Luận văn Thạc sĩ Luật học: Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam

5,399
358
96
14
Kể từ m 1986, nước ta chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu,
bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa tBHXH
đã mở rộng đối tượng thành lập quBHXH độc lập với ngân sách nhà
nước so dự đóng góp của người lao động, chủ sử dụng lao động và sự hỗ trợ
của Nhà nước. Nếu trong giai đoạn trước Nhà nước ta phải chịu trách nhiệm
chi trả chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN cho người lao động thì trong giai đoạn
này, nền kinh tế thị trường với sự tồn tại phát triển của nhiều thành phần
kinh tế là cơ sở quan trọng để tách bạch các quan hệ xã hội. Lúc này, tư cách
của người sử dụng lao động và người thực hiện BHXH đã được phân định rõ
ràng. Trách nhiệm đối với người lao động bị TNLĐ, BNN được chia sẻ cho
người sử dụng lao động, BHXH, Nhà nước cộng đồng hội. Nvậy,
người sử dụng lao động không phải trực tiếp chịu trách nhiệm về toàn bộ
những chi phí liên quan đối với bản thân gia đình của người lao động
như các giai đoạn trước đây mà một phần trách nhiệm đã được chuyển dịch
cho cơ quan BHXH. Đây là quy định mới thể hiện sự quan tâm của Đảng
Nhà nước ta đối với người lao động, đồng thời cũng giảm bớt gánh nặng cho
người sử dụng lao động.
TNLĐ lần đầu tiên được xác định cụ thể tại Thông tư liên tịch của Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội và Bộ Tài chính số 21/TTLT-BLĐTBXH-
BTC ngày 18/6/1994, theo đó có 04 trường hợp bị coi là bị TNLĐ, bao gồm:
TNLĐ trong giờ làm việc, tại nơi làm việc, kể cả làm việc ngoài giờ do yêu
cầu của người sử dụng lao động; tai nạn khi đi công vụ được giao; tai nạn trên
đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc; tai nạn trong những trường hợp cứu
người, cứu tài sản của Nhà nước, của nhân dân.
Kể từ 1994 đến nay:
Năm 1994 là năm đánh dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của chế
độ TNLĐ, BNN với sự ra đời của Bộ luật Lao động. Sau đó, thi hành những
14 Kể từ năm 1986, nước ta chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì BHXH đã mở rộng đối tượng và thành lập quỹ BHXH độc lập với ngân sách nhà nước so dự đóng góp của người lao động, chủ sử dụng lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước. Nếu trong giai đoạn trước Nhà nước ta phải chịu trách nhiệm chi trả chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN cho người lao động thì trong giai đoạn này, nền kinh tế thị trường với sự tồn tại và phát triển của nhiều thành phần kinh tế là cơ sở quan trọng để tách bạch các quan hệ xã hội. Lúc này, tư cách của người sử dụng lao động và người thực hiện BHXH đã được phân định rõ ràng. Trách nhiệm đối với người lao động bị TNLĐ, BNN được chia sẻ cho người sử dụng lao động, BHXH, Nhà nước và cộng đồng xã hội. Như vậy, người sử dụng lao động không phải trực tiếp chịu trách nhiệm về toàn bộ những chi phí có liên quan đối với bản thân và gia đình của người lao động như các giai đoạn trước đây mà một phần trách nhiệm đã được chuyển dịch cho cơ quan BHXH. Đây là quy định mới thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với người lao động, đồng thời cũng giảm bớt gánh nặng cho người sử dụng lao động. TNLĐ lần đầu tiên được xác định cụ thể tại Thông tư liên tịch của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Bộ Tài chính số 21/TTLT-BLĐTBXH- BTC ngày 18/6/1994, theo đó có 04 trường hợp bị coi là bị TNLĐ, bao gồm: TNLĐ trong giờ làm việc, tại nơi làm việc, kể cả làm việc ngoài giờ do yêu cầu của người sử dụng lao động; tai nạn khi đi công vụ được giao; tai nạn trên đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc; tai nạn trong những trường hợp cứu người, cứu tài sản của Nhà nước, của nhân dân. Kể từ 1994 đến nay: Năm 1994 là năm đánh dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của chế độ TNLĐ, BNN với sự ra đời của Bộ luật Lao động. Sau đó, thi hành những
15
quy định trong Bluật Lao động 1994 về BHXH, Chính phủ đã ban hành
Điều lệ Bảo hiểm xã hội kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995, theo
đó phạm vi những trường hợp bị coi TNLĐ, BNN sự nhìn nhận mới.
Trường hợp người bị TNLĐ ngoài nơi làm việc khi thực hiện công việc theo
yêu cầu của người sử dụng lao động cũng được coi bị TNLĐ. Những
trường hợp người sử dụng lao động bị tai nạn khi cứu người, cứu tài sản của
nhà nước, của nhân dân không được coi là TNLĐ mà được hưởng chính sách
ưu đãi của Nhà nước. Quy định này đã phần nào khắc phục được những hạn
chế của các giai đoạn trước.
Chế độ trợ cấp mà người lao động bị TNLĐ, BNN được hưởng cũng có
những thay đổi phù hợp với sự phát triển của hội. Khi người lao động bị
suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% thì được hưởng trợ cấp một lần 4,
8 hoặc 12 tháng lương tối thiểu chung tùy khung suy giảm khả năng lao động.
Khi người lao động bị suy giảm từ 31% trở lên thì được hưởng trợ cấp hàng
tháng từ 0,4 đến 1,6 tháng lương tối thiểu chung tùy vào khung suy giảm khả
năng lao động. Khi người lao động bị tái phát theo Điều 21 Nghị định số
12/CP ngày 26/01/1995 thì được cơ quan bảo hiểm xã hội giới thiệu đi giám
định lại mức độ suy giảm khả năng lao động để làm căn cứ xác định lại mức
trợ cấp. Ngoài ra, Nhà nước còn quy định chế độ dưỡng sức, phục hồi sức
khỏe cho người lao động sau thời gian điều trị TNLĐ, BNN; chế độ bảo hiểm
hưu trí cho người bị TNLĐ, BNN mà đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí; chế
độ bảo hiểm y tế cho người lao động nghỉ việc; chế độ đối với gia đình của
người lao động bị chết do TNLĐ, BNN.
Nhìn chung pháp luật giai đoạn này đã có những bước tiến đáng kể,
những sự thay đổi cơ bản về vấn đề TNLĐ, BNN. Có những cách nhìn mới,
quan điểm mới phù hợp hơn với sự phát triển của xã hội.
15 quy định trong Bộ luật Lao động 1994 về BHXH, Chính phủ đã ban hành Điều lệ Bảo hiểm xã hội kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995, theo đó phạm vi những trường hợp bị coi là TNLĐ, BNN có sự nhìn nhận mới. Trường hợp người bị TNLĐ ngoài nơi làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động cũng được coi là bị TNLĐ. Những trường hợp người sử dụng lao động bị tai nạn khi cứu người, cứu tài sản của nhà nước, của nhân dân không được coi là TNLĐ mà được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước. Quy định này đã phần nào khắc phục được những hạn chế của các giai đoạn trước. Chế độ trợ cấp mà người lao động bị TNLĐ, BNN được hưởng cũng có những thay đổi phù hợp với sự phát triển của xã hội. Khi người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% thì được hưởng trợ cấp một lần 4, 8 hoặc 12 tháng lương tối thiểu chung tùy khung suy giảm khả năng lao động. Khi người lao động bị suy giảm từ 31% trở lên thì được hưởng trợ cấp hàng tháng từ 0,4 đến 1,6 tháng lương tối thiểu chung tùy vào khung suy giảm khả năng lao động. Khi người lao động bị tái phát theo Điều 21 Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 thì được cơ quan bảo hiểm xã hội giới thiệu đi giám định lại mức độ suy giảm khả năng lao động để làm căn cứ xác định lại mức trợ cấp. Ngoài ra, Nhà nước còn quy định chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe cho người lao động sau thời gian điều trị TNLĐ, BNN; chế độ bảo hiểm hưu trí cho người bị TNLĐ, BNN mà đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí; chế độ bảo hiểm y tế cho người lao động nghỉ việc; chế độ đối với gia đình của người lao động bị chết do TNLĐ, BNN. Nhìn chung pháp luật giai đoạn này đã có những bước tiến đáng kể, có những sự thay đổi cơ bản về vấn đề TNLĐ, BNN. Có những cách nhìn mới, quan điểm mới phù hợp hơn với sự phát triển của xã hội.
16
Hiện nay, theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 các văn bản hướng
dẫn thi hành, chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN đã những thay đổi khá toàn
diện. Tuy vậy, với tốc độ phát triển nhanh chóng của nền kinh tế - xã hội
nhu cầu ngày càng cao của con người thì việc nghiên cứu để tiếp tục hoàn
thiện chế độ bảo hiểm này vẫn đang được đặt ra ở nước ta.
1.5. Các quy định của Tổ chức Lao động quốc tế và một số quốc gia
trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Quy định của Tổ chức Lao động quốc tế của các quốc gia trên thế
giới hiện nay chủ yếu quy định về chế độ TNLĐ. Chế độ TNLĐ được quy
định khá đầy đủ về đối tượng áp dụng, nguồn hình thành quỹ bảo hiểm
TNLĐ, bệnh nghề nghiệp và chế độ trợ cấp cho các đối tượng được hưởng.
Các quy định về BNN vẫn còn tương đối hạn chế ít được quan tâm. Thái
Lan Nhật Bản hai trong số các quốc gia hệ thống các quy định về
TNLĐ khá hoàn thiện, hơn nữa đây là hai quốc gia thuộc khu vực châu Á,
một số điều kiện địa lý, dân cư tương đối giống Việt Nam, vì vậy có thể rút ra
một số bài học kinh nghiệm bổ ích cho Việt Nam thông qua việc phân tích
chế độ TNLĐ, BNN của hai quốc gia này.
1.5.1. Quy định của Tổ chức Lao động quốc tế về tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp
Chế độ TNLĐ, BNN chế độ có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ
người lao động trước những rủi ro nghề nghiệp, không chỉ được nhiều quốc
gia quan tâm thực hiện mà ILO cũng đã đưa ra nhiều khuyến nghị công
ước nhằm đảm bảo an toàn tại nơi làm việc và đảm bảo những khoản trợ cấp
cho người lao động sau khi bị TNLĐ, BNN.
Ngày 04/6/1952, tại kỳ họp thứ 35, ILO đã thông qua Công ước về An
toàn hội (quy phạm tối thiểu). Trợ cấp TNLĐ, BNN theo quy định của
Công ước 102 về An toàn xã hội được quy định như sau:
16 Hiện nay, theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành, chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN đã có những thay đổi khá toàn diện. Tuy vậy, với tốc độ phát triển nhanh chóng của nền kinh tế - xã hội và nhu cầu ngày càng cao của con người thì việc nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện chế độ bảo hiểm này vẫn đang được đặt ra ở nước ta. 1.5. Các quy định của Tổ chức Lao động quốc tế và một số quốc gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Quy định của Tổ chức Lao động quốc tế và của các quốc gia trên thế giới hiện nay chủ yếu quy định về chế độ TNLĐ. Chế độ TNLĐ được quy định khá đầy đủ về đối tượng áp dụng, nguồn hình thành quỹ bảo hiểm TNLĐ, bệnh nghề nghiệp và chế độ trợ cấp cho các đối tượng được hưởng. Các quy định về BNN vẫn còn tương đối hạn chế là ít được quan tâm. Thái Lan và Nhật Bản là hai trong số các quốc gia có hệ thống các quy định về TNLĐ khá hoàn thiện, hơn nữa đây là hai quốc gia thuộc khu vực châu Á, có một số điều kiện địa lý, dân cư tương đối giống Việt Nam, vì vậy có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm bổ ích cho Việt Nam thông qua việc phân tích chế độ TNLĐ, BNN của hai quốc gia này. 1.5.1. Quy định của Tổ chức Lao động quốc tế về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp Chế độ TNLĐ, BNN là chế độ có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ người lao động trước những rủi ro nghề nghiệp, không chỉ được nhiều quốc gia quan tâm thực hiện mà ILO cũng đã đưa ra nhiều khuyến nghị và công ước nhằm đảm bảo an toàn tại nơi làm việc và đảm bảo những khoản trợ cấp cho người lao động sau khi bị TNLĐ, BNN. Ngày 04/6/1952, tại kỳ họp thứ 35, ILO đã thông qua Công ước về An toàn xã hội (quy phạm tối thiểu). Trợ cấp TNLĐ, BNN theo quy định của Công ước 102 về An toàn xã hội được quy định như sau:
17
* Những trường hợp cần bảo vệ nếu do TNLĐ, BNN gây ra:
- Tình trạng đau ốm;
- Mất khả năng lao động do tình trạng đau ốm gây ra dẫn đến gián
đoạn thu nhập;
- Mất hoàn toàn khả năng thu nhập hoặc mất một phần khả năng thu
nhập vượt quá mức quy định (nếu tình trạng này thể trở thành thường
xuyên hoặc có sự giảm sút tương ứng về thể lực).
- Người vợ goá hoặc con cái bị mất phương tiện sinh sống do người trụ
cột gia đình chết (người vợ goá chỉ được bảo vệ khi người đó không thể đài
thọ cho những nhu cầu chính mình).
* Chế độ trợ cấp:
- Tình trạng ốm đau: phải được bảo đảm việc chăm sóc y tế như điều
trị, điều dưỡng, thuốc men…
- Trường hợp bị mất khả năng lao động hoặc mất hoàn toàn thu nhập
(nếu tình trạng này có thể trở thành thường xuyên hoặc bị giảm sút tương ứng
về thể lực hoặc mất người trụ cột gia đình) thì việc trợ cấp được chi trả định
kỳ ít nhất bằng 50% thu nhập trước đó của đối tượng (đối tượng được hưởng
có thêm 1 vợ và 2 con).
- Trường hợp mất một phần khả năng thu nhập (nếu tình trạng này có
thể trở thành thường xuyên hoặc có sự giảm sút tương ứng về thể lực) thì trợ
cấp sẽ là việc chi trả định kỳ được ấn định một tỷ lệ thích hợp so với tỷ lệ quy
định cho trường hợp trên.
Việc chi trả định kỳ có thể chuyển thành một số vốn chi trả một lần khi
mức độ mất khả năng là không đáng kể hoặc khi các nhà chức trách có thầm
quyền được bảo đảm rằng số vốn đó sẽ được sử dụng đích đáng.
17 * Những trường hợp cần bảo vệ nếu do TNLĐ, BNN gây ra: - Tình trạng đau ốm; - Mất khả năng lao động do tình trạng đau ốm gây ra và dẫn đến gián đoạn thu nhập; - Mất hoàn toàn khả năng thu nhập hoặc mất một phần khả năng thu nhập vượt quá mức quy định (nếu tình trạng này có thể trở thành thường xuyên hoặc có sự giảm sút tương ứng về thể lực). - Người vợ goá hoặc con cái bị mất phương tiện sinh sống do người trụ cột gia đình chết (người vợ goá chỉ được bảo vệ khi người đó không thể đài thọ cho những nhu cầu chính mình). * Chế độ trợ cấp: - Tình trạng ốm đau: phải được bảo đảm việc chăm sóc y tế như điều trị, điều dưỡng, thuốc men… - Trường hợp bị mất khả năng lao động hoặc mất hoàn toàn thu nhập (nếu tình trạng này có thể trở thành thường xuyên hoặc bị giảm sút tương ứng về thể lực hoặc mất người trụ cột gia đình) thì việc trợ cấp được chi trả định kỳ ít nhất bằng 50% thu nhập trước đó của đối tượng (đối tượng được hưởng có thêm 1 vợ và 2 con). - Trường hợp mất một phần khả năng thu nhập (nếu tình trạng này có thể trở thành thường xuyên hoặc có sự giảm sút tương ứng về thể lực) thì trợ cấp sẽ là việc chi trả định kỳ được ấn định một tỷ lệ thích hợp so với tỷ lệ quy định cho trường hợp trên. Việc chi trả định kỳ có thể chuyển thành một số vốn chi trả một lần khi mức độ mất khả năng là không đáng kể hoặc khi các nhà chức trách có thầm quyền được bảo đảm rằng số vốn đó sẽ được sử dụng đích đáng.
18
- Người bị TNLĐ, BNN được đào tạo lại nghề nghiệp đcho họ tái
thích ứng được với một công việc thích hợp.
Công ước 102 chỉ là những quy phạm tối thiểu về an toàn hội. Các
nước khi tham gia công ước phải đảm bảo cho các quy định về bảo hiểm
hội nước mình tối thiểu phải đáp ứng được các yêu cầu như công ước quy
định. Nhìn chung, các quy định của Tổ chức Lao động quốc tế về chế độ
TNLĐ, BNN chủ yếu tập trung ở Công ước 102 về an toàn xã hội.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã phê chuẩn Công ước Quốc tế 155 -
Công ước về an toàn lao động - sức khoẻ và môi trường làm việc (1981). Đây
là Công ước có ý nghĩa vô cũng quan trọng đối với chế độ TNLĐ, BNN, vì an
toàn lao động vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình TNLĐ, BNN.
Gia nhập Công ước 155 về an toàn lao động, sức khoẻ và môi trường làm việc
giúp cho việc phòng ngừa TNLĐ, BNN trở nên hiệu quả và thiết thực hơn.
Ngoài ra, ILO cũng đã ban hành Công ước 187 về tăng cường chế
an toàn vệ sinh lao động. Việt Nam hiện nay vẫn đang trong quá trình nghiên
cứu gia nhập Công ước này.
1.5.2. Quy định của một số quốc gia về tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp
a. Chế độ bảo hiểm tai nạn lao động ở Thái Lan
Hiện nay Thái Lan, quan An sinh hội Thái Lan chịu trách
nhiệm thực hiện các chế độ BHXH cho người lao động, bao gồm cả chế độ
TNLĐ, BNN.
- Đối tượng áp dụng:
Chế độ này áp dụng cho tất cả người lao động làm việc trong lĩnh vực
công nghiệp và thương mại, loại trừ người làm việc trong lĩnh vực nông, lâm,
18 - Người bị TNLĐ, BNN được đào tạo lại nghề nghiệp để cho họ tái thích ứng được với một công việc thích hợp. Công ước 102 chỉ là những quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội. Các nước khi tham gia công ước phải đảm bảo cho các quy định về bảo hiểm xã hội nước mình tối thiểu phải đáp ứng được các yêu cầu như công ước quy định. Nhìn chung, các quy định của Tổ chức Lao động quốc tế về chế độ TNLĐ, BNN chủ yếu tập trung ở Công ước 102 về an toàn xã hội. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã phê chuẩn Công ước Quốc tế 155 - Công ước về an toàn lao động - sức khoẻ và môi trường làm việc (1981). Đây là Công ước có ý nghĩa vô cũng quan trọng đối với chế độ TNLĐ, BNN, vì an toàn lao động là vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình TNLĐ, BNN. Gia nhập Công ước 155 về an toàn lao động, sức khoẻ và môi trường làm việc giúp cho việc phòng ngừa TNLĐ, BNN trở nên hiệu quả và thiết thực hơn. Ngoài ra, ILO cũng đã ban hành Công ước 187 về tăng cường cơ chế an toàn vệ sinh lao động. Việt Nam hiện nay vẫn đang trong quá trình nghiên cứu gia nhập Công ước này. 1.5.2. Quy định của một số quốc gia về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp a. Chế độ bảo hiểm tai nạn lao động ở Thái Lan Hiện nay ở Thái Lan, cơ quan An sinh xã hội Thái Lan chịu trách nhiệm thực hiện các chế độ BHXH cho người lao động, bao gồm cả chế độ TNLĐ, BNN. - Đối tượng áp dụng: Chế độ này áp dụng cho tất cả người lao động làm việc trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại, loại trừ người làm việc trong lĩnh vực nông, lâm,
19
ngư nghiệp. Người làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước, trường tư và
nhân viên Chính phủ thực hiện theo hệ thống riêng.
- Nguồn hình thành quỹ:
Quỹ bảo hiểm TNLĐ chỉ do người sử dụng lao động đóng góp. Mức
đóng góp từ 0,6% đến 29,9% quỹ lương, phụ thuộc rủi ro công nghiệp. Nhà
nước không hỗ trợ cho việc hình thành quỹ chỉ chi phí cho việc quản
hành chính.
- Quyền lợi của người lao động:
Người lao động được bồi thường ở tất cả các mức thương tật, được trả
chi phí về y tế, được hưởng trợ cấp một lần hoặc hàng tháng khi bị thương tật
tạm thời hoặc vĩnh viễn. Ngoài ra người lao động còn được hưởng các dịch vụ
phục hồi chức năng, gồm điều trị y tế, mổ, nằm viện cả trang thiết bị nếu
họ bị tàn tật do bị thương từ TNLĐ. Đặc biệt, người lao động bị TNLĐ được đào
tạo lại nghề phù hợp. Nếu người lao động chết thì được nhận tiền mai táng phí,
thân nhân người bị TNLĐ còn được trợ cấp hàng tháng theo luật định.
Người lao động không được bồi thường trong trường hợp xảy ra TNLĐ
do ngộ độc hoặc say rượu do bản thân, do cố ý tự sát hoặc do cẩu thả vô ý thức.
- Quản lý:
quan An sinh hội Thái Lan trách nhiệm quản tổ chức
thực hiện chế độ TNLĐ, BNN ở Thái Lan. Đây là cơ quan thuộc Chính phủ
được thành lập theo Luật BHXH.
Uỷ ban Bồi thường TNLĐ, BNN thuộc quan An sinh hội
trách nhiệm quản lý quỹ và thực hiện chế độ cho người lao động, Uỷ ban gồm
đại diện người lao động, người sử dụng lao động các chuyên gia về
BHXH. Uỷ ban trách nhiệm: đánh giá xây dựng tỷ l đóng góp của
người sử dụng lao động; xây dựng các chính sách bồi thường, chương trình
19 ngư nghiệp. Người làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước, trường tư và nhân viên Chính phủ thực hiện theo hệ thống riêng. - Nguồn hình thành quỹ: Quỹ bảo hiểm TNLĐ chỉ do người sử dụng lao động đóng góp. Mức đóng góp từ 0,6% đến 29,9% quỹ lương, phụ thuộc rủi ro công nghiệp. Nhà nước không hỗ trợ cho việc hình thành quỹ mà chỉ chi phí cho việc quản lý hành chính. - Quyền lợi của người lao động: Người lao động được bồi thường ở tất cả các mức thương tật, được trả chi phí về y tế, được hưởng trợ cấp một lần hoặc hàng tháng khi bị thương tật tạm thời hoặc vĩnh viễn. Ngoài ra người lao động còn được hưởng các dịch vụ phục hồi chức năng, gồm điều trị y tế, mổ, nằm viện và cả trang thiết bị nếu họ bị tàn tật do bị thương từ TNLĐ. Đặc biệt, người lao động bị TNLĐ được đào tạo lại nghề phù hợp. Nếu người lao động chết thì được nhận tiền mai táng phí, thân nhân người bị TNLĐ còn được trợ cấp hàng tháng theo luật định. Người lao động không được bồi thường trong trường hợp xảy ra TNLĐ do ngộ độc hoặc say rượu do bản thân, do cố ý tự sát hoặc do cẩu thả vô ý thức. - Quản lý: Cơ quan An sinh xã hội Thái Lan có trách nhiệm quản lý và tổ chức thực hiện chế độ TNLĐ, BNN ở Thái Lan. Đây là cơ quan thuộc Chính phủ được thành lập theo Luật BHXH. Uỷ ban Bồi thường TNLĐ, BNN thuộc Cơ quan An sinh xã hội có trách nhiệm quản lý quỹ và thực hiện chế độ cho người lao động, Uỷ ban gồm đại diện người lao động, người sử dụng lao động và các chuyên gia về BHXH. Uỷ ban có trách nhiệm: đánh giá và xây dựng tỷ lệ đóng góp của người sử dụng lao động; xây dựng các chính sách bồi thường, chương trình
20
nghiên cứu hướng tới việc ngăn chặn các TNLĐ, BNN các biện pháp về
ATVSLĐ; giải quyết tranh chấp, khiếu nại.
Nhìn chung, chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN ở Thái Lan khá hoàn chỉnh.
Một số quy định ý nghĩa rất tích cực trong việc nâng cao ý thức về
ATVSLĐ cho người sử dụng lao động cũng như người lao động, tiến tới giảm
thiểu các rủi ro xảy ra TNLĐ, BNN như: tỷ lệ đóng góp vào Quỹ của người
sử dụng lao động phụ thuộc vào tỷ lệ rủi ro của từng ngành nghề; người lao
động sau TNLĐ được đào tạo lại nghề để quay trở lại lao động; người lao
động nếu không tuân thủ đúng các quy định về báo cáo TNLĐ, BNN thì sẽ bị
phạt một khoản tiền theo quy định.
b. Chế độ bảo hiểm tai nạn lao động ở Nhật Bản
Là một quốc gia có nền kinh tế phát triển ở khu vực châu Á, Nhật Bản
rất quan tâm đến việc ổn định xã hội, nâng cao mức sống của người lao động.
Bảo hiểm TNLĐ là một trong các chế độ của hệ thống bảo hiểm xã hội ở Nhật
Bản, được quy định như sau:
- Đối tượng áp dụng:
Chế độ bảo hiểm TNLĐ chỉ áp dụng đối với người lao động làm việc
trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh (còn công chức nhà nước chương
trình bảo hiểm riêng). Tuy nhiên, luật bảo hiểm TNLĐ Nhật Bản chia thành
hai loại bảo hiểm: bảo hiểm bắt buộc bảo hiểm tự nguyện. Bảo hiểm tự
nguyện áp dụng đối với các đơn vị nhân sản xuất nhỏ có sử dụng 5 lao
động hoặc không có việc làm đều đặn hoặc số lao động thuê cả năm dưới 300
người, việc tham gia bảo hiểm do người sử dụng lao động hoặc người lao
động tại doanh nghiệp quyết định.
- Nguồn hình thành quỹ:
20 nghiên cứu hướng tới việc ngăn chặn các TNLĐ, BNN và các biện pháp về ATVSLĐ; giải quyết tranh chấp, khiếu nại. Nhìn chung, chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN ở Thái Lan khá hoàn chỉnh. Một số quy định có ý nghĩa rất tích cực trong việc nâng cao ý thức về ATVSLĐ cho người sử dụng lao động cũng như người lao động, tiến tới giảm thiểu các rủi ro xảy ra TNLĐ, BNN như: tỷ lệ đóng góp vào Quỹ của người sử dụng lao động phụ thuộc vào tỷ lệ rủi ro của từng ngành nghề; người lao động sau TNLĐ được đào tạo lại nghề để quay trở lại lao động; người lao động nếu không tuân thủ đúng các quy định về báo cáo TNLĐ, BNN thì sẽ bị phạt một khoản tiền theo quy định. b. Chế độ bảo hiểm tai nạn lao động ở Nhật Bản Là một quốc gia có nền kinh tế phát triển ở khu vực châu Á, Nhật Bản rất quan tâm đến việc ổn định xã hội, nâng cao mức sống của người lao động. Bảo hiểm TNLĐ là một trong các chế độ của hệ thống bảo hiểm xã hội ở Nhật Bản, được quy định như sau: - Đối tượng áp dụng: Chế độ bảo hiểm TNLĐ chỉ áp dụng đối với người lao động làm việc trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh (còn công chức nhà nước có chương trình bảo hiểm riêng). Tuy nhiên, luật bảo hiểm TNLĐ Nhật Bản chia thành hai loại bảo hiểm: bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện. Bảo hiểm tự nguyện áp dụng đối với các đơn vị tư nhân sản xuất nhỏ có sử dụng 5 lao động hoặc không có việc làm đều đặn hoặc số lao động thuê cả năm dưới 300 người, việc tham gia bảo hiểm do người sử dụng lao động hoặc người lao động tại doanh nghiệp quyết định. - Nguồn hình thành quỹ:
21
Chủ sử dụng lao động chịu đóng góp toàn bộ phí bảo hiểm với 27 mức
đóng từ 0,6% đến 13,4% quỹ lương tuỳ theo ngành nghề, mức độ rủi ro và số
lao động làm việc. Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí cho bảo hiểm TNLĐ
trong giới hạn ngân sách nhà nước.
- Các loại trợ cấp:
Trợ cấp bảo hiểm TNLĐ được quy định thành 6 loại trợ cấp, bao gồm:
trợ cấp y tế, trợ cấp giảm sút thu nhập, trợ cấp thương tật, trợ cấp khuyết tật,
trợ cấp thân nhân người chết do TNLĐ, trợ cấp phục vụ (khi người bị TNLĐ
không có khả năng tự phục vụ mình).
- Quản lý:
Chế độ bảo hiểm TNLĐ ở Nhật Bản do Chính phủ trực tiếp quản lý và
do Bộ Lao động chịu trách nhiệm quản lý hành chính.
Là một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển châu Á, Nhật
Bản có một hệ thống các quy định về chế độ TNLĐ hoàn chỉnh, chặt chẽ, tiến
bộ, đã tách riêng công chức thành đối tượng bảo hiểm riêng biệt, phân chia
thành hai loại hình bảo hiểm bắt buộc và tự nguyện, một hệ thống trợ cấp
đa dạng bảo đảm quyền lợi cho người lao động. Tuy nhiên về điều kiện
hưởng trợ cấp, Luật bảo hiểm TNLĐ Nhật Bản quy định chỉ được coi
TNLĐ trong trường hợp người lao động thi hành công việc, nhiệm vụ lao
động dưới sự quản lý, giám sát của chủ sử dụng lao động đã làm thu hẹp đối
tượng hưởng trợ cấp bảo hiểm TNLĐ.
1.5.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
So sánh với pháp luật các nước, Luận văn rút ra một số bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam như sau:
- Cần mở rộng đối tượng bảo vệ của chế độ TNLĐ, BNN đến toàn bộ
người lao động làm công ăn lương. Việc mở rộng phạm vi áp dụng này vừa
21 Chủ sử dụng lao động chịu đóng góp toàn bộ phí bảo hiểm với 27 mức đóng từ 0,6% đến 13,4% quỹ lương tuỳ theo ngành nghề, mức độ rủi ro và số lao động làm việc. Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí cho bảo hiểm TNLĐ trong giới hạn ngân sách nhà nước. - Các loại trợ cấp: Trợ cấp bảo hiểm TNLĐ được quy định thành 6 loại trợ cấp, bao gồm: trợ cấp y tế, trợ cấp giảm sút thu nhập, trợ cấp thương tật, trợ cấp khuyết tật, trợ cấp thân nhân người chết do TNLĐ, trợ cấp phục vụ (khi người bị TNLĐ không có khả năng tự phục vụ mình). - Quản lý: Chế độ bảo hiểm TNLĐ ở Nhật Bản do Chính phủ trực tiếp quản lý và do Bộ Lao động chịu trách nhiệm quản lý hành chính. Là một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển ở châu Á, Nhật Bản có một hệ thống các quy định về chế độ TNLĐ hoàn chỉnh, chặt chẽ, tiến bộ, đã tách riêng công chức thành đối tượng bảo hiểm riêng biệt, phân chia thành hai loại hình bảo hiểm bắt buộc và tự nguyện, có một hệ thống trợ cấp đa dạng bảo đảm quyền lợi cho người lao động. Tuy nhiên về điều kiện hưởng trợ cấp, Luật bảo hiểm TNLĐ Nhật Bản quy định chỉ được coi là TNLĐ trong trường hợp người lao động thi hành công việc, nhiệm vụ lao động dưới sự quản lý, giám sát của chủ sử dụng lao động đã làm thu hẹp đối tượng hưởng trợ cấp bảo hiểm TNLĐ. 1.5.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam So sánh với pháp luật các nước, Luận văn rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam như sau: - Cần mở rộng đối tượng bảo vệ của chế độ TNLĐ, BNN đến toàn bộ người lao động làm công ăn lương. Việc mở rộng phạm vi áp dụng này vừa
22
đảm bảo quyền lợi cho người lao động, vừa thực hiện nguyên tắc số đông bù
số ít trong hoạt động BHXH.
- Quy định tỷ lệ đóng góp vào Quỹ TNLĐ, BNN là khác nhau giữa các
ngành nghề. Việc quy định tỷ lệ đóng góp khác nhau sẽ đảm bảo sự công
bằng giữa các đơn vị tham gia chế độ TNLĐ, BNN, mặt khác tạo động lực
cho người sử dụng lao động quan tâm và đầu tư nguồn lực thực hiện tốt công
tác ATVSLĐ.
- Thực hiện chức năng phòng ngừa hạn chế tổn thất của hoạt động
bảo hiểm. Chức năng này thể được thực hiện bằng nhiều hình thức khác
nhau, như đầu tư trở lại cho đơn vị sử dụng lao động để cải thiện điều kiện lao
động, tổ chức huấn luyện ATVSLĐ, tuyên truyền để nâng cao nhận thức của
người lao động cũng như chủ sử dụng lao động.
Thực tế, chi phí cho công tác phòng ngừa TNLĐ, BNN thấp hơn nhiều
so với chi phí bồi thường, khắc phục hậu quả từ TNLĐ, BNN. Ngoài chi phí
bồi thường, trợ cấp cho người bị TNLĐ, BNN mà tổ chức BHXH gánh chịu,
thì còn phát sinh nhiều vấn đề xã hội về lực lượng lao động, chi phí y tế, tinh
thần của người lao động sau khi bị rủi ro, chưa kể đến những thiệt hại về phía
người sử dụng lao động.
22 đảm bảo quyền lợi cho người lao động, vừa thực hiện nguyên tắc số đông bù số ít trong hoạt động BHXH. - Quy định tỷ lệ đóng góp vào Quỹ TNLĐ, BNN là khác nhau giữa các ngành nghề. Việc quy định tỷ lệ đóng góp khác nhau sẽ đảm bảo sự công bằng giữa các đơn vị tham gia chế độ TNLĐ, BNN, mặt khác tạo động lực cho người sử dụng lao động quan tâm và đầu tư nguồn lực thực hiện tốt công tác ATVSLĐ. - Thực hiện chức năng phòng ngừa và hạn chế tổn thất của hoạt động bảo hiểm. Chức năng này có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, như đầu tư trở lại cho đơn vị sử dụng lao động để cải thiện điều kiện lao động, tổ chức huấn luyện ATVSLĐ, tuyên truyền để nâng cao nhận thức của người lao động cũng như chủ sử dụng lao động. Thực tế, chi phí cho công tác phòng ngừa TNLĐ, BNN thấp hơn nhiều so với chi phí bồi thường, khắc phục hậu quả từ TNLĐ, BNN. Ngoài chi phí bồi thường, trợ cấp cho người bị TNLĐ, BNN mà tổ chức BHXH gánh chịu, thì còn phát sinh nhiều vấn đề xã hội về lực lượng lao động, chi phí y tế, tinh thần của người lao động sau khi bị rủi ro, chưa kể đến những thiệt hại về phía người sử dụng lao động.
23
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong xã
hội hiện nay. Bên cạnh đối tượng lao động trí thức rất phổ biến thì lực lượng
lao động lao động chân tay vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong số các ngành nghề
lao động sản xuất vật chất, và rủi ro trong quá trình lao động dẫn đến TNLĐ,
BNN vẫn là rất cao. Là một chế định pháp luật về bảo hiểm, chế độ bảo hiểm
TNLĐ, BNN đảm bảo an toàn về đời sống cho bản thân và gia đình người lao
động bị tai nạn lao động hoặc mắc bệnh nghề nghiệp. Bên cạnh đó, chế độ
TNLĐ, BNN còn bảo vệ quyền lợi của người sử dụng lao động trong việc xác
định phạm vị trách nhiệm khi người lao động bị TNLĐ, BNN. Các quy định
pháp luật về TNLĐ, BNN sở pháp quan trọng trong giải quyết bồi
thường về TNLĐ, BNN và các tranh chấp liên quan, qua đó góp phần duy trì
ổn định xã hội.
23 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong xã hội hiện nay. Bên cạnh đối tượng lao động trí thức rất phổ biến thì lực lượng lao động lao động chân tay vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong số các ngành nghề lao động sản xuất vật chất, và rủi ro trong quá trình lao động dẫn đến TNLĐ, BNN vẫn là rất cao. Là một chế định pháp luật về bảo hiểm, chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN đảm bảo an toàn về đời sống cho bản thân và gia đình người lao động bị tai nạn lao động hoặc mắc bệnh nghề nghiệp. Bên cạnh đó, chế độ TNLĐ, BNN còn bảo vệ quyền lợi của người sử dụng lao động trong việc xác định phạm vị trách nhiệm khi người lao động bị TNLĐ, BNN. Các quy định pháp luật về TNLĐ, BNN là cơ sở pháp lý quan trọng trong giải quyết bồi thường về TNLĐ, BNN và các tranh chấp liên quan, qua đó góp phần duy trì ổn định xã hội.