Luận văn Thạc sĩ Luật học: Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã ở Thái Bìnhtrong điều kiện cải cách hành chính nhà nước

3,145
685
112
Chương 3
Phương hướng, giải pháp
đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền
cấp xã ở tỉnh Thái Bình
3.1. Quán triệt những quan điểm và nhận thức mới về cấp cơ sở
3.1.1. Nhận thức đúng đắn vị trí vai trò của xã, phường, thị trấn trong hệ
thống đơn vị hành chính nhà nước ta hiện nay
Trong hệ thống bộ máy chính quyền 4 cấp của Nhà nước ta phải đặc biệt chú
trọng đến chính quyền cấp xã, bởi vị trí vai trò của nó trong thực hiện quyền lực Nhà
nước và là cấp chính quyền cơ bản có ý nghĩa chiến lược giải quyết mối quan hệ trực
tiếp giữa Nhà nước với nhân dân. Vì vậy cần xác định rõ vị trí vai trò của chính quyền
cấp xã cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Bởi vì một trong những nguyên nhân dẫn
đến tình hình cải cách chính quyền cấp xã còn chậm và hoạt động của chính quyền cấp
còn nhiều yếu kém khuyết điểm chính làchưa thấy hết vị trí vai trò quan trọng
của chính quyền cấp xã trong nền hành chính nhà nước cũng như thực thi dân chủ.
Vị trí vai trò của chính quyền cấp xã được xác định dựa trên những cơ sở lý luận
và thực tiễn sau đây:
- Một là, chính quyền cấp xã là gốc, là cấp có số lượng đơn vị lớn nhất trong hệ
thống cơ quan hành chính nhà nước. Chẳng hạn tính đến ngày 20/9/1998 nếu cấp tỉnh
có 61 đơn vị, cấp huyện có 640 đơn vị thì cấp cơ sở có tới 10.387 đơn vị) [ 8, tr.2]. ở
Thái Bình cấp huyện, thị 8 đơn vị thì cấp sở 285 đơn v[56, tr.16].
Như vậy nếu cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện có sự đổi mới mà cấp cơ sở
không được đổi mới đồng bộ thì chẳng những ảnh hưởng đến đổi mới nền hành chính
nói chung mà còn hạn chế hiệu lực hiệu quả của đổi mới ở Trung ương, tỉnh, huyện sẽ
không phát huy hết tác dụng của nó, thậm chí không có ý nghĩa.
Chương 3 Phương hướng, giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã ở tỉnh Thái Bình 3.1. Quán triệt những quan điểm và nhận thức mới về cấp cơ sở 3.1.1. Nhận thức đúng đắn vị trí vai trò của xã, phường, thị trấn trong hệ thống đơn vị hành chính nhà nước ta hiện nay Trong hệ thống bộ máy chính quyền 4 cấp của Nhà nước ta phải đặc biệt chú trọng đến chính quyền cấp xã, bởi vị trí vai trò của nó trong thực hiện quyền lực Nhà nước và là cấp chính quyền cơ bản có ý nghĩa chiến lược giải quyết mối quan hệ trực tiếp giữa Nhà nước với nhân dân. Vì vậy cần xác định rõ vị trí vai trò của chính quyền cấp xã cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Bởi vì một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình cải cách chính quyền cấp xã còn chậm và hoạt động của chính quyền cấp xã còn nhiều yếu kém khuyết điểm chính là vì chưa thấy hết vị trí vai trò quan trọng của chính quyền cấp xã trong nền hành chính nhà nước cũng như thực thi dân chủ. Vị trí vai trò của chính quyền cấp xã được xác định dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn sau đây: - Một là, chính quyền cấp xã là gốc, là cấp có số lượng đơn vị lớn nhất trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước. Chẳng hạn tính đến ngày 20/9/1998 nếu cấp tỉnh có 61 đơn vị, cấp huyện có 640 đơn vị thì cấp cơ sở có tới 10.387 đơn vị) [ 8, tr.2]. ở Thái Bình cấp huyện, thị có 8 đơn vị thì cấp cơ sở có 285 đơn vị [56, tr.16]. Như vậy nếu cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện có sự đổi mới mà cấp cơ sở không được đổi mới đồng bộ thì chẳng những ảnh hưởng đến đổi mới nền hành chính nói chung mà còn hạn chế hiệu lực hiệu quả của đổi mới ở Trung ương, tỉnh, huyện sẽ không phát huy hết tác dụng của nó, thậm chí không có ý nghĩa.
Thực tiễn đời sống xã hội đã chứng minh điều này. Chính phủ, các Bộ, ngành,
cấp tỉnh, cấp huyện đều cải cách đổi mới nét mức độ khác nhau, nhưng dân
khiếu kiện ngày càng đông và vẫn kêu ca về sự phiền hà sách nhiễu của cơ quan hành
chính ở cơ sở. Vì thế nếu trong thể chế nền hành chính chúng ta lựa chọn thủ tục hành
chính là khâu đột phá, là trọng tâm trong quá trình cải cách bộ máy hành chính.
- Hai là, chính quyền cấp là khâu cuối cùng trong dây chuyền tổ chức thực
hiện đường lối chính sách pháp lụât, đưa đường lối chính sách pháp luật vào cuộc sống
trở thành hiện thực. Đường lối chủ trương chính sách pháp luật dù có đúng, có hay đến
đâu nhưng không được tổ chức thực hiện tốt cấp cơ sở thì cũng chỉ nằm trên giấy,
chúng ta sẽ lâm vào tình trạng nói nhiều làm ít, nói hay mà làm dở.
- Ba , hoạt động của chính quyền cấp xã diễn ra hàng ngày, hàng giờ trực tiếp
với nhân dân. Mọi cử chỉ, tác phong, lời nói, cách thức tiếp xúc giải quyết công việc
cho dân của cán bộ cấp xã thể hiện bộ mặt của Nhà nước ta. Người dân nhìn vào đây để
đánh gNhàớc, để có lòng tin hay sự bất bình.
Hiện có một nghịch lý là cơ sở có chính quyền, có cơ quan đại biểu của dân mà
dân thì không tin tưởng, đơn thư khiếu tố gửi vượt cấp lên tỉnh, lên Trung ương còn
nhiều.
Vừa qua ở Thái Bình dân phản ứng tập thể gay gắt vì nhiều nguyên nhân, trong
đó có nguyên nhân là dân đã mất lòng tin, đã không chịu đựng nổi sự thoái hoá biến
chất, thách thức dư luận, coi thường pháp luật của một số cán bộ và thậm chí cả tập thể
lãnh đạo chính quyền cấp xã. Mặt khác cũng phải thấy những việc làm tốt, làm đúng
của cán bộ chính quyền cấp xã thôn,m cũng giúp khôi phục nhanh chóng và bền
vững nhất lòng tin yêu chính quyền, chế độ.
- Bốn , nguồn gốc sức mạnh hiệu lực hiệu quả của Nhà nước ta là ở chỗ nhân
dân làm chủ, Nhà nước quản lý. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua
các cơ quan đại biểu, các tổ chức, đoàn thể xã hội gián tiếp và trực tiếp, bày tỏ ý chí
nguyện vọng ý kiến của mình trong quá trình xây dựng và quản lý nhà nước, quản lý xã
hội. Trên địa bàn cơ sở, nhân dân có khả năng điều kiện thực hiện quyền làm chủ trực
tiếp của mình một cách thuận tiện, trực tiếp và hiệu quả hơn. Cơ sở làng xã chính là địa
Thực tiễn đời sống xã hội đã chứng minh điều này. Chính phủ, các Bộ, ngành, cấp tỉnh, cấp huyện đều có cải cách đổi mới rõ nét ở mức độ khác nhau, nhưng dân khiếu kiện ngày càng đông và vẫn kêu ca về sự phiền hà sách nhiễu của cơ quan hành chính ở cơ sở. Vì thế nếu trong thể chế nền hành chính chúng ta lựa chọn thủ tục hành chính là khâu đột phá, là trọng tâm trong quá trình cải cách bộ máy hành chính. - Hai là, chính quyền cấp xã là khâu cuối cùng trong dây chuyền tổ chức thực hiện đường lối chính sách pháp lụât, đưa đường lối chính sách pháp luật vào cuộc sống trở thành hiện thực. Đường lối chủ trương chính sách pháp luật dù có đúng, có hay đến đâu nhưng không được tổ chức thực hiện tốt ở cấp cơ sở thì cũng chỉ nằm trên giấy, chúng ta sẽ lâm vào tình trạng nói nhiều làm ít, nói hay mà làm dở. - Ba là, hoạt động của chính quyền cấp xã diễn ra hàng ngày, hàng giờ trực tiếp với nhân dân. Mọi cử chỉ, tác phong, lời nói, cách thức tiếp xúc giải quyết công việc cho dân của cán bộ cấp xã thể hiện bộ mặt của Nhà nước ta. Người dân nhìn vào đây để đánh giá Nhà nước, để có lòng tin hay sự bất bình. Hiện có một nghịch lý là cơ sở có chính quyền, có cơ quan đại biểu của dân mà dân thì không tin tưởng, đơn thư khiếu tố gửi vượt cấp lên tỉnh, lên Trung ương còn nhiều. Vừa qua ở Thái Bình dân phản ứng tập thể gay gắt vì nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là dân đã mất lòng tin, đã không chịu đựng nổi sự thoái hoá biến chất, thách thức dư luận, coi thường pháp luật của một số cán bộ và thậm chí cả tập thể lãnh đạo chính quyền cấp xã. Mặt khác cũng phải thấy những việc làm tốt, làm đúng của cán bộ chính quyền cấp xã thôn, xóm cũng giúp khôi phục nhanh chóng và bền vững nhất lòng tin yêu chính quyền, chế độ. - Bốn là, nguồn gốc sức mạnh hiệu lực hiệu quả của Nhà nước ta là ở chỗ nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua các cơ quan đại biểu, các tổ chức, đoàn thể xã hội gián tiếp và trực tiếp, bày tỏ ý chí nguyện vọng ý kiến của mình trong quá trình xây dựng và quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Trên địa bàn cơ sở, nhân dân có khả năng điều kiện thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của mình một cách thuận tiện, trực tiếp và hiệu quả hơn. Cơ sở làng xã chính là địa
bàn lý tưởng để thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" một
cách đơn giản nhất, song lại dễ làm, dễ nhận biết và kiểm tra. Vấn đề đặt ra là chính
quyền cấp xã có nhận thức đúng và tổ chức cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ của
họ hay không?
Theo V.I Lênin, người nông dân, người nội trợ bình thường, thể tham gia
quản lý nhà nước và hội nếu người đó điều kiện trực tiếp tham gia quản nhà
nước và xã hội. Chính trên mảnh đất mà anh ta sinh sống, anh ta sẽ học được cách thức
quản lý nhà nước thông qua thực tiễn cuộc sống, thực tiễn những công tác mà chúng ta
sẽ giao một cách từ từ và thận trọng.
- Năm là, tầm quan trọng và tính cấp bách của vấn đề đổi mới tổ chức hoạt động
của chính quyền cấp xã còn được xác định bởi thực trạng yếu kém và sự chậm trễ của
quá trình đổi mới, kiện toàn chính quyền cấp những năm qua. Những yếu kém
khuyết điểm còn có nguy cơ lây lan và phát triển, có nơi trở thành nghiêm trọng. Điều
này ảnh hưởng không nhỏ đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, tạo nên lực
cản đối với sự nghiệp đổi mới.
Nhận thức đúng đắn vai trò vtrí của chính quyền cấp sẽ góp phần tạo nên
động lực mới thúc đẩy quá trình cải cách, đổi mới bộ phận quan trọng này của nền hành
chính nhà nước, đảm bảo người dân có thực quyền.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn trên, cần xác định cải cách tổ chức hoạt động của
chính quyền cấp xã đang trở thành yêu cầu cấp bách. Nếu cải tạo nền hành chính nhà
nước là trọng tâm của quá trình đổi mới tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước trong
những năm trước mắt và cải cách thủ tục hành chính là khâu đột phá trong cải cách thể
chế hành chính thì trong cải cách hệ thống hành chính phải coi kiện toàn chính quyền
cấp xã, vừa là trọng tâm vừa là khâu đột phá. Trên cơ sở thống nhất nhận thức như vậy
mới có động lực quyết tâm và ớc đi thích hợp, tránh được tình trạng đánh trống bỏ dùi,
làm chắp y tiện.
3.1.2. Phân biệt sự khác nhau giữa chính quyền phường và chính quyền xã
trên cơ sở sự khác nhau giữa phường và xã
bàn lý tưởng để thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" một cách đơn giản nhất, song lại dễ làm, dễ nhận biết và kiểm tra. Vấn đề đặt ra là chính quyền cấp xã có nhận thức đúng và tổ chức cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ của họ hay không? Theo V.I Lênin, người nông dân, người nội trợ bình thường, có thể tham gia quản lý nhà nước và xã hội nếu người đó có điều kiện trực tiếp tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Chính trên mảnh đất mà anh ta sinh sống, anh ta sẽ học được cách thức quản lý nhà nước thông qua thực tiễn cuộc sống, thực tiễn những công tác mà chúng ta sẽ giao một cách từ từ và thận trọng. - Năm là, tầm quan trọng và tính cấp bách của vấn đề đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền cấp xã còn được xác định bởi thực trạng yếu kém và sự chậm trễ của quá trình đổi mới, kiện toàn chính quyền cấp xã những năm qua. Những yếu kém khuyết điểm còn có nguy cơ lây lan và phát triển, có nơi trở thành nghiêm trọng. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, tạo nên lực cản đối với sự nghiệp đổi mới. Nhận thức đúng đắn vai trò vị trí của chính quyền cấp xã sẽ góp phần tạo nên động lực mới thúc đẩy quá trình cải cách, đổi mới bộ phận quan trọng này của nền hành chính nhà nước, đảm bảo người dân có thực quyền. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn trên, cần xác định cải cách tổ chức hoạt động của chính quyền cấp xã đang trở thành yêu cầu cấp bách. Nếu cải tạo nền hành chính nhà nước là trọng tâm của quá trình đổi mới tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước trong những năm trước mắt và cải cách thủ tục hành chính là khâu đột phá trong cải cách thể chế hành chính thì trong cải cách hệ thống hành chính phải coi kiện toàn chính quyền cấp xã, vừa là trọng tâm vừa là khâu đột phá. Trên cơ sở thống nhất nhận thức như vậy mới có động lực quyết tâm và bước đi thích hợp, tránh được tình trạng đánh trống bỏ dùi, làm chắp vá tùy tiện. 3.1.2. Phân biệt sự khác nhau giữa chính quyền phường và chính quyền xã trên cơ sở sự khác nhau giữa phường và xã
Theo địa vị pháp lý thì vị trí vai trò của chính quyền xã, thị trấn và phường
giống nhau, nhưng trong hoạt động thực tiễn lại khác nhau.
Chính quyền xã, thị trấn đóng vai trò quyết định trong việc phát triển kinh tế - xã
hội, nâng cao đời sống của nhân dân ở xã, thị trấn; ở địa n nông thôn, kinh tế vẫn chủ
yếu là nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, chính quyền xã, thị trấn quản lý trực tiếp tư
liệu sản xuất, đối tượng sản xuất, có vai trò quan trọng trong việc quản lý nhà nước trên tất
cả các lĩnh vực ở xã, thị trấn.
Khác với xã, thị trấn, chính quyền phường chỉ quản lý trực tiếp các hộ buôn bán
nhỏ có thuế môn bài loại 5,6, chỉ chiếm khoảng 5-7% tổng số hộ sản xuất kinh doanh
trên địa bàn. Sản xuất kinh doanh trên địa bàn phường rất đa dạng và phức tạp, cán bộ
phường không đủ trình độ để quản lý. Các hoạt động kinh tế - xã hội, văn hoá giáo dục,
y tế, các cơ sở hạ tầng, cảnh quan môi trường, kiến trúc đô thị trên địa bàn phường đều
được quản lý theo ngành dọc. chính quyền phường đóng vai trò quan trọng trong việc
chỉ đạo các phong trào văn hoá, xã hội, đảm bảo trật tự trị an đường phố tổ chức
thực hiện các nhiệm vụ cấp trên giao, chính quyền phường không đủ khả năng giải
quyết việc làm cho nhân dân. Vai trò chính quyền phường trong phát triển kinh tế - xã
hội không rõ, quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực cũng hạn chế.
Sự khác nhau giữa chính quyền phường và xã, giữa đô thị và nông thôn được thể
hiện chủ yếu trong các mặt sau đây:
- Về vị trí vai trò: Phường nằm trong đô thị. Đô thị là những trung tâm hành
chính, kinh tế - xã hội, là hạt nhân và động lực thúc đẩy sự phát triển của quốc gia của
tỉnh, của thị xã.
- Kinh tế phường là kinh tế đa ngành, chủ yếu là phi nông nghiệp, tập trung các
lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ... tốc độ tăng trưởng
cao, tập trung nguồn thu chủ yếu của ngân sách địa phương; còn kinh tế nông thôn
kinh tế đơn ngành, chủ yếu là nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.
- Địa giới hành chính của phường nhỏ, chỉ có ý nghĩa trong quản lý hành chính nhà
nước, mọi lĩnh vực hoạt động khác không có sự phân biệt địa giới hành chính. Mật độ dân số
Theo địa vị pháp lý thì vị trí vai trò của chính quyền xã, thị trấn và phường là giống nhau, nhưng trong hoạt động thực tiễn lại khác nhau. Chính quyền xã, thị trấn đóng vai trò quyết định trong việc phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân ở xã, thị trấn; ở địa bàn nông thôn, kinh tế vẫn chủ yếu là nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, chính quyền xã, thị trấn quản lý trực tiếp tư liệu sản xuất, đối tượng sản xuất, có vai trò quan trọng trong việc quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực ở xã, thị trấn. Khác với xã, thị trấn, chính quyền phường chỉ quản lý trực tiếp các hộ buôn bán nhỏ có thuế môn bài loại 5,6, chỉ chiếm khoảng 5-7% tổng số hộ sản xuất kinh doanh trên địa bàn. Sản xuất kinh doanh trên địa bàn phường rất đa dạng và phức tạp, cán bộ phường không đủ trình độ để quản lý. Các hoạt động kinh tế - xã hội, văn hoá giáo dục, y tế, các cơ sở hạ tầng, cảnh quan môi trường, kiến trúc đô thị trên địa bàn phường đều được quản lý theo ngành dọc. chính quyền phường đóng vai trò quan trọng trong việc chỉ đạo các phong trào văn hoá, xã hội, đảm bảo trật tự trị an đường phố và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cấp trên giao, chính quyền phường không đủ khả năng giải quyết việc làm cho nhân dân. Vai trò chính quyền phường trong phát triển kinh tế - xã hội không rõ, quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực cũng hạn chế. Sự khác nhau giữa chính quyền phường và xã, giữa đô thị và nông thôn được thể hiện chủ yếu trong các mặt sau đây: - Về vị trí vai trò: Phường nằm trong đô thị. Đô thị là những trung tâm hành chính, kinh tế - xã hội, là hạt nhân và động lực thúc đẩy sự phát triển của quốc gia của tỉnh, của thị xã. - Kinh tế phường là kinh tế đa ngành, chủ yếu là phi nông nghiệp, tập trung các lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ... tốc độ tăng trưởng cao, tập trung nguồn thu chủ yếu của ngân sách địa phương; còn kinh tế nông thôn là kinh tế đơn ngành, chủ yếu là nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. - Địa giới hành chính của phường nhỏ, chỉ có ý nghĩa trong quản lý hành chính nhà nước, mọi lĩnh vực hoạt động khác không có sự phân biệt địa giới hành chính. Mật độ dân số
cao, thành phần dân cư đa dạng, phức tạp, có nguồn gốc rất khác nhau. Tứ xứ tập trung lại
không thuần nhất, mang theo những phong tục tập quán và lối sống khác nhau, liên kết lỏng
lẻo, có trình độ học thức dân trí cao hơn ở nông thôn, dân ngụkhông chính thứcdân
vãng lai cũng chiếm tỷ lệ đáng kể. Do đó quản lý dân cư đô thị khó khăn và phức tạp gấp
nhiều lần so với nông thôn. Dân cư nông thôn đơn giản thuần nhất, gắn kết với nhau từ lâu
đời, có truyền thốnghuyết thống, tạo nên những bản sắc, phong tục tập quán riêng của
từng tỉnh, từng huyện, từng xã, thậm ccủa từng thôn làng.
- Lối sống của dân cư ở phường hoàn toàn phụ thuộc vào thị trường thông qua
mua bán, nhu cầu đời sống vật chất tinh thần phong phú, đa dạng. Cuộc sống của
dân nông thôn chủ yếu tự túc tự cấp, nhân dân nông thôn thể tự túc được
những nhu yếu phẩm trong cuộc sống hàng ngày. Khác với nông thôn, chính quyền
đô thị phải tính đến những khả năng cung cấp đáp ứng các dịch vụ sinh hoạt của đời
sống cư dân.
- Cơ sở hạ tầng đô thị (điện, đường, cấp thoát nước, môi trường...) phức tạp, đồ
sộ gấp nhiều lần nông thôn, thể hiện sự đồng bộ, tính thống nhất cao, có nhiều mạng
lưới xuyên suốt địa bàn, không phụ thuộc vào địa giới hành chính, đòi hỏi quản lý tập
trung theo chuyên ngành, không thể phân tán cắt khúc trong quản lý và không thể phân
cấp cho từng phường.
dụ: Giao thông, cấp thoát nước, vệ sinh môi trường, xây dựng, kiến trúc đô
thị, phúc lợi công cộng khác, các công trình văn hoá, y tế, thể dục thể thao, công viên,
các dịch vụ công cộng... được xác định theo một quy hoạch thống nhất chung trên địa
bàn và phục vụ nhân dân toàn thị xã chứ không chỉ riêng một phường nào.
- Quản lý nhà nước ở phường phải tiến hành nhiều nội dung phức tạp, nhiều hoạt
động giao dịch giữa chính quyền với công dân và tổ chức trên địa bàn; có nhiều vấn đề
trở thành bức xúc ở đô thị như xây dựng trái phép, cấp thoát nước, vệ sinh môi trường,
trật tự an toàn giao thông (nông thôn không có). Phường thực hiện không toàn diện
công tác quản lý đối với một cấp, không đủ điều kiện quản lý kinh tế trên địa bàn mà
chỉ tiến hành cơ chế cộng quản (quản lý chủ yếu theo ngành).
cao, thành phần dân cư đa dạng, phức tạp, có nguồn gốc rất khác nhau. Tứ xứ tập trung lại không thuần nhất, mang theo những phong tục tập quán và lối sống khác nhau, liên kết lỏng lẻo, có trình độ học thức và dân trí cao hơn ở nông thôn, dân ngụ cư không chính thức và dân vãng lai cũng chiếm tỷ lệ đáng kể. Do đó quản lý dân cư đô thị khó khăn và phức tạp gấp nhiều lần so với nông thôn. Dân cư nông thôn đơn giản thuần nhất, gắn kết với nhau từ lâu đời, có truyền thống và huyết thống, tạo nên những bản sắc, phong tục tập quán riêng của từng tỉnh, từng huyện, từng xã, thậm chí của từng thôn làng. - Lối sống của dân cư ở phường hoàn toàn phụ thuộc vào thị trường thông qua mua bán, nhu cầu đời sống vật chất và tinh thần phong phú, đa dạng. Cuộc sống của dân cư nông thôn chủ yếu là tự túc tự cấp, nhân dân nông thôn có thể tự túc được những nhu yếu phẩm trong cuộc sống hàng ngày. Khác với nông thôn, chính quyền ở đô thị phải tính đến những khả năng cung cấp đáp ứng các dịch vụ sinh hoạt của đời sống cư dân. - Cơ sở hạ tầng đô thị (điện, đường, cấp thoát nước, môi trường...) phức tạp, đồ sộ gấp nhiều lần nông thôn, thể hiện sự đồng bộ, tính thống nhất cao, có nhiều mạng lưới xuyên suốt địa bàn, không phụ thuộc vào địa giới hành chính, đòi hỏi quản lý tập trung theo chuyên ngành, không thể phân tán cắt khúc trong quản lý và không thể phân cấp cho từng phường. Ví dụ: Giao thông, cấp thoát nước, vệ sinh môi trường, xây dựng, kiến trúc đô thị, phúc lợi công cộng khác, các công trình văn hoá, y tế, thể dục thể thao, công viên, các dịch vụ công cộng... được xác định theo một quy hoạch thống nhất chung trên địa bàn và phục vụ nhân dân toàn thị xã chứ không chỉ riêng một phường nào. - Quản lý nhà nước ở phường phải tiến hành nhiều nội dung phức tạp, nhiều hoạt động giao dịch giữa chính quyền với công dân và tổ chức trên địa bàn; có nhiều vấn đề trở thành bức xúc ở đô thị như xây dựng trái phép, cấp thoát nước, vệ sinh môi trường, trật tự an toàn giao thông (nông thôn không có). Phường thực hiện không toàn diện công tác quản lý đối với một cấp, không đủ điều kiện quản lý kinh tế trên địa bàn mà chỉ tiến hành cơ chế cộng quản (quản lý chủ yếu theo ngành).
Từ những đặc trưng khác nhau cơ bản nêu trên cho thấy rõ: Xã, thị trấn là những
đơn vị hành chính độc lập. Mọi hoạt động đều diễn ra trong địa giới hành chính của xã,
thị trấn. Hoạt động kinh tế của xã, thị trấn là chủ yếu, tiếp đến mới là hoạt động quản lý
hành chính - Tư liệu sản xuất và địa bàn sản xuất của nhân dân nằm trong địa giới hành
chính của xã, do chính quyền trực tiếp quản lý, điều hành. Mọi hoạt động quản
của chính quyền xã, thị trấn liên quan trực tiếp đến người dân trong xã. chính quyền xã,
thị trấn vừa là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, vừa là cơ quan tự quản của
xã, thị trấn. Địa giới hành chính phường chỉ ý nghĩa trong phân cấp quản lý hành
chính nhà nước. Còn trong tất cả các lĩnh vực khác địa giới hành chính không ý
nghĩa.
Chính quyền phường không quản toàn diện kinh tế, các lĩnh vực khác đều
được quản lý trực tiếp theo hệ thống ngành dọc. chính quyền phường chỉ thực hiện một
số việc quản lý hành chính nhà nước theo pháp luật và một số nhiệm vụ cấp trên giao,
thiếu tính độc lập tự chủ của một đơn vị hành chính.
3.1.3. Quan điểm nhận thức mới về cán bộ xã, phường, thị trấn và chế độ
chính sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn
Vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã có đủ phẩm chất đạo đức, trình độ năng
lực đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá là thực sự bức
xúc. Bởi vì:
- Ngày nay với sự tác động của nền kinh tế thị trường, trình độn trí ngày
càng được nâng lên theo nhịp độ phát triển kinh tế -hội. Phải nhận thức sâu sắc
rằng muốn dân giàu, nước mạnh phải bắt đầu từ tiềm năng tàng ẩn ở cơ sở. Vì cơ sở
nơi cung cấp nguồn nội lực về nhân lực, nguyên vật liệu chủ yếu của quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ sở giàu và mạnh thì cả nước ta mới giàu mạnh.
hội công bằng văn minh cũng bắt đầu từ cơ sở. Động lực để đạt tới những mục tiêu
dân giàu, nước mạnh,hội công bằng văn minh trước hết là đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp xã. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định cán bộ là cái gốc của mọi
công việc. Cán bộ tiền vốn của đoàn thể - có vốn mới làm ra lãi - bất cchính
sách, công tác nếu không có cán bộ tốt thì hỏng việc tứclà lỗ vốn". "Có cán bộ
Từ những đặc trưng khác nhau cơ bản nêu trên cho thấy rõ: Xã, thị trấn là những đơn vị hành chính độc lập. Mọi hoạt động đều diễn ra trong địa giới hành chính của xã, thị trấn. Hoạt động kinh tế của xã, thị trấn là chủ yếu, tiếp đến mới là hoạt động quản lý hành chính - Tư liệu sản xuất và địa bàn sản xuất của nhân dân nằm trong địa giới hành chính của xã, do chính quyền xã trực tiếp quản lý, điều hành. Mọi hoạt động quản lý của chính quyền xã, thị trấn liên quan trực tiếp đến người dân trong xã. chính quyền xã, thị trấn vừa là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, vừa là cơ quan tự quản của xã, thị trấn. Địa giới hành chính phường chỉ có ý nghĩa trong phân cấp quản lý hành chính nhà nước. Còn trong tất cả các lĩnh vực khác địa giới hành chính không có ý nghĩa. Chính quyền phường không quản lý toàn diện kinh tế, các lĩnh vực khác đều được quản lý trực tiếp theo hệ thống ngành dọc. chính quyền phường chỉ thực hiện một số việc quản lý hành chính nhà nước theo pháp luật và một số nhiệm vụ cấp trên giao, thiếu tính độc lập tự chủ của một đơn vị hành chính. 3.1.3. Quan điểm nhận thức mới về cán bộ xã, phường, thị trấn và chế độ chính sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn Vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã có đủ phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá là thực sự bức xúc. Bởi vì: - Ngày nay với sự tác động của nền kinh tế thị trường, trình độ dân trí ngày càng được nâng lên theo nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội. Phải nhận thức sâu sắc rằng muốn dân giàu, nước mạnh phải bắt đầu từ tiềm năng tàng ẩn ở cơ sở. Vì cơ sở là nơi cung cấp nguồn nội lực về nhân lực, nguyên vật liệu chủ yếu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ sở giàu và mạnh thì cả nước ta mới giàu mạnh. Xã hội công bằng văn minh cũng bắt đầu từ cơ sở. Động lực để đạt tới những mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh trước hết là đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Cán bộ là tiền vốn của đoàn thể - có vốn mới làm ra lãi - bất cứ chính sách, công tác gì nếu không có cán bộ tốt thì hỏng việc tứclà lỗ vốn". "Có cán bộ
tốt, việc cũng xong. Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém. Đó một chân nhất định" [43, tr.240]. Đội ngũ này phải trình độ,
phẩm chất đạo đức, có kiến thức kinh tế, khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý, sự hiểu
biết sâu sắc về bản sắc văn hoá dân tộc tại cộng đồng dân cư ở cơ sở thì mới có năng
lực thúc đẩy cơ sở phát triển đúng hướng.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã xuất phát từ vị trí vai trò của cấp cơ sở được
Hiến pháp Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 quy định là một cấp đơn vị
hành chính nhà nước (điều 118) để thể hiện rõ quyền lực Nhà nước ở địa phương (điều
119).
Xuất phát từ nhiệm vụ chính trị quyền hạn của chính quyền cấp này được quy
định tại luật tổ chức HĐND và UBND năm 1994, tại pháp lệnh về nhiệm vụ quyền hạn
cụ thể của HĐND và UBND ở mỗi cấp.
- Nước Việt Nam đang đứng trước nhu cầu bức xúc của quá trình chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường, hội nhập khu vực toàn cầu hoá, xu thế tất yếu
không thể cưỡng lại được. Để chủ động hoà nhập vào xu thế ấy một cách có hiệu quả
nhất, nhanh nhất, sớm thoát ra khỏi thực trạng chậm phát triển, tụt hậu, cần có một đội
ngũ cán bộ chính quyền cấp xã có trình độ chuyên môn, năng động sáng tạo trong quản
lý điều hành để tác động trực tiếp quá trình chuyển đổi này, nhằm khai thác triệt để các
yếu tố tiềm năng tàng ẩn ở cơ sở.
Việc hoạch định chính sách cán bộ xã, phường, thị trấn phải thể hiện được tính
cân đối, bảo đảm sự tương quan giữa quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ đối với các đối
tượng được điều chỉnh. Chính sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn phải được xây
dựng thoả đáng, kết hợp quan điểm lịch sự thể hiện được tính kế thừa, tính toàn diện và
nhất quán.
Phải xác định rõ vị trí của cán bộ cấp cơ sở trong giai đoạn tới, có sự phân tích
sâu sắc tính chất đặc điểm khác nhau giữa xã, phường để khẳng định rõ có công
chức hoá cán bộ cấp này hay không, mức độ đến đâu? Có hành chính hoá chế độ làm
việc đối với cấp này hay không? Chế độ làm việc của phường như thế nào? Xã như thế
tốt, việc gì cũng xong. Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Đó là một chân lý nhất định" [43, tr.240]. Đội ngũ này phải có trình độ, có phẩm chất đạo đức, có kiến thức kinh tế, khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý, sự hiểu biết sâu sắc về bản sắc văn hoá dân tộc tại cộng đồng dân cư ở cơ sở thì mới có năng lực thúc đẩy cơ sở phát triển đúng hướng. - Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã xuất phát từ vị trí vai trò của cấp cơ sở được Hiến pháp Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 quy định là một cấp đơn vị hành chính nhà nước (điều 118) để thể hiện rõ quyền lực Nhà nước ở địa phương (điều 119). Xuất phát từ nhiệm vụ chính trị quyền hạn của chính quyền cấp này được quy định tại luật tổ chức HĐND và UBND năm 1994, tại pháp lệnh về nhiệm vụ quyền hạn cụ thể của HĐND và UBND ở mỗi cấp. - Nước Việt Nam đang đứng trước nhu cầu bức xúc của quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, hội nhập khu vực và toàn cầu hoá, là xu thế tất yếu và không thể cưỡng lại được. Để chủ động hoà nhập vào xu thế ấy một cách có hiệu quả nhất, nhanh nhất, sớm thoát ra khỏi thực trạng chậm phát triển, tụt hậu, cần có một đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã có trình độ chuyên môn, năng động sáng tạo trong quản lý điều hành để tác động trực tiếp quá trình chuyển đổi này, nhằm khai thác triệt để các yếu tố tiềm năng tàng ẩn ở cơ sở. Việc hoạch định chính sách cán bộ xã, phường, thị trấn phải thể hiện được tính cân đối, bảo đảm sự tương quan giữa quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ đối với các đối tượng được điều chỉnh. Chính sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn phải được xây dựng thoả đáng, kết hợp quan điểm lịch sự thể hiện được tính kế thừa, tính toàn diện và nhất quán. Phải xác định rõ vị trí của cán bộ cấp cơ sở trong giai đoạn tới, có sự phân tích sâu sắc tính chất và đặc điểm khác nhau giữa xã, phường để khẳng định rõ có công chức hoá cán bộ cấp này hay không, mức độ đến đâu? Có hành chính hoá chế độ làm việc đối với cấp này hay không? Chế độ làm việc của phường như thế nào? Xã như thế
nào? Chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã làm sao để phù hợp với đặc điểm của hệ
thống chính trị cấp cơ sở của nước Việt Nam.
- Tiến hành nghiên cứu hoạch định chế độ chính sách mới phải dựa trên cơ sở có
nhiều phương án để so sánh. Phải có sự chỉ đạo chặt chẽ của Bộ chính trị, của Chính
phủ và sự kết hợp, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan của Đảng, Chính phủ các
đoàn thể Trung ương. Các ớc tiến hành phải hết sức tỷ mỉ, thận trọng và phải
lường tới mọi yếu tố khách quan có thể xảy ra khi chính sách mới được ban hành.
Chính sách chế độ đối với cán bộ chính quyền cấp xã phải là đòn bẩy kích thích
không những riêng đối với chính quyền cấp xã mà còn là động lực thúc đẩy cộng đồng
dân cư tiếp tục sáng tạo, khai thác những tiềm năng đang ẩn dấu tại địa phương; tạo
được những giá trị đích thực cho đời sống vật chất, tinh thần với mục tiêu là nhà nhà
giàu mạnh, làng giàu mạnh, mọi người trong cộng đồng dân từ thôn làng đều
được sống trong môi trường công bằng, văn minh và lành mạnh đầm ấm của tình đoàn
kết tương thân tương ái.
3.2. Phương hướng, giải pháp đổi mới tổ chức hoạt động của chính
quyền cấp xã ở Thái Bình
Phương hướng chung của việc hoàn thiện chính quyền cấp xã Thái Bình cần
theo hướng sau:
- Nâng cao chất lượng chế độ dân chủ đại diện, mở rộng và có cơ chế từng bước
thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp một cách thiết thực, đúng hướng và có hiệu quả.
- Cụ thể hoá phân cấp giữa các cấp chính quyền, cải tiến phương thức hoạt động
của chính quyền cấp xã gắn với vị trí vai trò chức năng từng tổ chức.
- Xây dựng cơ cấu cán bộ hợp lý đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính hiện nay.
- Xây dựng tiêu chuẩn cụ thể đối với từng loại cán bộ.
Để giải quyết tốt phương hướng trên, tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp
xã cần thực hiện những giải pháp cơ bản sau đây:
nào? Chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã làm sao để phù hợp với đặc điểm của hệ thống chính trị cấp cơ sở của nước Việt Nam. - Tiến hành nghiên cứu hoạch định chế độ chính sách mới phải dựa trên cơ sở có nhiều phương án để so sánh. Phải có sự chỉ đạo chặt chẽ của Bộ chính trị, của Chính phủ và sự kết hợp, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan của Đảng, Chính phủ và các đoàn thể ở Trung ương. Các bước tiến hành phải hết sức tỷ mỉ, thận trọng và phải lường tới mọi yếu tố khách quan có thể xảy ra khi chính sách mới được ban hành. Chính sách chế độ đối với cán bộ chính quyền cấp xã phải là đòn bẩy kích thích không những riêng đối với chính quyền cấp xã mà còn là động lực thúc đẩy cộng đồng dân cư tiếp tục sáng tạo, khai thác những tiềm năng đang ẩn dấu tại địa phương; tạo được những giá trị đích thực cho đời sống vật chất, tinh thần với mục tiêu là nhà nhà giàu mạnh, làng xã giàu mạnh, mọi người trong cộng đồng dân cư từ thôn làng đều được sống trong môi trường công bằng, văn minh và lành mạnh đầm ấm của tình đoàn kết tương thân tương ái. 3.2. Phương hướng, giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã ở Thái Bình Phương hướng chung của việc hoàn thiện chính quyền cấp xã ở Thái Bình cần theo hướng sau: - Nâng cao chất lượng chế độ dân chủ đại diện, mở rộng và có cơ chế từng bước thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp một cách thiết thực, đúng hướng và có hiệu quả. - Cụ thể hoá phân cấp giữa các cấp chính quyền, cải tiến phương thức hoạt động của chính quyền cấp xã gắn với vị trí vai trò chức năng từng tổ chức. - Xây dựng cơ cấu cán bộ hợp lý đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính hiện nay. - Xây dựng tiêu chuẩn cụ thể đối với từng loại cán bộ. Để giải quyết tốt phương hướng trên, tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã cần thực hiện những giải pháp cơ bản sau đây:
3.2.1. Xác định rõ chức năng nhiệm vụ của HĐND và UBND, bảo đảm cho
HĐND, UBND hoạt động có hiệu quả
Theo quy định của Hiến pháp, HĐND quan quyền lực Nhà nước địa
phương, chức năng là bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật cũng như các văn bản
dưới luật của cơ quan Nhà nước cấp trên. Đây thực chất là cơ quan thi hành pháp lụât.
Trong khi thi hành pháp luật, HĐND được sử dụng quyền lực Nhà nước để quyết định
các vấn đề của địa phương. HĐND chỉ căn cứ vào những đặc điểm có tính chất đặc thù
của địa phương và những quyết định đó để tác động đến các đối tượng tương ứng trên
địa bàn lãnh thổ. Như vậy HĐND là người thể hiện ý chí của nhân dân địa phương, giải
quyết các công việc của địa phương theo các quy định của pháp lụât. Vì vậy nên xác
định HĐND là cơ quan đại diện tự quản ở địa phương.
UBND là quan hành chính nhà nước thực hiện chức năng quản lý toàn diện
các quá trình ở địa phương, nội dung hành động của nó là chấp hành và điều hành. Đây
hoạt động hành chính nhà nước. vậy theo nội dung của hoạt động cần được thể
hiện bằng tên gọi của chính quan đó. Do đó nên đổi UBND thành uỷ ban hành
chính. Tên gọi UBND mang nội dung chính trị, thể hiện về mặt hình thức, nói lên chính
quyền cấp xã là của dân, do dân, vì dân. Thế nhưng cái thể hiện nội dung chính trị của
chính quyền nhân dân là phương thức và kết quả hoạt động của nó trong giải quyết các
vấn đề liên quan đến lợi ích Nhà nước và xã hội.
Để đảm bảo cho HĐND, UBND hoạt động hiệu quả, cần thực hiện một số
giải pháp sau:
- Tăng cường bộ máy của HĐND, không để HĐND phụ thuộc quá nhiều vào
UBND như hiện nay. Mặt khác phải tăng cường vai trò của trưởng xóm trở thành tai
mắt, cánh tay nối dài của chính quyền, tự đảm nhận một số công việc quản lý hành
chính, hoà giải các mâu thuẫn tranh chấp nhỏ phát sinh hàng ngày.
Theo luật hiện hành, số lượng đại biểu HĐND cấp xã được quy định từ 19 đến
25 đại biểu, phụ thuộc vào số dân của mỗi cơ sở. Việc bầu cử HĐND cấp xã vừa phải
dựa vào tiêu chuẩn, vừa phải bảo đảm cơ cấu (về giới tính, độ tuổi, thành phần, dân tộc,
tôn giáo, tầng lớp dân cư của xã...).
3.2.1. Xác định rõ chức năng nhiệm vụ của HĐND và UBND, bảo đảm cho HĐND, UBND hoạt động có hiệu quả Theo quy định của Hiến pháp, HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, chức năng là bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật cũng như các văn bản dưới luật của cơ quan Nhà nước cấp trên. Đây thực chất là cơ quan thi hành pháp lụât. Trong khi thi hành pháp luật, HĐND được sử dụng quyền lực Nhà nước để quyết định các vấn đề của địa phương. HĐND chỉ căn cứ vào những đặc điểm có tính chất đặc thù của địa phương và những quyết định đó để tác động đến các đối tượng tương ứng trên địa bàn lãnh thổ. Như vậy HĐND là người thể hiện ý chí của nhân dân địa phương, giải quyết các công việc của địa phương theo các quy định của pháp lụât. Vì vậy nên xác định HĐND là cơ quan đại diện tự quản ở địa phương. UBND là cơ quan hành chính nhà nước thực hiện chức năng quản lý toàn diện các quá trình ở địa phương, nội dung hành động của nó là chấp hành và điều hành. Đây là hoạt động hành chính nhà nước. Vì vậy theo nội dung của hoạt động cần được thể hiện bằng tên gọi của chính cơ quan đó. Do đó nên đổi UBND thành uỷ ban hành chính. Tên gọi UBND mang nội dung chính trị, thể hiện về mặt hình thức, nói lên chính quyền cấp xã là của dân, do dân, vì dân. Thế nhưng cái thể hiện nội dung chính trị của chính quyền nhân dân là phương thức và kết quả hoạt động của nó trong giải quyết các vấn đề liên quan đến lợi ích Nhà nước và xã hội. Để đảm bảo cho HĐND, UBND hoạt động có hiệu quả, cần thực hiện một số giải pháp sau: - Tăng cường bộ máy của HĐND, không để HĐND phụ thuộc quá nhiều vào UBND như hiện nay. Mặt khác phải tăng cường vai trò của trưởng xóm trở thành tai mắt, cánh tay nối dài của chính quyền, tự đảm nhận một số công việc quản lý hành chính, hoà giải các mâu thuẫn tranh chấp nhỏ phát sinh hàng ngày. Theo luật hiện hành, số lượng đại biểu HĐND cấp xã được quy định từ 19 đến 25 đại biểu, phụ thuộc vào số dân của mỗi cơ sở. Việc bầu cử HĐND cấp xã vừa phải dựa vào tiêu chuẩn, vừa phải bảo đảm cơ cấu (về giới tính, độ tuổi, thành phần, dân tộc, tôn giáo, tầng lớp dân cư của xã...).
Việc ấn định số lượng đại biểu HĐND chỉ căn cứ vào dân số của xã nên ở những
nơi có dân số ít nhưng lại nhiều xóm thôn thì một số xóm thôn lại không đại biểu
của mình tham gia HĐND. Mặt khác trong HĐND số lượng cán bộ xã chiếm tuyệt đại
bộ phận, vì thế số đại biểu là dân chiếm tỷ lệ rất nhỏ.
Để thể thực sự phát huy được vai trò đại diện cho ý chí nguyện vọng của
người dân ở cơ sở, ngoài việc quy định số lượng đại biểu căn cứ vào số lượng dân cư
sở, nên chăng căn cứ cả vào số lượng thôn xóm của xã để đảm bảo mỗi thôn xóm
sao cho ít nhất có 1 đại biểu đại diện cho mỗi thôn xóm tham gia HĐND. Đồng thời
nên có quy định về tỷ lệ giữa cán bộ người dân trong thành phần HĐND xã. Như
vậy số lượng đại biểu HĐND xã có thể tăng hơn so với hiện nay.
- Nâng cao chất lượng các kỳ họp HĐND, UBND, chủ tịch, phó chủ tịch UBND,
các đại biểu HĐND và thành viên của UBND:
Muốn đảm bảo chất lượng các kỳ họp HĐND, trước hết cần xác định quan điểm
hoạt động của HĐND, chủ yếu là thông qua các kỳ họp của HĐND. Vì vậy các kỳ họp
HĐND phải được họp đúng kỳ hạn theo luật định. Chuyên đề nội dung của kỳ họp phải
được chuẩn bị đầy đủ, đồng thời phải thông tin trước cho đại biểu HĐND nắm được nội
dung đó. Các nội dung của kỳ họp có liên quan đến việc cần phải xem ý kiến của dân
thì cũng phải được tiến hành lấy ý kiến cử tri thông qua hoạt động của HĐND và tiếp
xúc cử tri của đại biểu HĐND.
Các kỳ họp của HĐND ở cấp cơ sở hiện nay phổ biến là họp 1 ngày. Cho rằng
thời gian dài hay ngắn còn tuỳ thuộc vào nội dung. Song thiết nghĩ 6 tháng HĐND mới
tổ chức họp 1 lần để bàn và quyết định những vấn đề quan trọng về phát triển kinh tế -
xã hội ở địa phương. Vậy mà kỳ họp chỉ có 1 ngày hoặc ghép nhiều nội dung khác nhau
thì làm sao các đại biểu có thời gian để tham luận trình bày đầy đủ các quan điểm của
mình một cách dân chủ, thẳng thắn chính xác. Thời gian và nội dung của khọp
cũng góp phần quan trọng nâng cao chất lượng của kỳ họp HĐND. Nội dung kỳ họp
HĐND phải bám sát vào nhiệm vụ quyền hạn theo luật định và tình hình thực tế ở địa
phương. như vậy các chương trình, kế hoạch và Nghị quyết của HĐND mới bảo
đảm được thực hiện.
Việc ấn định số lượng đại biểu HĐND chỉ căn cứ vào dân số của xã nên ở những nơi có dân số ít nhưng lại nhiều xóm thôn thì một số xóm thôn lại không có đại biểu của mình tham gia HĐND. Mặt khác trong HĐND số lượng cán bộ xã chiếm tuyệt đại bộ phận, vì thế số đại biểu là dân chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Để có thể thực sự phát huy được vai trò đại diện cho ý chí nguyện vọng của người dân ở cơ sở, ngoài việc quy định số lượng đại biểu căn cứ vào số lượng dân cư ở cơ sở, nên chăng căn cứ cả vào số lượng thôn xóm của xã để đảm bảo mỗi thôn xóm sao cho ít nhất có 1 đại biểu đại diện cho mỗi thôn xóm tham gia HĐND. Đồng thời nên có quy định về tỷ lệ giữa cán bộ và người dân trong thành phần HĐND xã. Như vậy số lượng đại biểu HĐND xã có thể tăng hơn so với hiện nay. - Nâng cao chất lượng các kỳ họp HĐND, UBND, chủ tịch, phó chủ tịch UBND, các đại biểu HĐND và thành viên của UBND: Muốn đảm bảo chất lượng các kỳ họp HĐND, trước hết cần xác định quan điểm hoạt động của HĐND, chủ yếu là thông qua các kỳ họp của HĐND. Vì vậy các kỳ họp HĐND phải được họp đúng kỳ hạn theo luật định. Chuyên đề nội dung của kỳ họp phải được chuẩn bị đầy đủ, đồng thời phải thông tin trước cho đại biểu HĐND nắm được nội dung đó. Các nội dung của kỳ họp có liên quan đến việc cần phải xem ý kiến của dân thì cũng phải được tiến hành lấy ý kiến cử tri thông qua hoạt động của HĐND và tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND. Các kỳ họp của HĐND ở cấp cơ sở hiện nay phổ biến là họp 1 ngày. Cho rằng thời gian dài hay ngắn còn tuỳ thuộc vào nội dung. Song thiết nghĩ 6 tháng HĐND mới tổ chức họp 1 lần để bàn và quyết định những vấn đề quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Vậy mà kỳ họp chỉ có 1 ngày hoặc ghép nhiều nội dung khác nhau thì làm sao các đại biểu có thời gian để tham luận trình bày đầy đủ các quan điểm của mình một cách dân chủ, thẳng thắn và chính xác. Thời gian và nội dung của kỳ họp cũng góp phần quan trọng nâng cao chất lượng của kỳ họp HĐND. Nội dung kỳ họp HĐND phải bám sát vào nhiệm vụ quyền hạn theo luật định và tình hình thực tế ở địa phương. Có như vậy các chương trình, kế hoạch và Nghị quyết của HĐND mới bảo đảm được thực hiện.