Luận văn Thạc sĩ Luật học: Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã ở Thái Bìnhtrong điều kiện cải cách hành chính nhà nước
3,159
685
112
(1991-1996) với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, toàn tỉnh đã huy
động trên 1.300 tỷ đồng, làm 5000 km đường nông thôn, trong đó có hơn 3000 km
đường láng nhựa, làm mới 131 cầu dài 1.650m, trọng tải 10-13 tấn. Đường từ tỉnh
đến huyện, đến 285 xã đã thông xe ô tô từ 5-10 tấn. Hầu hết đường làng, ngõ xóm
đều được lát gạch và vật liệu cứng. Tất cả các xóm có điện với 99% số hộ sử dụng
điện; 60% trường học và hầu hết các trạm xá xây dựng kiên cố. 100% xã có điện
thoại; trên 60% số hộ dùng nước sạch. Từ bài ca 5 tấn trong chống Mỹ, nay Thái
Bình thường xuyên đạt năng suất lúa 11-12 tấn/ha. 5 năm qua tổng sản lượng lương
thực đạt trên 600 kg/người/năm.
Thái Bình từng là một tỉnh có nạn đói điển hình, đến nay mỗi năm có từ 30-40
vạn tấn lương thực hàng hóa.
Nhiều công trình cơ bản lớn ở Thái Bình đã được hoàn thành như cầu Thái Bình,
cầu Triều Dương, cảng Diêm Điền, cống Lân 2, nhà văn hoá công nhân, nâng cấp sửa
mới các tuyến đường quốc lộ, tỉnh lộ, cầu Tân Đệ đang thi công và khánh thành
vào
đầu năm 2002...
Có thể nói nông thôn Thái Bình - một vùng quê lúa, một thời không xa còn phổ
biến là "đèn dầu, mái rạ, đường lầy", thế mà đến nay có sự thay đổi rất to lớn.
Đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt. Bất cứ ai đến Thái Bình
ở mọi
vùng quê trong tỉnh đều có chung đánh giá về những thành tựu rất to lớn và nổi
bật. Đã
có người nói cuộc đổi đời thứ 2, gọi Thái Bình là hình ảnh của nông thôn mới xã
hội
chủ nghĩa.
Vậy mà nông thôn Thái Bình cũng như nông thôn ở nhiều nơi không yên bình.
Từ tháng 5/1997 đến vừa qua, Thái Bình lại được cả nước biết đến như là một tỉnh
có
tình hình phức tạp nhất. Việc khiếu kiện đông người từ 1 xã đã mau chóng lan ra
cả
huyện và tỉnh. Có điểm nóng gay gắt dữ dội. Khởi nguồn từ bà con nông dân của 1
xóm, xã đã tổ chức thành từng đoàn đông người lên xã, lên huyện, lên tỉnh đòi
dân chủ
công khai, công bằng về phân chia quyền sử dụng đất, về thu chi vốn quỹ hợp tác
xã,
ngân sách xã, về thanh toán chi phí xây dựng đường giao thông, trường học, trạm
xá...
Sự việc này nhen nhóm từ năm 1994, 1995 và bùng ra vào tháng 10/1996, lan rộng
và
gay gắt từ tháng 5/1997 cho tới tháng 12/1997. Tính đến tháng 12/1997 cả 8/8
huyện,
thị xã của tỉnh đều có khiếu kiện tập thể đông người (trong đó huyện Quỳnh Phụ
36/38
xã; huyện Thái Thụy 46/48 xã; Đông Hưng 41/46 xã; Tiền Hải 32/35 xã; Kiến Xương
31/40 xã; Hưng Hà 16/34 xã; Vũ Thư 29/31 xã; Thị xã 2/13 xã, phường... Toàn tỉnh
lúc
này có 233/285 xã phường có vấn đề, chiếm 80% [69, tr.5].
Sự việc bắt đầu từ yêu cầu chính quyền thôn xã giải quyết khiếu kiện, kiện
lên huyện, tỉnh và Trung ương, từ vài người đi khiếu kiện đến hàng chục, hàng
trăm,
nghìn người; từ đề đạt nguyện vọng yêu cầu giải quyết đến dùng áp lực đông người
buộc chính quyền làm theo ý mình; từ yêu cầu thanh tra Nhà nước giải quyết đến
thành lập ban thanh tra nhân dân tự giải quyết, từ tuân thủ pháp luật đến vi
phạm
pháp lụât: đập phá công sở, hành hung lực lượng công an, cán bộ kiểm soát từ
ngày
9 đến ngày 11/5/1997 tại thị trấn Quỳnh Phụ; bắt giữ 23 cán bộ và công an huyện
Quỳnh Phụ, công an tỉnh từ ngày 12 đến ngày 16/11/1997 tại xã Quỳnh Hoa, huyện
Quỳnh Phụ; từ bột phát từng nơi đến có sự phối hợp giữa các thôn, các xã; từ yêu
cầu về lợi ích kinh tế, có nơi đã mang màu sắc chính trị...
Một vấn đề lớn được đặt ra: tại sao một tỉnh có truyền thống, có phong trào về
nhiều mặt, đạt được những kết quả và thành tựu to lớn, tình hình lại diễn ra
phức tạp
như vậy ? Câu hỏi này không chỉ của Thái Bình. Đó cũng là bức xúc của nhiều địa
phương, là mối quan tâm sâu sắc của Trung ương và của cả nước.
Trước hết là do vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc chế độ chính sách, buông
lỏng quản lý kinh tế, gây thất thoát ngân sách xã, hợp tác xã, tiền của đóng góp
của nhân
dân. Một bộ phận cán bộ từ tỉnh đến cơ sở tham nhũng, thoái hoá biến chất. Thêm
vào đó
là tư tưởng chủ quan, nóng vội, huy động quá sức dân: người nông dân Thái Bình
phải
đóng góp quá sức dân, với bình quân ruộng đất 1 người/sào, mỗi ngày công lấy sản
phẩm
từ 1m
2
đất mà phải nộp đến 20-30 khoản thu các loại bằng 1/4 - 1/3 sản lượng (xem phụ
lục 2, 3, 4).
Nhưng quan trọng và sâu xa là những nguyên nhân về vi phạm dân chủ, tác
phong quan liêu độc đoán xa rời cơ sở và mất dân chủ với nhân dân của một bộ
phận có
chức, có quyền, không chấp hành nghiêm một số chủ trương chính sách, lỏng lẻo
trong
chấp hành kỷ luật của Đảng và pháp lụât của Nhà nước.
Chính quyền một số nơi lạm dụng biện pháp xử phạt hành chính, cưỡng chế, phụ
thu tuỳ tiện. Nhiều việc làm lớn liên quan trực tiếp đến dân, tiền của nhân dân
đóng góp
đã không được bàn bạc dân chủ, thanh quyết toán kịp thời và báo cáo công khai
với
nhân dân.
Nếu nghiên cứu tình hình cả tỉnh hoặc từng huyện cũng như xem xét kết luận
thanh tra ở mỗi xã có sai phạm cũng đều có cả 2 loại nguyên nhân trên.
Nhưng nếu xem xét sâu hơn cho thấy: thanh tra 242 trên tổng số 282 xã,
phường, thị trấn tập trung vào 4 nội dung cơ bản: đất đai, ngân sách xã và hợp
tác xã,
xây dựng cơ bản, chính sách xã hội đã kết luận 242 xã, tổng số tiền do sai phạm
phải
thu hồi là 46.087 triệu đồng. Tính bình quân 190 triệu đồng/xã. Số sai phạm về
trách
nhiệm phải xử lý là 34.547 triệu đồng, chiếm gần 3/4 tổng số sai phạm. Số tiền
tham ô
cá nhân phải thu hồi là 11.540 triệu đồng, chiếm gần 1/4 tổng số sai phạm [19,
tr.3].
Nếu so với tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản là 1.300 tỷ đồng thì chỉ là một tỷ
lệ
nhỏ, nhưng vấn đề lại không chỉ đơn giản như vậy.
Thực tế là rất nhiều xã, theo kết luận thanh tra sai phạm không lớn nhưng giải
quyết lại rất khó khăn. Một số xã tuy sai phạm lớn hơn, tiền của thất thoát
nhiều hơn,
nhưng nếu kết luận thẳng thắn, báo cáo rõ ràng, nhận lỗi thành khẩn, không quanh
co
đã được đông đảo nhân dân và đảng viên đồng tình, thậm chí còn cho miễn trách
nhiệm
bồi hoàn, tình hình nhanh chóng ổn định.
Căn cứ vào những số liệu nêu trên, nếu lại đem so sánh với những vụ án lớn đã
được phanh phui gần đây thiệt hại không bằng, nhưng trong điều kiện một tỉnh
nông
nghiệp như Thái Bình, với người nông dân, số tiền ấy được tính bằng bao nhiêu
tấn
thóc, phải đổ bao nhiêu mồ hôi công sức mới có được thì sự tham ô lãng phí đó đã
trực
tiếp ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân với Đảng và chính quyền.
Từ thực tiễn trên, nhiệm vụ đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân Thái Bình là phải
sớm ổn định tình hình để phát triển kinh tế - xã hội, mục tiêu đặt ra trong năm
1998
phải ổn định được tình hình, giải quyết nghiêm túc có lý, có tình các vấn đề
khiếu kiện
chính đáng của nhân dân. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về mọi mặt; củng
cố
kiện toàn các tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể nhân dân; sắp xếp lại một
bước
đội ngũ cán bộ. Tập trung sức đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế
-
xã hội để không tụt hậu so với các tỉnh trong khu vực; từng bước nâng cao đời
sống
vật chất và tinh thần cho nhân dân; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội
[57, tr.15].
Để thực hiện mục tiêu trên, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh đã tập trung lãnh đạo,
chỉ đạo thực hiện một số chủ trương giải pháp chủ yếu. Việc thực hiện các giải
pháp đó
chính là yêu cầu bức xúc đổi mới tổ chức hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở
nói
chung và chính quyền cấp xã nói riêng.
Ngày 4/7/1998 sau nửa năm thực hiện Nghị quyết 06 của Ban chấp hành Đảng
bộ tỉnh, đã sơ kết công tác đó về những giải pháp nêu trên nhằm ổn định tình
hình trong
tỉnh cho thấy:
"Do được sự chỉ đạo của Bộ chính trị, Chính phủ, sự giúp đỡ của các Bộ, ban
ngành Trung ương, trực tiếp là tổ công tác của Bộ chính trị cộng với sự nỗ lực
của các
cấp, các ngành trong tỉnh đã tạo được những chuyển biến rất tích cực, góp phần
ổn định
tình hình. Việc khiếu kiện của nhân dân đang từng bước được xem xét giải quyết,
tổ
chức Đảng từng bước được củng cố. `Tình hình chung đã và đang đi vào thế ổn
định"
(báo cáo sơ kết việc triển khai tổ chức Nghị quyết 06 - số 55/BC-TU ngày
4/7/1998).
Với đặc điểm tình hình trên, việc đổi mới tổ chức, hoạt động của hệ thống chính
trị ở cơ sở nói chung và chính quyền cấp xã nói riêng là cần thiết, cấp bách.
2.2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã tỉnh Thái
Bình
2.2.1. Thực trạng về tổ chức
2.2.1.1. Thực trạng về tổ chức bộ máy chính quyền cấp xã tỉnh Thái Bình
hiện nay
Thái Bình có 7 huyện, 1 thị xã, được chia thành 285 đơn vị hành chính cấp cơ
sở. Bao gồm 272 xã; 6 phường và 7 thị trấn.
Phần lớn các xã trong tỉnh đều có trên 10 ngàn dân. Toàn tỉnh có 2710 xóm.
Chính quyền cấp xã của tỉnh được tổ chức lại nhiều lần theo sự thay đổi của luật
tổ chức HĐND và UBND và những quyết định của Chính phủ để phù hợp với mỗi giai
đoạn phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương và phù hợp với cơ chế quản lý kinh
tế, đặc
biệt là thay đổi cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp, giữ vai trò chi phối
rất nhiều
đến tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp cơ sở.
Từ sau đại hội VII của Đảng và đại hội lần thứ XIV của Tỉnh Đảng bộ Thái Bình
(1991) với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo
cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền
kinh tế nông nghiệp của Thái Bình có sự chuyển biến rõ rệt, thực hiện giao đất
cho
người nông dân, lấy hộ gia đình làm đơn vị sản xuất cơ bản, sức lao động được
giải
phóng. Bộ máy quản lý hợp tác xã chỉ làm khâu dịch vụ đầu vào như cung ứng tư
liệu
sản xuất, phân bón, giống cây trồng, vật nuôi, thuốc trừ sâu, thuỷ nông và dịch
vụ đầu
ra như chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Việc lựa chọn cơ cấu sản xuất là do hộ gia
đình
quyết định. Đây cũng là thời kỳ mà nhiều tiêu cực của những năm trước trong ban
quản
lý hợp tác xã được bộc lộ như trình độ quản lý yếu kém, chi xuất sử dụng công
quỹ
không rõ ràng, không công khai, tham nhũng... Phân chia đất đai không hợp lý,
đổi
ruộng xấu, ruộng xa lấy ruộng tốt, ruộng gần. Quỹ đất dự phòng để lại sử dụng
cho
mục đích công ích của xã quá quy định của pháp luật từ 2-12%. Đất bình quân chia
cho
hộ nông dân thấp. Tình trạng tranh chấp đất đai diễn ra gay gắt, nhiều nơi và
nhiều vụ
việc rất khó giải quyết. Thời kỳ này bộ máy của xã được tổ chức sắp xếp lại cho
phù
hợp theo hướng tăng cường chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, xoá bỏ
việc
can thiệp cụ thể vào khâu điều hành sản xuất kinh doanh. Mô hình xóm được củng
cố,
trưởng xóm được xã uỷ quyền làm một số nhiệm vụ như thu thuế nông nghiệp, thuế
sát
sinh, thu các khoản lệ phí do cấp trên quy định, thu các khoản đóng góp làm
đường
giao thông. Xóm thực sự là cánh tay vươn dài của UBND xã, tiếp cận với người dân
trong việc thay mặt chính quyền xã làm công tác an ninh trật tự, hoà giải các
tranh chấp
dân sự, hôn nhân gia đình, đôn đốc các phong trào, phổ biến đường lối chính sách
pháp luật,
giữ mối liên hệ với các chi đoàn, chi hội quần chúng.
Nghị định 46/CP của Chính phủ quy định tuỳ theo quy mô dân số để bố trí số
lượng cán bộ Đảng, HĐND, UBND (từ 8 đến 11 người). Theo quy định này số lượng
cán bộ xã ở Thái Bình giảm 50% so với trước đây, giảm chi khá lớn đối với ngân
sách xã.
Theo Nghị định này, sinh hoạt phí đối với cán bộ xã chỉ có 3 mức: Bí thư Đảng uỷ
và chủ
tịch UBND mức 160.000đ/tháng; phó bí thư, phó chủ tịch UBND mức 140.000đ/tháng;
các chức danh khác 120.000đ/tháng. Cán bộ nghỉ công tác hưởng trợ cấp hàng tháng
trước đây, nay chỉ có 2 mức phụ cấp: Bí thư, chủ tịch UBND 40.000đ/tháng; các
chức
danh khác 30.000đ/tháng. Nghị định 40/CPcủa Chính phủ quy định như vậy là chưa
sát
thực tế, mức phụ cấp quá thấp, không tương xứng nhiệm vụ.
Nghị định quy định cán bộ xã thuộc các đối tượng theo quy định khi nghỉ việc
chỉ được xét hưởng chế độ trợ cấp 1 lần nếu có thời gian công tác ở xã liên tục
từ 10
năm trở lên và không bị kỷ luật từ cảnh cáo trở lên, không còn chế độ trợ cấp
hàng
tháng như trước đây nữa.
Những quy định trên đây tác động rất lớn đến tâm tư tình cảm của cán bộ cấp xã
Thái Bình. Họ mặc cảm, cho rằng bị phân biệt đối xử không được bình đẳng như cán
bộ cấp tỉnh, cấp huyện. Chính những quy định chưa sát hợp đó làm cho Nghị định
có
tính khả thi thấp, việc tổ chức triển khai thực hiện gặp nhiều vướng mắc, khó
khăn,
kém hiệu quả. Đây cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra sự thiếu
yên tâm, kém phấn khởi công tác đối với cán bộ xã. Là nguyên cớ để nhiều cán bộ
xã
kém phẩn chất, lợi dụng chức quyền, lợi dụng cơ chế thị trường để trục lợi cá
nhân.
Những cán bộ xã liêm khiết mà nghỉ công tác trong giai đoạn này thì chịu thiệt
thòi về
chế độ. Vì vậy sau 2 năm ban hành, thấy được sự bức xúc từ thực tế khách quan,
Chỉnh
phủ đã ban hành Nghị định 50/CP ngày 26/7/1995 để thay thế Nghị định 46/CP.
Nghị định 50/CP của Chính phủ ban hành nhằm từng bước thực hiện Nghị quyết TW
8 khoá VII: kiện toàn chính quyền cấp xã, giải quyết vấn đề ngân sách và từng
bước chuyên
nghiệp hoá một số vị trí công tác ở xã. Đồng thời cải thiện một bước đời sống
cán bộ xã phù
hợp với điều kiện kinh tế đất nước.
Về số lượng và đối tượng cán bộ xã hưởng sinh hoạt phí được tăng thêm so với
Nghị định 46/CP (từ 17 - 25 cán bộ Đảng, chính quyền, quy định rõ 4 cán bộ
chuyên
môn của UBND và cấp trưởng của 5 đoàn thể). Quy định này phù hợp với thực tế hơn
so với Nghị định 46/CP.
Về chế độ sinh hoạt phí được phân thành 4 mức theo các chức danh cán bộ và đã
được nâng cao hơn so với trước. Cán bộ xã được hưởng phụ cấp tái cử cùng một
chức
vụ sau 5 năm công tác. Tuy các quy định này đã thể hiện sự cải tiến một bước so
với
Nghị định 46/CP, song mức sinh hoạt phí so với mặt bằng chung thì vẫn còn thấp,
chưa
đáp ứng nguyện vọng cán bộ xã, chế độ phụ cấp tái cử quy định "cứng" hơn so với
chế
độ tái cử ở các cấp khác.
Cán bộ y tế cùng với trạm y tế xã vốn trước đây được coi là một bộ phận không
thể tách rời của cấp cơ sở, chịu sự lãnh đạo của Đảng uỷ, UBND cùng cấp. Khi có
thông tư 97/TTLB/TCCB CP-TC hướng dẫn thực hiện Nghị định 50/CP thì cán bộ
chuyên môn y tế, mầm non, thuế công tác tại xã không thuộc đối tượng điều chỉnh
của
Nghị định 50/CP, y tế xã phải chịu sự quản lý song trùng mà thực chất đang rơi
vào
tình cảnh chung chiêng của sự quản lý giữa ngành và cấp; giữa trung tâm y tế cấp
huyện (quản lý về cơ sở vật chất, nhân sự, tiền lương và chuyên môn) và UBND cấp
xã
(quản lý về kế hoạch). Vấn đề giáo viên mầm non ở xã còn nhiều tồn tại bất cập.
Cùng
là giáo viên, cùng số giờ lên lớp và cùng trình độ nhưng chế độ giáo viên mầm
non ở
phường (đô thị) khác ở khu vực xã (nông thôn).
Tương tự như Nghị định 46/CP, Nghị định 50/CP quy định chế độ sinh hoạt phí
của cán bộ xã đương chức, trợ cấp hàng tháng của cán bộ xã nghỉ chế độ theo
Quyết
định 130/CP và Quyết định 111/HĐBT do ngân sách xã chi trả, nếu thiếu thì ngân
sách
cấp trên hỗ trợ. Cán bộ xã thuộc diện đối tượng được Nhà nước quy định nếu có ít
nhất
5 năm công tác liên tục và không bị kỷ luật từ hình thức cảnh cáo trở lên, khi
nghỉ công
tác cũng chỉ được xét trợ cấp 1 lần, không hưởng trợ cấp hàng tháng. Đây cũng
chính là
2 vấn đề tồn tại đáng quan tâm tháo gỡ.
Thứ nhất, ngân sách cấp xã không tự cân đối được. Mặt khác cấp huyện và tỉnh
cũng chưa đủ khả năng cân đối được ngân sách dẫn đến tình trạng nợ đọng sinh
hoạt
phí và trợ cấp hàng tháng đối với cán bộ xã ở nhiều nơi trong tỉnh, gây tác động
thiếu
an tâm công tác đối với cán bộ xã. Dẫn đến tình trạng có xu hướng đùn đẩy việc
của cán bộ
xã cho xóm, tổ dân phố làm.
Thứ hai, chủ trương của Chính phủ không quy định chế độ "già yếu nghỉ việc"
được hưởng trợ cấp hàng tháng như trước khi thi hành Nghị định 46/CP. Đối với
cán bộ
xã thuộc các đối tượng theo quy định của Nhà nước khi nghỉ việc chỉ được hưởng
chế
độ trợ cấp 1 lần, nhằm tạo khả năng tự điều tiết đối với ngân sách xã. Giảm bớt
đối
tượng cán bộ hưởng trợ cấp thường xuyên khi nghỉ việc, bớt gánh nặng đối với
ngân
sách xã. Song với quy định này, cán bộ xã cho rằng họ chưa được hưởng sự công
bằng
về chế độ chính sách như cán bộ các cấp khác, tâm lý thiếu phấn khởi khi đương
chức
cũng như khi nghỉ công tác. Mặt khác chế độ như vậy cũng là một trở lực, không
tạo
được sức cuốn hút đối với tầng lớp trẻ được đào tạo chính quy, có trình độ
chuyên môn
tham gia công tác và gắn bó với cấp cơ sở, nhất là ở nông thôn, xu hướng thoát
ly địa
phương khá phổ biến.
Có thể nhận thấy chủ trương của Chính phủ trong quá trình ban hành 2 Nghị
định 46/CP và 50/CP nhằm tinh giảm, gọn nhẹ bộ máy cấp xã và tiết kiệm chi ngân
sách đối với cấp xã là hết sức rõ ràng. Nhưng thắt chặt cả về biên chế cán bộ,
về mức
sinh hoạt phí và chế độ chính sách là chưa phù hợp với thực tiễn và đặc thù của
nước
ta; chưa thấy được vai trò quan trọng và to lớn của cán bộ cấp cơ sở. Việc hoạch
định
chế độ chính sách đối với cán bộ xã thiếu tính toàn diện và sự nghiên cứu đồng
bộ nên
các chế độ chính sách ban hành chưa có tính khả thi cao, thiếu sự ổn định, chưa
tương
xứng với vai trò to lớn của cấp cơ sở. Chính phủ đã điều chỉnh và sửa đổi theo
Nghị
định 09/CP ngày 23/1/1998. Nghị định 09/CP/1998 quy định chế độ sinh hoạt phí
đối
với cán bộ xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) như sau:
"- Xã dưới 10 ngàn dân có từ 17 đến 19 cán bộ
- Xã từ 10 ngàn đến 20 ngàn dân có từ 19 đến 21 cán bộ
- Xã trên 20 ngàn dân, cứ thêm 3000 dân thêm 1 cán bộ, tối đa không quá 25 cán
bộ". Chính phủ đã giao cho UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ quy
định nói trên và đặc điểm tình hình, điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi địa
phương để
quy định cán bộ cụ thể phù hợp với từng loại xã, trong đó có 4 chức danh chuyên
môn:
Địa chính, tư pháp, tài chính - kế toán, văn phòng UBND xã.
Thực hiện chủ trương trên, ngày 26/10/1998, UBND tỉnh Thái Bình đã có quyết
định số 607/1998/QĐ-UB bố trí cán bộ và chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã,
phường, thị trấn của tỉnh như sau:
Xã dưới 10 ngàn dân bố trí 19 cán bộ gồm:
1- Bí thư Đảng uỷ kiêm chủ tịch HĐND xã
2- Phó bí thư Đảng uỷ xã
3- Phó chủ tịch HĐND xã
4- Chủ tịch UBND xã
5- Phó chủ tịch UBND xã phụ trách khối nội chính trực tiếp làm trưởng công an
và phụ trách công tác tư pháp.
6- Uỷ viên UBND xã phụ trách khối văn hoá xã hội trực tiếp làm cán bộ văn hóa
thông tin, thể thao.
7- Uỷ viên UBND xã phụ trách quân sự, trực tiếp làm xã đội trưởng.
8- Uỷ viên UBND xã phụ trách tài chính, trực tiếp làm trưởng ban tài chính.
9- Uỷ viên UBND xã làm công tác lao động, thương binh xã hội và bảo hiểm xã
hội.
10- Uỷ viên UBND xã làm phó công an xã.
11- Cán bộ địa chính (chuyên môn) và công tác giao thông thuỷ lợi, xây dựng cơ
bản, thủ công nghiệp, điện lực.
12- Cán bộ tài chính - kế toán (chuyên môn)
13- Cán bộ tư pháp, hộ tịch (chuyên môn)
14- Cán bộ văn phòng Đảng uỷ, văn phòng HĐND, UBND và thống kê tổng hợp
(chuyên môn).
15- Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã
16- Chủ tịch hội phụ nữ xã
17- Chủ tịch hội nông dân xã
18- Chủ tịch hội cựu chiến binh xã
19- Bí thư đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.
Xã có từ 10 ngàn dân trở lên... có thêm 2 cán bộ: 1 cán bộ làm công tác thông
tin, văn hoá, thể thao; 1 cán bộ làm công tác giao thông thuỷ lợi, xây dựng cơ
bản, điện
lực, thủ công nghiệp.
Quyết định trên cũng quy định 19 chức danh cán bộ phường với những phường
dưới 10 ngàn dân và 21 chức danh với phường trên 10 ngàn dân.
Cơ chế tổ chức bộ máy của xã như trên có ưu điểm là đã bỏ được cấp trung gian
là các ban chuyên môn, các thành viên UBND xã trực tiếp phụ trách giải quyết
công
việc với xóm trưởng và người dân. Do sát dân, gần dân nên công việc nhanh nhạy,
hiệu
lực hiệu quả rõ hơn, giảm bớt quan liêu xa rời quần chúng. Do tổ chức xóm được
củng
cố, xóm trưởng giúp UBND xã giải quyết một số công việc hành chính, vừa quy tụ
được các chi hội đoàn thể quần chúng, tạo ra sức tổng hợp khi đưa các chủ trương
chính sách vào quần chúng.
- Mức sinh hoạt phí của cán bộ xã và mức trợ cấp hàng tháng đối với cán bộ xã
đã nghỉ việc theo quyết định 130/CP và quyết định 111/HĐBT trước đây được điều
chỉnh rõ rệt, nhìn chung có sự hợp lý hơn trước. Chế độ sinh hoạt phí của cán bộ
xã và
trợ cấp hàng tháng được ngân sách Nhà nước bảo đảm chi trả qua hệ thống kho bạc,
khắc phục tình trạng nợ đọng triền miên diễn ra ở nhiều xã trước đây.
Bốn chức danh cán bộ chuyên môn của UBND xã được tiếp tục khẳng định mục
tiêu chuyên môn hoá, ổn định lâu dài bằng việc có những quy định chặt chẽ trong
tuyển
dụng, quản lý, sử dụng và chế độ sinh hoạt phí được vận dụng theo ngạch, bậc
lương
của cán bộ khu vực hành chính có cùng trình độ chuyên môn đào tạo và cùng được
xét
nâng mức sinh hoạt phí cứ sau 5 năm công tác.