Luận văn Thạc sĩ Luật học: Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam

5,337
358
96
4
cứu một cách có hệ thống về cơ sở luận của chế độ TNLĐ, BNN, thực
trạng pháp luật về chế độ TNLĐ, BNN việc thực thi pháp luật về chế độ
TNLĐ, BNN, từ đó rút ra các kiến nghị và giải pháp làm cơ sở để hoàn thiện
pháp luật về chế độ này và nâng cao hiệu quả của việc thực thi chế độ TNLĐ,
BNN trên thực tế. Vì vậy, tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài “Chế độ tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp trong Luật Bảo hiểm hội Việt Nam, với
mong muốn đắp những khoảng trống trong khoa học pháp về chế độ
TNLĐ, BNN.
3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu
- Hệ thống hoá và hoàn thiện cơ sở lý luận về chế độ TNLĐ và BNN;
- Nghiên cứu chế độ, chính sách tình hình thực hiện chế độ TNLĐ
và BNN ở Việt Nam, từ đó chỉ ra những mặt tồn tại, bất cập.
- Đưa ra những giải pháp hoàn thiện chế độ TNLĐ và BNN, nhằm phát
huy hơn nữa vai trò của chế độ TNLĐ, BNN trong việc bảo đảm đời sống của
người lao động sau khi bị TNLĐ, BNN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu chế độ TNLĐ và BNN đối với lao động chân tay
ở Việt Nam. Số liệu sử dụng trong luận văn tập trung giai đoạn 2010 – 2011.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận pháp luật về chế độ TNLĐ và
BNN và tình hình thực hiện chế độ TNLĐ và BNN theo pháp luật hiện hành,
đặc biệt là sau khi có Luật BHXH năm 2006.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên sở sự kết hợp các phương pháp
nghiên cứu của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đặc biệt:
4 cứu một cách có hệ thống về cơ sở lý luận của chế độ TNLĐ, BNN, thực trạng pháp luật về chế độ TNLĐ, BNN và việc thực thi pháp luật về chế độ TNLĐ, BNN, từ đó rút ra các kiến nghị và giải pháp làm cơ sở để hoàn thiện pháp luật về chế độ này và nâng cao hiệu quả của việc thực thi chế độ TNLĐ, BNN trên thực tế. Vì vậy, tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài “Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam”, với mong muốn bù đắp những khoảng trống trong khoa học pháp lý về chế độ TNLĐ, BNN. 3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu - Hệ thống hoá và hoàn thiện cơ sở lý luận về chế độ TNLĐ và BNN; - Nghiên cứu chế độ, chính sách và tình hình thực hiện chế độ TNLĐ và BNN ở Việt Nam, từ đó chỉ ra những mặt tồn tại, bất cập. - Đưa ra những giải pháp hoàn thiện chế độ TNLĐ và BNN, nhằm phát huy hơn nữa vai trò của chế độ TNLĐ, BNN trong việc bảo đảm đời sống của người lao động sau khi bị TNLĐ, BNN. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu chế độ TNLĐ và BNN đối với lao động chân tay ở Việt Nam. Số liệu sử dụng trong luận văn tập trung giai đoạn 2010 – 2011. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận pháp luật về chế độ TNLĐ và BNN và tình hình thực hiện chế độ TNLĐ và BNN theo pháp luật hiện hành, đặc biệt là sau khi có Luật BHXH năm 2006. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở sự kết hợp các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đặc biệt:
5
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng xuyên suốt trong quá
trình thực hiện luận văn để đánh giá, nhận xét về các quy định của pháp luật
cũng như thực tiễn tổ chức thực hiện chế độ TNLĐ, BNN.
- Phương pháp so sánh, thống kê: Tác giả sử dụng phương pháp so
sánh, thống kê để đánh giá sự phát triển, tiến bộ cũng như những hạn chế còn
tồn tại của pháp luật.
- Phương pháp lịch sử: sử dụng phương pháp này trong nghiên cứu luận
văn bằng cách đi tìm nguồn gốc phát sinh, quá trình phát triển của chế độ
TNLĐ, BNN, nhằm tìm ra xu hướng phát triển, làm cơ sở đưa ra các đề xuất.
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về chế độ TNLĐ và BNN;
phân tích vai trò của chế độ này đối với các bên tham gia, đặc biệt trong
điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Hệ thống hoá các quy định hiện hành về chế độ TNLĐ và BNN, từ đó
chỉ ra những điểm hạn chế của các quy định này.
- Phân tích tình hình thực hiện chế độ TNLĐ và BNN ở Việt Nam.
- Đưa ra phương hướng hoàn thiện chế độ TNLĐ và BNN ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1 :
Một số vấn đề luận về chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp.
Chương 2 : Thực trạng chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và việc
thực thi ở Việt Nam.
Chương 3 : Giải pháp nâng cao hiệu quả chế độ tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp ở Việt Nam.
5 - Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng xuyên suốt trong quá trình thực hiện luận văn để đánh giá, nhận xét về các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn tổ chức thực hiện chế độ TNLĐ, BNN. - Phương pháp so sánh, thống kê: Tác giả sử dụng phương pháp so sánh, thống kê để đánh giá sự phát triển, tiến bộ cũng như những hạn chế còn tồn tại của pháp luật. - Phương pháp lịch sử: sử dụng phương pháp này trong nghiên cứu luận văn bằng cách đi tìm nguồn gốc phát sinh, quá trình phát triển của chế độ TNLĐ, BNN, nhằm tìm ra xu hướng phát triển, làm cơ sở đưa ra các đề xuất. 6. Đóng góp của luận văn - Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về chế độ TNLĐ và BNN; phân tích vai trò của chế độ này đối với các bên tham gia, đặc biệt là trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. - Hệ thống hoá các quy định hiện hành về chế độ TNLĐ và BNN, từ đó chỉ ra những điểm hạn chế của các quy định này. - Phân tích tình hình thực hiện chế độ TNLĐ và BNN ở Việt Nam. - Đưa ra phương hướng hoàn thiện chế độ TNLĐ và BNN ở Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1 : Một số vấn đề lý luận về chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Chương 2 : Thực trạng chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và việc thực thi ở Việt Nam. Chương 3 : Giải pháp nâng cao hiệu quả chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ở Việt Nam.
6
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ TAI NẠN LAO
ĐỘNG, BỆNH NGHỀ NGHIỆP
Khi nền kinh tế - hội ngày càng phát triển thì đời sống ngày càng
được nâng cao, các nhu cầu của con người do đó càng được đáp ứng nhiều
hơn, đầy đủ hơn. Tuy nhiên con người phải đối mặt với nhiều vấn đề phát
sinh đe doạ cuộc sống như m đau, bệnh tật, tai nạn. Đặc biệt là khi nhiều
ngành kinh tế ra đời thu hút ngày càng nhiều người tham gia vào lực lượng
lao động, thì TNLĐ, BNN ngày một gia tăng, trở thành một trong những vấn
đề nhức nhối của xã hội.
Để đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
văn minh, chúng ta phải cân đối giữa phát triển kinh tế với đảm bảo các
vấn đề phúc lợi xã hội. Chính vì vậy mà hiện nay khi toàn dân tập trung xây
dựng kinh tế tviệc phát triển hoàn thiện chế đBHXH cho người lao
động cũng cần được quan tâm đúng mức, trong đó chế độ TNLĐ và BNN
được đặc biệt quan tâm.
1.1. Khái niệm chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Khi bị TNLĐ, BNN, một mặt, người lao động sẽ bị mất hoặc giảm thu
nhập từ lao động, mặt khác, các chi phí cho đời sống hàng ngày tăng lên đột
ngột, thậm chí xuất hiện nhiều loại chi phí mới. Từ đó nhu cầu được bảo
hiểm của người lao động gia đình họ trong các trường hợp y càng trở
nên bức xúc. Ngay sau sự ra đời của chế đ bảo hiểm ốm đau, bảo hiểm
TNLĐ, BNN đã xuất hiện trong lịch sử hình thành phát triển của BHXH
nói chung với ý nghĩa ràng buộc trách nhiệm của người sử dụng lao động đối
với những rủi ro xảy ra trong quá trình lao động gắn liền với nghề nghiệp của
người lao động, đồng thời thể hiện sự quan tâm và trách nhiệm của Nhà nước
đối với lực lượng lao động và cộng đồng xã hội nói chung.
6 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ TAI NẠN LAO ĐỘNG, BỆNH NGHỀ NGHIỆP Khi nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì đời sống ngày càng được nâng cao, các nhu cầu của con người do đó càng được đáp ứng nhiều hơn, đầy đủ hơn. Tuy nhiên con người phải đối mặt với nhiều vấn đề phát sinh đe doạ cuộc sống như ốm đau, bệnh tật, tai nạn. Đặc biệt là khi nhiều ngành kinh tế ra đời thu hút ngày càng nhiều người tham gia vào lực lượng lao động, thì TNLĐ, BNN ngày một gia tăng, trở thành một trong những vấn đề nhức nhối của xã hội. Để đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, chúng ta phải cân đối giữa phát triển kinh tế với đảm bảo các vấn đề phúc lợi xã hội. Chính vì vậy mà hiện nay khi toàn dân tập trung xây dựng kinh tế thì việc phát triển và hoàn thiện chế độ BHXH cho người lao động cũng cần được quan tâm đúng mức, trong đó chế độ TNLĐ và BNN được đặc biệt quan tâm. 1.1. Khái niệm chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp Khi bị TNLĐ, BNN, một mặt, người lao động sẽ bị mất hoặc giảm thu nhập từ lao động, mặt khác, các chi phí cho đời sống hàng ngày tăng lên đột ngột, thậm chí là xuất hiện nhiều loại chi phí mới. Từ đó nhu cầu được bảo hiểm của người lao động và gia đình họ trong các trường hợp này càng trở nên bức xúc. Ngay sau sự ra đời của chế độ bảo hiểm ốm đau, bảo hiểm TNLĐ, BNN đã xuất hiện trong lịch sử hình thành và phát triển của BHXH nói chung với ý nghĩa ràng buộc trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với những rủi ro xảy ra trong quá trình lao động gắn liền với nghề nghiệp của người lao động, đồng thời thể hiện sự quan tâm và trách nhiệm của Nhà nước đối với lực lượng lao động và cộng đồng xã hội nói chung.
7
* Ttheo nghĩa rộng, chế độ TNLĐ, BNN là chế độ BHXH nhằm bù đắp
các chi phí chữa trị, bù đắp hoặc thay thế thu nhập từ lao động của người lao
động bị giảm hoặc mất do giảm hoặc mất khả năng lao động mà nguyên nhân
TNLĐ hoặc BNN. Theo nghĩa này, chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN của
người lao động không chỉ được bảo đảm từ nguồn quỹ bảo hiểm hội
chính người sử dụng lao động cũng phải trực tiếp thanh toán các khoản
liên quan đến việc chữa trị, đảm bảo cuộc sống cho người lao động như: chi
phí y tế, tiền lương trong thời gian điều trị…
* Theo nghĩa hẹp, chế độ TNLĐ, BNN chế độ bảo hiểm hội do
quỹ BHXH chi trả nhằm bù đắp một phần hoặc thay thế thu nhập từ lao động
của người lao động bị giảm hoặc mất do giảm hoặc mất khả năng lao động mà
nguyên nhân TNLĐ hoặc BNN. Như vậy, chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN
của người lao động được đảm bảo từ nguồn quỹ BHXH, không bao gồm các
khoản chi phí trực tiếp do người sử dụng lao động thanh toán. Tuy nhiên, hiểu
theo nghĩa này cũng cần lưu ý trường hợp người sử dụng lao động chưa tham
gia BHXH bắt buộc cho người lao động theo quy định của Nhà nước thì trách
nhiệm chi trả của quỹ bảo hiểm hội sẽ được dịch chuyển sang người sử
dụng lao động để bảo vệ quyền lợi của người lao động. Trong trường hợp
này, người sử dụng lao động sẽ phải trả cho người lao động một khoản tiền
ngang với mức quy định trong các văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội. [29,
tr.160]
* Dưới góc độ pháp , hiện nay chưa có một văn bản pháp lý nào quy
định một cách cụ thể và chính thức về chế độ TNLĐ, BNN, nhưng từ những
quy định của pháp luật hiện hành, có thể rút ra rằng chế độ TNLĐ, BNN
một hệ thống các quy định pháp luật về TNLĐ, BNN, đối tượng, điều kiện
hưởng, mức đóng, mức hưởng, tổ chức thực hiện bảo hiểm TNLĐ, BNN nhằm
7 * Ttheo nghĩa rộng, chế độ TNLĐ, BNN là chế độ BHXH nhằm bù đắp các chi phí chữa trị, bù đắp hoặc thay thế thu nhập từ lao động của người lao động bị giảm hoặc mất do giảm hoặc mất khả năng lao động mà nguyên nhân là TNLĐ hoặc BNN. Theo nghĩa này, chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN của người lao động không chỉ được bảo đảm từ nguồn quỹ bảo hiểm xã hội mà chính người sử dụng lao động cũng phải trực tiếp thanh toán các khoản có liên quan đến việc chữa trị, đảm bảo cuộc sống cho người lao động như: chi phí y tế, tiền lương trong thời gian điều trị… * Theo nghĩa hẹp, chế độ TNLĐ, BNN là chế độ bảo hiểm xã hội do quỹ BHXH chi trả nhằm bù đắp một phần hoặc thay thế thu nhập từ lao động của người lao động bị giảm hoặc mất do giảm hoặc mất khả năng lao động mà nguyên nhân là TNLĐ hoặc BNN. Như vậy, chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN của người lao động được đảm bảo từ nguồn quỹ BHXH, không bao gồm các khoản chi phí trực tiếp do người sử dụng lao động thanh toán. Tuy nhiên, hiểu theo nghĩa này cũng cần lưu ý trường hợp người sử dụng lao động chưa tham gia BHXH bắt buộc cho người lao động theo quy định của Nhà nước thì trách nhiệm chi trả của quỹ bảo hiểm xã hội sẽ được dịch chuyển sang người sử dụng lao động để bảo vệ quyền lợi của người lao động. Trong trường hợp này, người sử dụng lao động sẽ phải trả cho người lao động một khoản tiền ngang với mức quy định trong các văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội. [29, tr.160] * Dưới góc độ pháp lý, hiện nay chưa có một văn bản pháp lý nào quy định một cách cụ thể và chính thức về chế độ TNLĐ, BNN, nhưng từ những quy định của pháp luật hiện hành, có thể rút ra rằng “chế độ TNLĐ, BNN là một hệ thống các quy định pháp luật về TNLĐ, BNN, đối tượng, điều kiện hưởng, mức đóng, mức hưởng, tổ chức thực hiện bảo hiểm TNLĐ, BNN nhằm
8
bảo vệ người lao động trước những rủi ro do TNLĐ, BNN gây ra và đảm bảo
thay thế hoặc đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm
hoặc bị mất thu nhập do TNLĐ, BNN”. Vai trò của pháp luật là xác lập một
hình thức pháp lý nhất định bảo đảm thực hiện bởi một chế pháp luật
thích hợp nhằm kết hợp hài hòa các yếu tố kinh tế và xã hội trong chế độ
TNLĐ, BNN.
Chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN chỉ được coi là thực sự đầy đủ khi được
xem xét là chế độ BHXH nhằm bù đắp chi phí chữa trị và bù đắp, thay thế thu
nhập từ lao động bị mất hoặc giảm của người lao động bị TNLĐ, BNN. Bởi
trong thời gian người lao động nghỉ việc điều trị TNLĐ hoặc BNN, họ
không những bị mất thu nhập từ lao động mà còn phải chịu một loạt các chi
phí y tế phát sinh ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của bản thân và gia đình.
Những thiếu hụt về thu nhập sự tăng lên về chi phí đã xuất hiện nhu cầu
cần được bảo hiểm của người lao động. thể coi những quy định của Nhà
nước về trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc chi trả cho người
lao động trong giai đoạn điều trị là những quy định về trách nhiệm bảo hiểm
trực tiếp của người sử dụng lao động đối với người lao động của mình. Như
vậy, chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN thực hiện hai chức năng, thứ nhất
phòng ngừa TNLĐ, BNN, thứ hai là đảm bảo bù đắp phần thu nhập bị giảm
do mất khả năng lao động, hoặc trợ cấp cho thân nhân trong trường hợp người
lao động chết htrợ các chi phí phát sinh do TNLĐ, BNN như trợ cấp
phục vụ, chi phí y tế và những vấn đề có lien quan.
1.2. Đặc điểm pháp của chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp
một trong số các chế độ bản của BHXH, chế độ TNLĐ, BNN
cũng mang các đặc trưng pháp của chế độ BHXH nói chung, bên cạnh đó
8 bảo vệ người lao động trước những rủi ro do TNLĐ, BNN gây ra và đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc bị mất thu nhập do TNLĐ, BNN”. Vai trò của pháp luật là xác lập một hình thức pháp lý nhất định và bảo đảm thực hiện bởi một cơ chế pháp luật thích hợp nhằm kết hợp hài hòa các yếu tố kinh tế và xã hội trong chế độ TNLĐ, BNN. Chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN chỉ được coi là thực sự đầy đủ khi được xem xét là chế độ BHXH nhằm bù đắp chi phí chữa trị và bù đắp, thay thế thu nhập từ lao động bị mất hoặc giảm của người lao động bị TNLĐ, BNN. Bởi vì trong thời gian người lao động nghỉ việc điều trị TNLĐ hoặc BNN, họ không những bị mất thu nhập từ lao động mà còn phải chịu một loạt các chi phí y tế phát sinh ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của bản thân và gia đình. Những thiếu hụt về thu nhập và sự tăng lên về chi phí đã xuất hiện nhu cầu cần được bảo hiểm của người lao động. Có thể coi những quy định của Nhà nước về trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc chi trả cho người lao động trong giai đoạn điều trị là những quy định về trách nhiệm bảo hiểm trực tiếp của người sử dụng lao động đối với người lao động của mình. Như vậy, chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN thực hiện hai chức năng, thứ nhất là phòng ngừa TNLĐ, BNN, thứ hai là đảm bảo bù đắp phần thu nhập bị giảm do mất khả năng lao động, hoặc trợ cấp cho thân nhân trong trường hợp người lao động chết và hỗ trợ các chi phí phát sinh do TNLĐ, BNN như trợ cấp phục vụ, chi phí y tế và những vấn đề có lien quan. 1.2. Đặc điểm pháp lý của chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp Là một trong số các chế độ cơ bản của BHXH, chế độ TNLĐ, BNN cũng mang các đặc trưng pháp lý của chế độ BHXH nói chung, bên cạnh đó
9
còn một số đặc điểm riêng biệt. Xem xét một cách tổng quát, chế độ
TNLĐ, BNN có một số đặc điểm pháp lý sau:
a. Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp xuất phát từ quan hệ
pháp luật bảo hiểm xã hội mang tính bắt buộc và phát sinh trên cơ sở quan
hệ lao động.
BHXH một trong những chính sách hội bản của Nhà nước,
được áp dụng cho mọi người lao động. Tuy nhiên, chế độ TNLĐ, BNN lại
tính bắt buộc đối với một số đối tượng lao động nhất định. Quy định bắt buộc
của Nhà nước nhằm mục đích ràng buộc trách nhiệm của người sử dụng lao
động với người lao động trong và sau quá trình sử dụng lao động. Họ không
chỉ phải trả tiền lương cho người lao động khi làm việc mà còn phải đóng quỹ
BHXH để đảm bảo đời sống cho người lao động bị TNLĐ, BNN. Vì vậy, đối
với những người lao động việc làm thu nhập tương đối ổn định,
muốn hay không, khi đã tham gia quan hệ lao động thì đồng thời họ và người
sử dụng sức lao động của họ cũng phải tham gia quan hệ BHXH theo quy
định của pháp luật, trong đó chế độ TNLĐ, BNN. Do đó, chế độ TNLĐ,
BNN phát sinh trên cơ sở của quan hệ lao động. Theo quy định hiện hành của
Luật BHXH, chế độ TNLĐ, BNN một trong số các hình thức BHXH bắt
buộc.
b. Nghĩa vụ đóng góp vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
chủ yếu là của người sử dụng lao động
TNLĐ, BNN những rủi ro gắn liền với quá trình lao động sản xuất.
Cùng với sự phát triển của các ngành công nghiệp, các rủi ro xu hướng
diễn ra thường xuyên hơn. Thời kỳ đầu, người lao động nếu bị TNLĐ hoặc
BNN thì phải tự mình khắc phục, hoặc dựa vào sự trợ giúp từ cộng đồng,
hoặc dựa vào sự phân xử của toà án. Dần dần những nguyên tắc xác định
trách nhiệm đền bù cho người lao động mới được đặt ra.
9 còn có một số đặc điểm riêng biệt. Xem xét một cách tổng quát, chế độ TNLĐ, BNN có một số đặc điểm pháp lý sau: a. Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp xuất phát từ quan hệ pháp luật bảo hiểm xã hội mang tính bắt buộc và phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động. BHXH là một trong những chính sách xã hội cơ bản của Nhà nước, được áp dụng cho mọi người lao động. Tuy nhiên, chế độ TNLĐ, BNN lại có tính bắt buộc đối với một số đối tượng lao động nhất định. Quy định bắt buộc của Nhà nước nhằm mục đích ràng buộc trách nhiệm của người sử dụng lao động với người lao động trong và sau quá trình sử dụng lao động. Họ không chỉ phải trả tiền lương cho người lao động khi làm việc mà còn phải đóng quỹ BHXH để đảm bảo đời sống cho người lao động bị TNLĐ, BNN. Vì vậy, đối với những người lao động có việc làm và thu nhập tương đối ổn định, dù muốn hay không, khi đã tham gia quan hệ lao động thì đồng thời họ và người sử dụng sức lao động của họ cũng phải tham gia quan hệ BHXH theo quy định của pháp luật, trong đó có chế độ TNLĐ, BNN. Do đó, chế độ TNLĐ, BNN phát sinh trên cơ sở của quan hệ lao động. Theo quy định hiện hành của Luật BHXH, chế độ TNLĐ, BNN là một trong số các hình thức BHXH bắt buộc. b. Nghĩa vụ đóng góp vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp chủ yếu là của người sử dụng lao động TNLĐ, BNN là những rủi ro gắn liền với quá trình lao động sản xuất. Cùng với sự phát triển của các ngành công nghiệp, các rủi ro có xu hướng diễn ra thường xuyên hơn. Thời kỳ đầu, người lao động nếu bị TNLĐ hoặc BNN thì phải tự mình khắc phục, hoặc dựa vào sự trợ giúp từ cộng đồng, hoặc dựa vào sự phân xử của toà án. Dần dần những nguyên tắc xác định trách nhiệm đền bù cho người lao động mới được đặt ra.
10
Khi đ cập đến trách nhiệm đền cho người bị nạn t trước tiên
người ta nghĩ đến trách nhiệm của người sử dụng lao động bởi lẽ họ là người
thuê lao động, có quyền tổ chức và quản lý lao động, vì vậy họ phải chịu trách
nhiệm về những rủi ro xảy ra trong quá trình lao động làm ảnh hưởng đến sức
khoẻ, tính mạng, đời sống của người lao động, đặc biệt trong trường hợp
người lao động bị TNLĐ, BNN. Khi n sức lao động, còn khả năng lao
động, người lao động tham gia quan hệ lao động, được hưởng lương và mang
lại lợi nhuận cho người lao động. vậy, khi họ bị suy giảm hoặc mất khả
năng lao động thì người sử dụng lao động có một phần trách nhiệm.Vì vậy từ
cuối thế kỷ XIX, pháp luật của nhiều nước đã quy định đền bù đối với rủi ro
nghề nghiệp là trách nhiệm của người sử dụng lao động. Khi chế độ TNLĐ,
BNN ra đời, trách nhiệm đền của người sử dụng lao động được chuyển
sang cho tổ chức bảo hiểm với điều kiện là người sử dụng lao động phải đóng
phí cho t chức bảo hiểm. Vì vậy hiện nay, các nước đều quy định trách
nhiệm đóng góp vào quỹ TNLĐ, BNN của người sử dụng lao động. Theo
quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 92 Luật BHXH, người sử dụng lao động
phải đóng vào quỹ TNLĐ, BNN với mức 1% trên quỹ tiền lương, tiền công
đóng BHXH của người lao động.
1.3. Ý nghĩa của chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
BHXH về TNLĐ, BNN đối với người lao động nước ta được xác
định trong hệ thống các chế độ BHXH với mục đích đảm bảo cho người lao
động trong quá trình tham gia lao động bị TNLĐ hoặc BNN được điều trị ổn
định để phục hồi chức năng và khả năng lao động, được bố trí công việc phù
hợp, được bù đắp về vật chất và tinh thần để ổn định cuộc sống cho bản thân
và gia đình khi bị mất toàn bộ hoặc một phần khả năng lao động.
Ngoài ra, BHXH về TNLĐ, BNN còn có ý nghĩa to lớn về chính trị, xã
hội trong việc thực hiện nhiệm vụ đảm bảo an toàn an sinh hội cho
người lao động nói riêng và xã hội nói chung.
10 Khi đề cập đến trách nhiệm đền bù cho người bị nạn thì trước tiên người ta nghĩ đến trách nhiệm của người sử dụng lao động bởi lẽ họ là người thuê lao động, có quyền tổ chức và quản lý lao động, vì vậy họ phải chịu trách nhiệm về những rủi ro xảy ra trong quá trình lao động làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, tính mạng, đời sống của người lao động, đặc biệt trong trường hợp người lao động bị TNLĐ, BNN. Khi còn sức lao động, còn khả năng lao động, người lao động tham gia quan hệ lao động, được hưởng lương và mang lại lợi nhuận cho người lao động. Vì vậy, khi họ bị suy giảm hoặc mất khả năng lao động thì người sử dụng lao động có một phần trách nhiệm.Vì vậy từ cuối thế kỷ XIX, pháp luật của nhiều nước đã quy định đền bù đối với rủi ro nghề nghiệp là trách nhiệm của người sử dụng lao động. Khi chế độ TNLĐ, BNN ra đời, trách nhiệm đền bù của người sử dụng lao động được chuyển sang cho tổ chức bảo hiểm với điều kiện là người sử dụng lao động phải đóng phí cho tổ chức bảo hiểm. Vì vậy hiện nay, các nước đều quy định trách nhiệm đóng góp vào quỹ TNLĐ, BNN là của người sử dụng lao động. Theo quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 92 Luật BHXH, người sử dụng lao động phải đóng vào quỹ TNLĐ, BNN với mức 1% trên quỹ tiền lương, tiền công đóng BHXH của người lao động. 1.3. Ý nghĩa của chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp BHXH về TNLĐ, BNN đối với người lao động ở nước ta được xác định trong hệ thống các chế độ BHXH với mục đích đảm bảo cho người lao động trong quá trình tham gia lao động bị TNLĐ hoặc BNN được điều trị ổn định để phục hồi chức năng và khả năng lao động, được bố trí công việc phù hợp, được bù đắp về vật chất và tinh thần để ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình khi bị mất toàn bộ hoặc một phần khả năng lao động. Ngoài ra, BHXH về TNLĐ, BNN còn có ý nghĩa to lớn về chính trị, xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ đảm bảo an toàn và an sinh xã hội cho người lao động nói riêng và xã hội nói chung.
11
a. Đối với người lao động
Chế độ TNLĐ, BNN quy định tất cả những vấn đề liên quan đến TNLĐ
BNN như đối tượng áp dụng, điều kiện hưởng, mức bồi thường, trợ cấp,
đặc biệt là trách nhiệm của người sử dụng lao động và cơ quan BHXH đối với
người lao động bị TNLĐ, BNN. Qua đó giúp người lao động biết được những
quyền lợi nào họ sẽ được hưởng nếu xảy ra TNLĐ, BNN, mức hưởng là bao
nhiêu và ai là chủ thể bồi thường hay trợ cấp cho họ; biết được người sử dụng
lao động thực hiện đúng những quy định của pháp luật hay không, nếu
không thì kịp thời tiến hành các thủ tục pháp để bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của mình; chế độ TNLĐ, BNN giúp người lao động bị TNLĐ,
BNN có một khoản tài chính để khắc phục hậu quả do tai nạn gây ra, củng cố
tinh thần cũng như niềm tin của họ vào Nhà nước.
b. Đối với người sử dụng lao động và cơ quan bảo hiểm xã hội
Việc quy định cụ thể chế độ TNLĐ, BNN sẽ giúp họ xác định được
chính xác trách nhiệm của mình đến đâu khi người lao động bị TNLĐ, BNN.
Ví dụ trường hợp người sử dụng lao động có tham gia đóng bảo hiểm
hội bắt buộc cho người lao động thì khi xảy ra TNLĐ, BNN, người sử
dụng lao động chỉ phải chi trả chi phí y tế khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị
xong cho người lao động, còn chi phí bồi thường sẽ do quan bảo hiểm xã
hội nơi họ tham gia bảo hiểm chi trả.
c. Đối với cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp
Những quy định cụ thể, ràng về chế độ TNLĐ, BNN sẽ sở
pháp lý quan trọng để họ sử dụng làm căn cứ giải quyết các tranh chấp phát
sinh một cách chính xác, hợp tình hợp lý; đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các
bên liên quan, qua đó góp phần duy trì ổn định xã hội.
11 a. Đối với người lao động Chế độ TNLĐ, BNN quy định tất cả những vấn đề liên quan đến TNLĐ và BNN như đối tượng áp dụng, điều kiện hưởng, mức bồi thường, trợ cấp, đặc biệt là trách nhiệm của người sử dụng lao động và cơ quan BHXH đối với người lao động bị TNLĐ, BNN. Qua đó giúp người lao động biết được những quyền lợi nào họ sẽ được hưởng nếu xảy ra TNLĐ, BNN, mức hưởng là bao nhiêu và ai là chủ thể bồi thường hay trợ cấp cho họ; biết được người sử dụng lao động có thực hiện đúng những quy định của pháp luật hay không, nếu không thì kịp thời tiến hành các thủ tục pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình; chế độ TNLĐ, BNN giúp người lao động bị TNLĐ, BNN có một khoản tài chính để khắc phục hậu quả do tai nạn gây ra, củng cố tinh thần cũng như niềm tin của họ vào Nhà nước. b. Đối với người sử dụng lao động và cơ quan bảo hiểm xã hội Việc quy định cụ thể chế độ TNLĐ, BNN sẽ giúp họ xác định được chính xác trách nhiệm của mình đến đâu khi người lao động bị TNLĐ, BNN. Ví dụ trường hợp người sử dụng lao động có tham gia đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc cho người lao động thì khi xảy ra TNLĐ, BNN, người sử dụng lao động chỉ phải chi trả chi phí y tế khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị xong cho người lao động, còn chi phí bồi thường sẽ do cơ quan bảo hiểm xã hội nơi họ tham gia bảo hiểm chi trả. c. Đối với cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp Những quy định cụ thể, rõ ràng về chế độ TNLĐ, BNN sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để họ sử dụng làm căn cứ giải quyết các tranh chấp phát sinh một cách chính xác, hợp tình hợp lý; đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan, qua đó góp phần duy trì ổn định xã hội.
12
1.4. Lược sử pháp luật về chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp ở Việt Nam
a. Giai đoạn từ 1945-1960
Trong giai đoạn này, chính phủ đã ban hành một số Sắc lệnh như: Sắc
lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 quy định về các quan hệ làm công giữa các chủ
nhân việt nam người ngoại quốc với các công dân Việt Nam; Sắc lệnh số
76/SL ngày 20/5/1950 của Chính phủ về quy chế công chức; Sắc lệnh số
77/SL ngày 22/5/2950 của Chính phủ về quy chế công nhân… quy định về
các chế độ bảo hiểm cho người lao động, trong đó chế độ TNLĐ, BNN.
Tuy nhiên, đối tượng hưởng chế độ này chỉ bao gồm cán bộ, công chức.
Giai đoạn 1945- 1960, Nhà nước vẫn chưa quy định về việc đóng bảo
hiểm TNLĐ, BNN. Vì vậy, các đơn vị sử dụng lao động phải chịu toàn bộ các
chi phí liên quan đến người lao động bị TNLĐ, BNN như chi phí y tế, chi phí
bồi thường…
Nhìn chung trong giai đoạn này chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN chưa được
quy định một cách toàn diện, quỹ bảo hiểm xã hội chưa được hình thành.
b. Giai đoạn từ 1960 đến 1986
Giai đoạn y pháp luật đã quy định cthể hơn về chế độ bảo hiểm
TNLĐ, BNN.
Ngày 27/12/1961, Nhà nước ta đã ban hành Nghị định số 218/CP quy
định việc đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Trước khi Nghị định
số 218/CP ngày 27/12/1961 ban hành Điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm
xã hội đối với công nhân, viên chức Nhà nước, việc đóng bảo hiểm xã hội cho
người lao động chưa được thực hiện ở nước ta. Vì vậy, các đơn vị sử dụng lao
động phải chịu toàn bộ phí tổn có liên quan tới người bị TNLĐ, như: chi phí y
tế, bồi thường, trợ cấp. Giai đoạn này, Nhà nước là chủ sử dụng lao động của
12 1.4. Lược sử pháp luật về chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ở Việt Nam a. Giai đoạn từ 1945-1960 Trong giai đoạn này, chính phủ đã ban hành một số Sắc lệnh như: Sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 quy định về các quan hệ làm công giữa các chủ nhân việt nam và người ngoại quốc với các công dân Việt Nam; Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chính phủ về quy chế công chức; Sắc lệnh số 77/SL ngày 22/5/2950 của Chính phủ về quy chế công nhân… quy định về các chế độ bảo hiểm cho người lao động, trong đó có chế độ TNLĐ, BNN. Tuy nhiên, đối tượng hưởng chế độ này chỉ bao gồm cán bộ, công chức. Giai đoạn 1945- 1960, Nhà nước vẫn chưa quy định về việc đóng bảo hiểm TNLĐ, BNN. Vì vậy, các đơn vị sử dụng lao động phải chịu toàn bộ các chi phí liên quan đến người lao động bị TNLĐ, BNN như chi phí y tế, chi phí bồi thường… Nhìn chung trong giai đoạn này chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN chưa được quy định một cách toàn diện, quỹ bảo hiểm xã hội chưa được hình thành. b. Giai đoạn từ 1960 đến 1986 Giai đoạn này pháp luật đã quy định cụ thể hơn về chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN. Ngày 27/12/1961, Nhà nước ta đã ban hành Nghị định số 218/CP quy định việc đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Trước khi có Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 ban hành Điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm xã hội đối với công nhân, viên chức Nhà nước, việc đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động chưa được thực hiện ở nước ta. Vì vậy, các đơn vị sử dụng lao động phải chịu toàn bộ phí tổn có liên quan tới người bị TNLĐ, như: chi phí y tế, bồi thường, trợ cấp. Giai đoạn này, Nhà nước là chủ sử dụng lao động của
13
toàn bộ lực lượng xã hội, vì vậy Nhà nước phải chịu toàn bộ trách nhiệm khi
người lao động bị TNLĐ, BNN.
Pháp luật đã quy định khá rộng về các trường hợp được coi là TNLĐ.
Không chỉ những người lao động bị TNLĐ trong khi đang thực hiện nghĩa vụ
lao động được giao mà cả những người tham gia vào việc cứu tài sản của Nhà
nước mà bị tai nạn cũng được coi là TNLĐ. Theo Nghị định số 218/CP, người
lao động bị TNLĐ, BNN được trợ cấp từ 01 đến 04 tháng lương chính đối với
trường hợp trợ cấp một lần, từ 7% đến 70% lương chính đối với trường hợp
trợ cấp hang tháng tùy vào tỷ lệ thương tật, bệnh tật.
Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, về thực chất, trách nhiệm
bồi thường cho người lao động bị TNLĐ, BNN được chuyển sang Nhà nước.
Nhà nước thực hiện trách nhiệm của mình đối với người lao động bị TNLĐ,
BNN với cách một người sử dụng lao động với cách là người thực
hiện BHXH đồng thời là chủ thể quản lý xã hội. Đối tượng tham gia bảo hiểm
TNLĐ, BNN trong giai đoạn này chỉ ở trong phạm vi công nhân viên chức và
lực lượng vũ trang. Quỹ BHXH trong thời kỳ này vẫn còn phụ thuộc vào ngân
sách nhà nước, việc quản lý quỹ chưa có sự thống nhất chặt chẽ.
Ngày 18/9/1985, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 236/HĐBT về
việc sửa đổi, bổ sung chính sách chế độ BHXH đối với người lao động,
trong đó quy định mọi người lao động đều có quyền được hưởng chế độ bảo
hiểm TNLĐ, BNN.
Ở giai đoạn này, chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN đã được quy định. Tuy
nhiên phạm vi, đối tượng được hưởng BHXH vẫn còn hạn chế, điều kiện
hưởng bảo hiểm tai nạn còn khá rộng.
c. Giai đoạn từ 1986 đến nay
Giai đoạn từ 1986 – 1994:
13 toàn bộ lực lượng xã hội, vì vậy Nhà nước phải chịu toàn bộ trách nhiệm khi người lao động bị TNLĐ, BNN. Pháp luật đã quy định khá rộng về các trường hợp được coi là TNLĐ. Không chỉ những người lao động bị TNLĐ trong khi đang thực hiện nghĩa vụ lao động được giao mà cả những người tham gia vào việc cứu tài sản của Nhà nước mà bị tai nạn cũng được coi là TNLĐ. Theo Nghị định số 218/CP, người lao động bị TNLĐ, BNN được trợ cấp từ 01 đến 04 tháng lương chính đối với trường hợp trợ cấp một lần, từ 7% đến 70% lương chính đối với trường hợp trợ cấp hang tháng tùy vào tỷ lệ thương tật, bệnh tật. Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, về thực chất, trách nhiệm bồi thường cho người lao động bị TNLĐ, BNN được chuyển sang Nhà nước. Nhà nước thực hiện trách nhiệm của mình đối với người lao động bị TNLĐ, BNN với tư cách một người sử dụng lao động và với tư cách là người thực hiện BHXH đồng thời là chủ thể quản lý xã hội. Đối tượng tham gia bảo hiểm TNLĐ, BNN trong giai đoạn này chỉ ở trong phạm vi công nhân viên chức và lực lượng vũ trang. Quỹ BHXH trong thời kỳ này vẫn còn phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, việc quản lý quỹ chưa có sự thống nhất chặt chẽ. Ngày 18/9/1985, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 236/HĐBT về việc sửa đổi, bổ sung chính sách và chế độ BHXH đối với người lao động, trong đó quy định mọi người lao động đều có quyền được hưởng chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN. Ở giai đoạn này, chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN đã được quy định. Tuy nhiên phạm vi, đối tượng được hưởng BHXH vẫn còn hạn chế, điều kiện hưởng bảo hiểm tai nạn còn khá rộng. c. Giai đoạn từ 1986 đến nay Giai đoạn từ 1986 – 1994: