đó có thể dẫn đến
việc
hình thành và phát triển nhân cách lệch lạc của cá nhân.
Ngoài ra, việc giao lưu với bạn bè ở cùng khu vực sinh sống cũng có ảnh
hưởng vô cùng quan trọng trong việc hình thành nhân cách, các đặc điểm nhân thân
tiêu cực của con người. Bởi lẽ, bạn bè đồng trang lứa thì có những suy nghĩ,
cách
nhìn nhận, quan điểm, thái độ, tâm sinh lý lứa tuổi giống nhau. Nếu kết bạn với
người
tốt thì trẻ sẽ hình thành các đặc điểm nhân thân tích cực như chăm học, biết
quan tâm
chia sẻ, lễ phép, có đạo đức, tôn trọng người khác, tôn trọng pháp luật… Ngược
lại,
trẻ dễ bị ảnh hưởng và học theo các thói hư, tật xấu từ bạn bè, dẫ đến hình
thành các
đặc điểm nhân thân tiêu cực, như thói ăn chơi đua đòi, ích kỷ, vô phép, không
vâng
lời, chống đối, hút chích, nghiện ma túy… Biểu hiện tiêu cực về lối sống, tâm lý
đó
23
khiến những đứa trẻ chơi với nhóm bạn bè xấu dễ đi vào con đường phạm tội.
Bốn là, yếu tố thuộc về môi trường nơi làm việc
Cũng giống như môi trường nơi sinh sống, môi trường nơi làm việc, đồng
nghiệp, quan hệ giữa cấp trên, cấp dưới… cũng có ảnh hưởng rất lớn trong việc
hình
thành đặc điểm nhân thân của con người. Nếu môi trường làm việc thoải mái, được
sự đãi ngộ thỏa đáng, đồng nghiệp gần gũi, quan tâm chia sẻ, giúp đơ nhau trong
công
việc, quan hệ giữa cấp lãnh đạo, cấp nhân viên hài hòa, đảm bảo quyền lợi chính
trị
cho mọi người… sẽ tạo cho người lao động tâm lý thoải mái, hăng say làm việc,
cống
hiến… Ngược lại môi trường làm việc căng thẳng, đố kỵ, đấu đá, tranh chức tranh
quyền, miệt thị, khinh khi… sẽ dẫn đến tâm lý chán nản, bất mãn, coi thường lợi
ích
của người khác. Làm việc trong một môi trường tiêu cực này sẽ phát sinh nhiều
đặc
điểm nhân thân tiêu cực như: tham lam, căm ghét, thù hận, đề cao lợi ích bản
thân,
tìm mọi cách để triệt hạ đồng nghiệp thậm chí bằng phương thức vi phạm pháp
luật.
Năm là, yếu tố thuộc về môi trường kinh tế - xã hội vĩ mô
Bên cạnh sự phát triển không ngừng của xa hội, những thành tựu to lớn mà
nền kinh tế thị trường mang lại như đời sống vật chất và tinh thần của người dân
không ngừng được nâng cao... thì mặt trái của nó cũng có những tác, dễ làm cho
con
người trở lên sa ngã, biến chất, suy thoái về đạo đức xã hội. Những yếu tố tiêu
cực
đó có thể nhận diện sau đây:
- Sự phân hóa giàu nghèo, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm
Đây là một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ đến quá trình hình thành
nhân cách tiêu cực ở người phạm tội. Kinh tế khó khăn, thu nhập bấp bênh, không
ổn
định dễ làm cho con người rơi vào trạng thái bi quan, chán nản, bế tắt, bị thôi
thúc
phải kiếm tiền nên dễ đi vào con đường phạm tội.
- Những hạn chế trong quản lí kinh tế – văn hóa - xã hội.
Công tác quản lý của nhà nước trên lĩnh vực văn hóa – xã hội còn rất nhiều
hạn chế. Các văn hóa phẩm đồi trụy, bạo lực… có thể tìm mua một cách dễ dàng.
Các
cơ quan nhà nước chưa quản lý internet một cách chặt chẽ. Các đoạn clip, phim
ảnh,
độc hại khác đã được sự trợ giúp của các trang mạng xã hội đang lan truyền với
tốc