Luận văn Thạc sĩ Luật học: Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã ở Thái Bìnhtrong điều kiện cải cách hành chính nhà nước
3,148
685
112
2.2.2.2. Thực trạng hoạt động của UBND
UBND theo luật hiện hành gồm từ 5 đến 7 thành viên phụ thuộc vào quy mô của
mỗi xã, trong đó có chủ tịch, 1 phó chủ tịch và từ 3 đến 5 uỷ viên. Việc phân
công
nhiệm vụ cho các thành viên UBND ở xã, phường có khác nhau, mỗi thành viên phụ
trách một hoặc một số lĩnh vực công tác chuyên môn, có nhiều nơi họ đồng thời là
các chức
danh chuyên môn của UBND.
Giúp việc UBND có các chức danh chuyên môn như tài chính, địa chính, văn
phòng, tư pháp, văn hoá thông tin, giao thông thuỷ lợi. Trong đó 4 chức danh
được
Chính phủ quy định theo Nghị định 09/CP sử dụng ổn định, phải được đào tạo và có
chế độ đãi ngộ gần như công chức, đó là các chức danh như: tài chính - kế toán,
văn
phòng, tư pháp, địa chính. Hiện nay việc bố trí các chức danh chuyên môn ở Thái
Bình
đang gặp một số khó khăn, đáng kể là đang thiếu rất nhiều những người đã qua đào
tạo
về chuyên môn nghiệp vụ, một số cán bộ cũ không thay thế được, một số khác lại
không được sử dụng ổn định, phải thay đổi theo nhiệm kỳ.
Theo luật hiện hành giúp việc UBND cấp xã có ban chuyên môn như ban quân
sự, ban công an (an ninh), ban kinh tế - kế hoạch, ban tài chính - ngân sách,
ban văn
hoá xã hội... Song trên thực tế đây không phải thực sự là các ban làm việc
chuyên môn,
mà chỉ là các ban phối hợp hoạt động hoặc phối hợp liên ngành. Có ban chỉ có 1
người
và có người tham gia vài ban khác nhau, có ban họp mỗi tháng 1 lần hoặc 2 lần,
có ban
vài tháng không họp. Công việc được thực hiện chủ yếu bởi các cán bộ chuyên môn.
Qua thực tế, về mặt tổ chức, UBND cấp xã đang bộc lộ những bất hợp lý sau:
UBND cấp xã về cơ bản chưa có bộ máy chuyên môn cần thiết để giúp UBND
thực thi các nhiệm vụ quản lý nhà nước và tổ chức thực hiện các Nghị quyết của
HĐND.
- Việc bố trí sử dụng các cán bộ chuyên môn còn nhiều tuỳ tiện, chưa dựa trên
những tiêu chuẩn, căn cứ khách quan, chưa thực sự xuất phát và đáp ứng theo yêu
cầu
nhiệm vụ.
Ranh giới công việc giữa uỷ viên UBND với các chức danh chuyên môn chưa
rõ, có uỷ viên được phân công phụ trách một số lĩnh vực công tác, có uỷ viên
trực tiếp
là một chức danh chuyên môn. Vai trò trách nhiệm của uỷ viên UBND nói chung
không được thể hiện cụ thể.
Việc quy định cứng nhắc mỗi xã đều có 4 chức danh chuyên môn chuyên trách
có phần chưa phù hợp với từng loại xã. Đối với những xã quy mô lớn (dân số vài
chục
ngàn người) thì số lượng trên là thiếu. Trong khi với những xã quy mô nhỏ thì
lại thừa.
Mặt khác trong thực tế các nhiệm vụ của UBND xã không phải có 4 chức danh chuyên
môn này mà còn một số chức danh khác không kém phần quan trọng vẫn phải có cán
bộ chuyên trách hoặc kiêm nhiệm. Lẽ ra lượng chức danh chuyên môn là tuỳ thuộc ở
quy mô, khối lượng tính chất từng nhiệm vụ và ở từng loại xã cũng như tuỳ thuộc
vào
trình độ năng lực cụ thể của cán bộ. Từ thực tế trên, nên chăng không nên ấn
định cứng
nhắc số chức danh và cán bộ chuyên môn cho tất cả các cơ sở mà Chính phủ nên quy
định
khung, việc bố trí cụ thể do cơ sở quyết định.
Đội ngũ cán bộ cấp xã ngày càng đông. Nếu tính tất cả những người có quan hệ
đến công việc chung của xã, thôn, được hưởng sinh hoạt phí hoặc các khoản phụ
cấp do
ngân sách chi trả thì bình quân 1 xã vào khoảng trên dưới 100 người, bao gồm cán
bộ
chủ chốt của Đảng, đoàn thể ở xã, đại biểu HĐND, thành viên UBND, các chức danh
chuyên môn của UBND, trưởng xóm, công an viên, bí thư chi bộ thôn xóm, giáo viên
mầm non, cán bộ y tế, bưu tá, cán bộ khuyến nông, giao thông thuỷ lợi, văn hoá
thông
tin... Một số xã, phường, thị trấn còn mở rộng phụ cấp cho tới uỷ viên thường vụ
các
đoàn thể ở xã và trưởng các đoàn thể ở thôn xóm. Như vậy nếu tính cả tỉnh với
285 đơn
vị cơ sở thì phải có tới khoảng 30.000 gọi là cán bộ xã, trong đó có 50% cán bộ
do
Chính phủ quy định, 50% cán bộ do các Bộ, ngành ở Trung ương và địa phương quy
định.
Hiện nay xu hướng tăng thêm cán bộ xã được hưởng các khoản phụ cấp ngày càng phổ
biến và đang là vấn đề đáng quan tâm.
Về hoạt động của UBND cấp xã: UBND cấp xã với 2 chức năng chủ yếu là cơ
quan chấp hành của HĐND và cơ quan hành chính nhà nước ở cơ sở.
Theo pháp luật hiện hành, UBND cấp xã phải thực hiện khoảng 74 nhiệm vụ cụ
thể khác nhau, trong đó có nhiệm vụ thuộc chức năng quản lý nhà nước được phân
cấp
hoặc được uỷ quyền, có những nhiệm vụ tổ chức thực hiện các Nghị quyết của HĐND
về phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân
địa
phương.
Từ thực tiễn hoạt động của UBND cấp xã ở Thái Bình hiện nay bên cạnh những
mặt tích cực, những kết quả và tiến bộ đã đạt được, đang bộc lộ những mặt hạn
chế,
thiếu sót nhược điểm chủ yếu sau:
- Hoạt động quản lý hành chính của UBND xã còn nhiều yếu kém tuỳ tiện, ở
một số nơi còn có biểu hiện chưa thực sự dựa theo pháp luật mà còn nặng về tập
quán,
thói quen, tình cảm đạo đức... Việc ban hành các quyết định, văn bản quản lý, áp
dụng
pháp lụât còn có nhiều sai sót, có khi không đúng thẩm quyền, thể thức, kể cả có
nơi
giải quyết một số vụ việc còn sai luật (quản lý đất đai, tài chính, xử lý vi
phạm...).
Việc tổ chức chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, giáo
dục, y tế, an ninh trật tự, thu chi ngân sách... còn nhiều lúng túng, tuỳ tiện;
năng lực,
tính chủ động trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ chưa cao, chưa thực hiện tốt chức
năng
là cơ quan chấp hành của HĐND.
Một số nơi UBND có xu hướng đẩy việc xuống cho trưởng xóm, thôn tự biến
thành cấp trung gian, làm cho các trưởng xóm phải làm quá sức, quá nhiều việc
vốn là
của UBND xã (thu thuế, tuyên truyền pháp lụât, văn hoá thông tin...).
2.2.2.3. Thực trạng giải quyết mối quan hệ giữa HĐND và UBND với Đảng
uỷ và các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện nhiệm vụ
- Mối quan hệ giữa HĐND và UBND:
Chính quyền cấp xã gồm HĐND và UBND. HĐND với tư cách là cơ quan đại
biểu của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương quyết định những vấn
đề
quan trọng nhất ở địa phương; UBND là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành
chính nhà nước ở cơ sở. Mối quan hệ giữa hai cơ quan này là mối quan hệ trong hệ
thống chính quyền cơ sở.
Thực hiện luật tổ chức HĐND và UBND sửa đổi năm 1994. Quan hệ giữa hai cơ
quan này ở Thái Bình nhìn chung tương đối tốt. Đã phối hợp chặt chẽ trong việc
thực
hiện Hiến pháp, pháp lụât của Nhà nước, các quyết định, Chỉ thị của cơ quan Nhà
nước
cấp trên. Nghiêm chỉnh chỉ đạo và thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế xã
hội, thu
chi ngân sách và giữ vững an ninh quốc phòng ở địa phương. HĐND xã có nhiều tiến
bộ trong việc giám sát kiểm tra đối với UBND trong việc thi hành Nghị quyết của
hội
đồng, góp ý kiến uốn nắn kịp thời trong công tác quản lý nhà nước ở địa phương.
UBND cấp xã thực hiện đầy đủ việc trình ra HĐND những vấn đề quan trọng của địa
phương theo lụât định để HĐND quyết định và tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh Nghị
quyết của HĐND. Giữa 2 kỳ họp có sự phối hợp trong việc đôn đốc tổ chức thực
hiện các
Nghị quyết đã được HĐND thông qua.
Điều thuận lợi nữa hiện nay ở Thái Bình, phần lớn bí thư Đảng uỷ kiêm chủ tịch
HĐND (79%) nên việc quyết đáp kiểm tra giám sát hoạt động UBND thuận lợi hơn, tổ
chức việc tiếp dân, đôn đốc kiểm tra, giải quyết các kiến nghị, khiếu nại tố cáo
của
nhân dân có tốt hơn. Tuy nhiên do kiêm nhiệm 2 nhiệm vụ nên công việc trực
thường
xuyên do phó chủ tịch HĐND đảm nhiệm nên đôi lúc giải quyết công việc thiếu kịp
thời. Mặt khác do cơ chế tài chính ngân sách, hoạt động của HĐND phụ thuộc vào
UBND nên cũng vì nể nang mà HĐND không cương quyết ngăn chặn một số việc làm
sai trái của UBND. Một điều nữa là do năng lực của một số đại biểu còn hạn chế
nên
không tập trung trí tuệ để ra Nghị quyết theo như mong muốn của cơ quan quyền
lực.
Vai trò hoạt động của HĐND có lúc còn hình thức. Nhiều cuộc họp sau khi UBND báo
cáo không có ý kiến phát biểu chất vấn.
- Mối quan hệ giữa chính quyền cấp xã với Đảng bộ cơ sở:
Đảng bộ cơ sở là hạt nhân lãnh đạo thực hiện đường lối chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước ở xã. Trong những năm qua Đảng bộ cơ sở, trực tiếp là
Đảng
uỷ luôn chăm lo củng cố phát huy vai trò quản lý điều hành của các bộ máy chính
quyền cấp xã.
Đảng bộ cơ sở đã bàn và ra những Nghị quyết về phương hướng nhiệm vụ phát
triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới, phát triển ngành nghề, xây dựng cơ sở hạ
tầng,
phát triển sự nghiệp văn hoá giáo dục, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân,
công
tác an ninh quốc phòng. Những Nghị quyết của Đảng bộ xã, phường, thị trấn đã
được
HĐND bàn bạc và cụ thể hoá thành Nghị quyết của chính quyền và biến thành kế
hoạch thực hiện của UBND xã. Đảng bộ luôn quan tâm chăm lo đào tạo đội ngũ cán
bộ,
chọn cử những đảng viên tốt sang công tác bên chính quyền. Đặc biệt là quan tâm
giáo
dục, vận động nhân dân và đảng viên thực hiện pháp luật, nhiệm vụ chính quyền đề
ra,
ở mỗi xóm đều có bí thư chi bộ lãnh đạo điều hành theo đường lối chung của Đảng
uỷ
xã. Tuy nhiên mối quan hệ, lề lối làm việc giữa Đảng, chính quyền nhiều nơi chưa
tách
bạch rõ ràng, còn biểu hiện lệch lạc, vừa bao biện làm thay, vừa có biểu hiện
buông
lỏng sự lãnh đạo hoặc có nơi Đảng uỷ chưa làm tốt công tác kiểm tra đảng viên để
dẫn
tới vi phạm kỷ lụât phải xử lý.
- Mối quan hệ giữa chính quyền cấp xã với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể ở
cấp xã:
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể cơ sở làm tốt chức năng tham gia xây dựng
củng cố và giám sát hoạt động của chính quyền. Định kỳ 3 tháng 1 lần các xã,
phường,
thị trấn đều tổ chức hội nghị liên tịch giữa HĐND, UBND và các đoàn thể để đánh
giá
tình hình chuẩn bị chương trình đưa ra HĐND bàn bạc góp ý kiến cho UBND trong
việc quản lý điều hành. Các đoàn thể đã làm tốt công tác tuyên truyền vận động
nhân
dân trong việc thực hiện Nghị quyết của Đảng uỷ và nhiệm vụ của chính quyền, vận
động nhân dân chấp hành tốt đường lối chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà
nước. Ngược lại UBND xã, phường, thị trấn tạo điều kiện cho các tổ chức đoàn thể
hoạt động như cơ sở vật chất, cấp kinh phí kịp thời... Tuy nhiên một số nơi
trong mối
quan hệ có biểu hiện ban ơn của chính quyền đối với đoàn thể, trong tư tưởng còn
có
nhận thức lệch lạc, chưa tạo điều kiện cho đoàn thể hoạt động tốt. Các phong
trào thì
cần có tiền mà kinh phí thì có hạn, nên hoạt động của đoàn thể cũng hạn chế, do
đó một
số đồng chí cấp uỷ được phân công phụ trách đoàn thể thiếu phấn khởi.
Đánh giá chung: Tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã ở Thái Bình trong
những năm qua có những thành tựu nổi bật đó là: Chất lượng hoạt động của HĐND có
tiến
bộ rõ rệt, nhất là từ khi triển khai quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn, chất
lượng các kỳ họp, chất lượng các Nghị quyết của HĐND được nâng lên và có tính
khả thi
hơn: HĐND đã bớt hành chính hoá các công việc của dân - việc xây dựng cơ sở hạ
tầng
nông thôn trước đây HĐND xã ra Nghị quyết thì nay đưa trả lại để dân bàn, dân
quyết định,
dân làm, dân giám sát, kiểm tra. Công tác giám sát hoạt động của UBND được tăng
cường,
coi trọng việc chất vấn, trả lời chất vấn trong các kỳ họp. Quan tâm đến việc
tiếp dân và giải
quyết khiếu nại tố cáo của dân: coi trọng việc tiếp xúc cử tri trước và sau kỳ
họp. Hiệu quả
hoạt động của HĐND đã có những chuyển biến tốt.
- UBND đã phát huy được vai trò là công cụ quản lý nhà nước trên tất cả các
lĩnh vực, chăm lo phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Từ
khi triển
khai Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, lề lối làm việc của UBND
xã và
tác phong làm việc của cán bộ chính quyền đã có những chuyển biến rõ rệt theo
hướng
dân chủ hoá, sát dân, sát thực tế, bước đầu khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng,
lãng phí,
quan liêu sách nhiễu dân của cán bộ cấp xã; trình độ mọi mặt của cán bộ được
nâng lên
một bước.
Bên cạnh những thành tựu nổi bật, tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã
còn bộc lộ những yếu kém và hạn chế nhất định:
- Trình độ kiến thức pháp luật, quản lý nhà nước của các đại biểu HĐND còn
hạn chế, phương tiện và điều kiện làm việc của HĐND chưa được quan tâm đúng mức.
- HĐND chưa thực sự trở thành cơ quan đại diện của nhân dân và là cơ quan quyền
lực
Nhà nước ở địa phương trong việc xem xét quyết định những vấn đề quan trọng về
kinh tế - xã
hội của xã, phường, thị trấn - chất lượng hoạt động chưa cao, còn mang nặng tính
hình thức; hiệu
quả giám sát còn hạn chế, việc giám sát của HĐND mới được thực hiện chủ yếu
thông qua các
kỳ họp. Hoạt động của đại biểu HĐND chỉ bó hẹp trong các cuộc tiếp xúc cử tri
trước và sau kỳ
họp HĐND.
- Lề lối làm việc của UBND còn mang nặng tính chất hành chính quan liêu,
không sát thực tế.
Vai trò trách nhiệm của các uỷ viên UBND chưa được khẳng định, không sâu sát
địa bàn dân cư, chưa thể hiện và phát huy vai trò cá nhân trong hoạt động chung
của
UBND.
- Quản lý lãnh thổ, quản lý đất đai và vốn đầu tư cho các công trình chưa chặt
chẽ, tình trạng lãng phí, cấp đất, bán đất trái phép, không đúng thẩm quyền xảy
ra phổ
biến.
- Quản lý khai sinh, khai tử, kết hôn, chứng nhận lý lịch còn lỏng lẻo.
Quản lý tài chính còn tuỳ tiện, không tuân thủ đúng quy định của Nhà nước.
Trong quản lý điều hành ít dựa vào luật pháp, mà chủ yếu là thực hiện nhiệm vụ
chỉ thị của cấp trên, giải quyết công việc theo ý muốn chủ quan.
- Công tác tiếp dân còn mang tính hình thức, kém hiệu quả, lãnh đạo còn né
tránh đùn đẩy khi tiếp xúc với những vụ khiếu nại phức tạp.
- Đội ngũ cán bộ cấp xã đông nhưng không mạnh, chất lượng hoạt động, hiệu
lực hiệu quả quản lý thấp.
2.2.3. Nguyên nhân của thực trạng trên
Tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã ở Thái Bình có những thành tựu
nổi bật, nguyên nhân dẫn đến những kết quả đáng khích lệ đó thể hiện trên những
điểm
sau:
- Do nhận thức được vị trí vai trò của chính quyền cấp xã là một tế bào quan
trọng cấu thành đất nước, là nơi tổ chức thực hiện thắng lợi mọi chủ trương
đường lối
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
- Các cấp uỷ Đảng Thái Bình từ tỉnh đến cơ sở quan tâm lãnh đạo việc đổi mới
tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã. Coi trọng bố trí trong bộ máy chính
quyền cấp xã hoạt động có hiệu quả. Đảng bộ cơ sở đã thường xuyên kiểm tra giúp
chính quyền trong việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn, chăm lo bồi dưỡng cán bộ
công
tác chính quyền.
- Phong trào xây dựng chính quyền cấp xã vững mạnh được cấp uỷ Đảng cơ sở
trực tiếp lãnh đạo gắn với việc xây dựng Đảng bộ vững mạnh và được Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể tham gia tích cực.
- Trong điều kiện nền kinh tế chưa phát triển, chính quyền cấp xã đã có những
biện pháp tích cực bảo đảm ngân sách vật tư, tiền vốn xây dựng kết cấu hạ tầng.
Trong
điều hành quản lý kinh tế có nhiều tiến bộ, kịp thời thể chế hoá các Nghị quyết
của
Đảng, tạo điều kiện cho đoàn thể hoạt động; mối quan hệ giữa chính quyền và đoàn
thể
được giữ vững, đó là điều kiện để chính quyền hoàn thành nhiệm vụ.
- Bản thân đội ngũ cán bộ cấp xã đã có nhiều cố gắng rèn luyện tu dưỡng, nâng
cao trình độ mọi mặt, củng cố đoàn kết, khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ.
- Hoạt động của chính quyền cấp xã đã đi vào nề nếp hơn.
- Tổ chức xóm từng bước được củng cố hoàn thiện, tuy không phải là cấp hành
chính, không có chính quyền nhưng thực sự là cánh tay vươn dài của UBND xã đến
nhân dân, giúp chính quyền rất nhiều việc.
Tuy nhiên cũng như tình hình chung trong cả nước, tổ chức hoạt động của chính
quyền cấp xã ở Thái Bình vẫn còn nhiều yếu kém khuyết điểm mà nguyên nhân của
tình hình đó là:
- ở những nơi chính quyền yếu kém trước hết là Đảng bộ ở đó chưa được củng
cố, và cũng là Đảng bộ yếu kém, ở đây thường xảy ra mất đoàn kết, bè phái cục
bộ, chỉ
lo đối phó nhau, ít lo lắng đến việc chung.
- Việc nhận thức về vị trí vai trò, nhiệm vụ của bộ máy chính quyền còn chưa đủ
rõ, chưa đạt tới sự thống nhất cao. Chẳng hạn quan niệm xã là cấp chính quyền
nhà
nước hay cấp tự quản của cộng đồng. Do chưa thống nhất trong nhận thức về vị trí
vai
trò của cấp xã, nên hiện đang còn tồn tại nhiều quan điểm rất khác nhau về xây
dựng
kiện toàn đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị cơ sở nói chung và chính quyền
cấp xã
nói riêng. Điều đó được thể hiện trực tiếp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo cụ
thể.
- Những năm gần đây mặc dù Đảng, Nhà nước ta đã có một số chủ trương giải
pháp tích cực để củng cố kiện toàn cán bộ cấp xã, nhưng các giải pháp còn tính
chắp
vá, xử lý tình thế thiếu tính tổng thể đồng bộ lâu dài. Cụ thể chưa có một chiến
lược
quy hoạch, xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã đáp ứng yêu cầu đổi mới.
- Chưa chủ động, tích cực làm công tác chuẩn bị nguồn cho cán bộ cấp xã mà
chủ yếu còn mang tính chất tự phát ngẫu nhiên.
- Chưa xác định được rõ những yêu cầu tiêu chuẩn cụ thể cho từng loại cán bộ xã
nên việc bố trí sử dụng còn tuỳ tiện, thiếu ổn định, thiếu nhất quán.
- Cấp trên trực tiếp là UBND huyện, thị xã thiếu quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ kiểm
tra uốn nắn, từ đó dẫn đến một số cán bộ vi phạm pháp luật, cửa quyền, tham
nhũng
quan liêu, trù dập ức hiếp quần chúng. Một số vụ việc tranh chấp về ruộng đất
của nông
dân, tỉnh, huyện không có kế hoạch chỉ đạo giải quyết dứt điểm, còn đùn đẩy kéo
dài,
làm cho tình hình ngày càng phức tạp.
- Chưa phân cấp phân quyền cho chính quyền cấp xã một cách rành mạch rõ
ràng giữa huyện và xã; cơ sở như các túi đựng, phải làm rất nhiều việc, nhưng
điều kiện
làm việc thiếu thốn, thiếu thông tin, phương tiện nghèo nàn lạc hậu, cán bộ đào
tạo
thiếu cơ bản dẫn đến hoạt động của cơ sở ở một số nơi kém hiệu lực, thậm chí sai
lầm
cũng là điều khó tránh khỏi.
- Cán bộ cấp cơ sở do cơ chế bầu cử mà hình thành, sau mỗi nhiệm kỳ hoạt động
nếu không trúng cử lại trở về lao động sản xuất, gây cho cán bộ tâm lý coi công
tác xã
là hoạt động nghiệp dư.
Cán bộ xã chưa được quy định là công chức, nguyên nhân này tác động đến tư
tưởng nhận thức của cán bộ xã, đa số không quyết tâm học tập phấn đấu vươn lên,
số
tốt nghiệp các hệ đào tạo thuộc tầng lớp trẻ tuổi không muốn về công tác ở xã.
- Về chính sách đối với cán bộ cấp xã nhìn chung chưa thoả đáng. Chính phủ có
Nghị định 09/CP tăng phụ cấp sinh hoạt phí cho cán bộ cấp xã, song vẫn chưa đồng
bộ,
chưa cơ bản và chưa thật sự đáp ứng yêu cầu đối với cán bộ cấp cơ sở.
- Tác động của nền kinh tế thị trường cũng ảnh hưởng lớn đến tâm tư tình cảm,
đời sống cán bộ. Nhiều người có vốn, có năng lực, kinh nghiệm không thích tham
gia
vào công tác chính quyền mà thích đi vào con đường sản xuất kinh doanh, quan tâm
nhiều hơn đến lợi ích kinh tế cuối cùng, mục tiêu lý tưởng bị phai nhạt.
Chính vì vậy xây dựng chính quyền cấp xã và việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của chính quyền cấp xã ở Thái Bình nói riêng và cả nước nói chung có ý nghĩa
sống
còn đối với sự nghiệp cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay.