Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An

6,704
479
91
65
2.4.2.2. Nguyên nhân ca nhng hn chế, vướng mc
Thứ nhất, lực lượng mỏng, trong đó đội ngũ chuyên trách chống hàng cấm
chiếm số lượng nhỏ, lực lượng chủ yếu là cán bộ điều tra chống tội phạm của Công
an, Hải quan. Lực lượng chống hàng cấm của Biên phòng, Quản thị trường còn
thiếu, nhiều người chưa qua đào tạo bản, chuyên sâu về nghiệp vụ chống hàng
cấm. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của lực lượng chức năng còn yếu chưa đồng
đều gây khó khăn trong việc kiểm tra phát hiện các thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của
tội phạm hàng cấm. Ngoài ra một số bộ phận chính trị không vững vàng, vì lợi ích
kinh tế đã tiếp tay cho tội phạm hàng cấm, y ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu
quả công tác điều tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm hàng
cấm nói riêng. Địa hình hiểm trở, nhiều vùng hoang vu, đi lại khó khăn tạo điều
kiện cho các đối tượng có thể dễ dàng tàng trữ, vận chuyển hàng cấm (các loại pháo
thuốc điếu sản xuất nước ngoài) lẩn trốn khỏi sự truy bắt của quan
chức năng. Nhận thức của người dân còn lạc hậu, trình độ dân trí thấp dẫn tới việc
quan niệm sử dụng hàng cấm còn diễn ra trong đời sống hàng ngày như sử dụng
pháo nổ tại các dịp lễ Tết. Phương tiện kthuật trang bị cho lực lượng điều tra,
chống hàng cấm còn thiếu lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu công tác phòng
chống tội phạm trong tình hình mới.
Thứ hai, nhiều vụ tàng trữ, vận chuyển hàng cấm được chuyển xử hành
chính, đây là biện pháp xử lý đơn giản nhất về thủ tục, tài sản hàng hóa tịch thu, số
tiền phạt hành chính cũng góp phần bổ sung ngân sách địa phương nên biện pháp
này chủ yếu được áp dụng nên không đủ hiệu lực để ngăn chặn tội phạm một cách
có hiệu quả. Xét xử còn tiến hành chậm chạp, chưa kịp thời.
Thứ ba, hệ thống văn bản pháp luật còn chậm được sửa đổi bổ sung cho phù
hợp với tình hình thực tiễn. Thực tế hiện nay có quá nhiều văn bản quản lý đối với
loại hàng đó đã không còn hiệu lực hoặc còn rất nhiều văn bản còn hiệu lực hiện
hành, hướng dẫn của nhiều đơn vị, cơ quan ban ngành địa phương trên nhiều lĩnh
vực chồng chéo, mâu thuẫn nhau như: Nghi định số 59/2006/NĐ-CP quy định chi
tiết luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh
65 2.4.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc Thứ nhất, lực lượng mỏng, trong đó đội ngũ chuyên trách chống hàng cấm chiếm số lượng nhỏ, lực lượng chủ yếu là cán bộ điều tra chống tội phạm của Công an, Hải quan. Lực lượng chống hàng cấm của Biên phòng, Quản lý thị trường còn thiếu, nhiều người chưa qua đào tạo cơ bản, chuyên sâu về nghiệp vụ chống hàng cấm. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của lực lượng chức năng còn yếu chưa đồng đều gây khó khăn trong việc kiểm tra phát hiện các thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của tội phạm hàng cấm. Ngoài ra một số bộ phận chính trị không vững vàng, vì lợi ích kinh tế đã tiếp tay cho tội phạm hàng cấm, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả công tác điều tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm hàng cấm nói riêng. Địa hình hiểm trở, nhiều vùng hoang vu, đi lại khó khăn tạo điều kiện cho các đối tượng có thể dễ dàng tàng trữ, vận chuyển hàng cấm (các loại pháo và thuốc lá điếu sản xuất ở nước ngoài) và lẩn trốn khỏi sự truy bắt của cơ quan chức năng. Nhận thức của người dân còn lạc hậu, trình độ dân trí thấp dẫn tới việc quan niệm sử dụng hàng cấm còn diễn ra trong đời sống hàng ngày như sử dụng pháo nổ tại các dịp lễ Tết. Phương tiện kỹ thuật trang bị cho lực lượng điều tra, chống hàng cấm còn thiếu và lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới. Thứ hai, nhiều vụ tàng trữ, vận chuyển hàng cấm được chuyển xử lý hành chính, đây là biện pháp xử lý đơn giản nhất về thủ tục, tài sản hàng hóa tịch thu, số tiền phạt hành chính cũng góp phần bổ sung ngân sách địa phương nên biện pháp này chủ yếu được áp dụng nên không đủ hiệu lực để ngăn chặn tội phạm một cách có hiệu quả. Xét xử còn tiến hành chậm chạp, chưa kịp thời. Thứ ba, hệ thống văn bản pháp luật còn chậm được sửa đổi bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Thực tế hiện nay có quá nhiều văn bản quản lý đối với loại hàng đó đã không còn hiệu lực hoặc còn rất nhiều văn bản còn hiệu lực hiện hành, hướng dẫn của nhiều đơn vị, cơ quan ban ngành địa phương trên nhiều lĩnh vực chồng chéo, mâu thuẫn nhau như: Nghi định số 59/2006/NĐ-CP quy định chi tiết luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và
66
kinh doanh điều kiện; Nghị định số 187/2013/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm
2013 quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa
quốc tế các hoạt động đại mua bán gia công quá cảnh hàng hóa với nước
ngoài; Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 7 tháng 5 năm 2009 về sửa đổi bổ sung
danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh của Nghị định 59/2006/NĐ-CP hướng
dẫn thi hành Luật thương mại về hàng hóa dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh
doanh kinh doanh có điều kiện, Nghị định số 02/1995/NĐ-CP ngày 5 tháng 1
năm 1995 của Chính phủ quy đinh về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế
kinh doanh kinh doanh điều kiện thị trường trong nước; Nghị định số
11/1999/NĐ-CP ngày 3 tháng 3 năm 1999 của Chính phủ về hàng hóa cấm lưu
thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện; hàng hóa, dịch vụ thương mại hạn chế
kinh doanh, kinh doanh điều kiện; Quyết định số 88/2000/QĐ- BTM ngày 18
tháng 1 năm 2000 của Bộ thương mại về ban hành danh mục chi tiết hàng hóa cấm
lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện; hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh,
kinh doanh điều kiện; Quyết định số 40/2006/QĐ-BCN ngày 01 tháng 12 năm
2006 của Bộ Công nghiệp bổ sung danh mục hóa chất cấm xuất khẩu, cấm nhập
khẩu Ban hành kèm theo Quyết định số 05/2006/QĐ-BCN ngày 07 tháng 4 năm
2006 của Bộ Công nghiệp về việc công bố danh mục hóa chất cấm xuất khẩu, cấm
nhập khẩu; Quyết định số 06/2006/QĐ-BCN ngày 10 tháng 4 năm 2006 của Bộ
Công nghiệp về việc công bố danh mục hàng cấm nhập khẩu phương tiện đã qua sử
dụng; Quyết đinh số 80/2006/QĐ-BQP ngày 9 tháng 5 năm 2006 của Bộ Quốc
phòng về việc công bố danh mục hàng cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu khí đạn
dược, vật liệu nổ, trang thiết bị quân sự...
Thứ tư, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chưa đạt được
hiệu quả cao, các phương tiện thông tin truyền thông chưa thường xuyên nội
dung phản ánh đúng đắn kịp thời thực trạng, mối nguy hiểm của tệ nạn buôn bán
hàng cấm khiến người dân chưa tích cực tham gia vào phong trào đấu tranh phòng
chống tội phạm hàng cấm, không tố giác tội phạm hoặc tiếp tay cho tội phạm.
Thứ năm, chính quyền địa phương chưa có những chỉ đạo mạnh mẽ trong
66 kinh doanh có điều kiện; Nghị định số 187/2013/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2013 quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua bán gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài; Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 7 tháng 5 năm 2009 về sửa đổi bổ sung danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh của Nghị định 59/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật thương mại về hàng hóa dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện, Nghị định số 02/1995/NĐ-CP ngày 5 tháng 1 năm 1995 của Chính phủ quy đinh về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện ở thị trường trong nước; Nghị định số 11/1999/NĐ-CP ngày 3 tháng 3 năm 1999 của Chính phủ về hàng hóa cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện; hàng hóa, dịch vụ thương mại hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện; Quyết định số 88/2000/QĐ- BTM ngày 18 tháng 1 năm 2000 của Bộ thương mại về ban hành danh mục chi tiết hàng hóa cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện; hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện; Quyết định số 40/2006/QĐ-BCN ngày 01 tháng 12 năm 2006 của Bộ Công nghiệp bổ sung danh mục hóa chất cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu Ban hành kèm theo Quyết định số 05/2006/QĐ-BCN ngày 07 tháng 4 năm 2006 của Bộ Công nghiệp về việc công bố danh mục hóa chất cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu; Quyết định số 06/2006/QĐ-BCN ngày 10 tháng 4 năm 2006 của Bộ Công nghiệp về việc công bố danh mục hàng cấm nhập khẩu phương tiện đã qua sử dụng; Quyết đinh số 80/2006/QĐ-BQP ngày 9 tháng 5 năm 2006 của Bộ Quốc phòng về việc công bố danh mục hàng cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu vũ khí đạn dược, vật liệu nổ, trang thiết bị quân sự... Thứ tư, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chưa đạt được hiệu quả cao, các phương tiện thông tin truyền thông chưa thường xuyên có nội dung phản ánh đúng đắn kịp thời thực trạng, mối nguy hiểm của tệ nạn buôn bán hàng cấm khiến người dân chưa tích cực tham gia vào phong trào đấu tranh phòng chống tội phạm hàng cấm, không tố giác tội phạm hoặc tiếp tay cho tội phạm. Thứ năm, chính quyền địa phương chưa có những chỉ đạo mạnh mẽ trong
67
công tác phòng chống tội phạm hàng cấm, sự chỉ đạo còn chung chung chưa có biện
pháp cụ thể, bám sát tình hình địa phương. Tình hình hiện nay cho thấy, tại một số
cơ quan điều tra, truy tố, xét xử ở cấp huyện khối lượng công việc nhiều đồng thời
giải quyết nhiều loại công việc, vì thế phần nào làm ảnh hưởng đến tiến độ điều tra,
xét xử các vụ án về hàng cấm.
2.5. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật về tội tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm
2.5.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội,tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
Thứ nhất, về xác định căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự, theo đó quy
định trong Bộ luật Hình sự tại Điều 191 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm
2017 quy định một cách chua rõ khái niệm thế nào là tội phạm tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm. Quy định tại khoản 1 Điều 191 BLHS cho thấy, việc mô tả cấu thành tội
phạm mà dấu hiệu về đối tượng tác động của tội phạm còn chung chung - hàng cấm;
phạm vi điều chỉnh quá rộng - các loại hàng hóa mà Nhà nước cấm hoặc chưa được
phép tàng trữ, vận chuyển kinh doanh trái phép. Trong khi đó, danh mục các loại
hàng hóa thuộc hàng cấm tàng trữ, vận chuyển trái phép chỉ quy định một số loại
hàng hóa như thuốc bảo vệ thực vật, thuốc lá điếu nhập lậu, pháo nổ mà còn một số
hàng cấm khác quy định tại các điểm d, đ không được quy định cụ thể trong Điều
luật chủ yếu do Chính phủ hoặc bộ chuyên ngành quy định. Như vậy, để xác
định một loại hàng hóa nào đó thuộc “hàng hóa khác mà Nhà nước cấm kinh doanh,
cấm lưu hành, cấm sử dụng” và “hàng hóa chưa được phép lưu hành, chưa được
phép sử dụng tại Việt Nam” thì cơ quan tiến hành tố tụng phải căn cứ vào rất nhiều
các nghị định của Chính phủ, quyết định của bộ chuyên ngành ban hành. Trong
thực tế, các văn bản này luôn sửa đổi, bổ sung liên tục để đáp ứng yêu cầu điều
chỉnh của pháp luật đối sự phát triển của nền kinh tế trong từng giai đoạn khác nhau.
Vì vậy, có thể loại hàng hóa này ở thời điểm này sẽ bị cấm kinh doanh nhưng ở thời
điểm khác thể được phép kinh doanh hoặc ngược lại. Do đó, cần bổ sung quy
định khái niệm về hàng cấm các vấn đề khác có liên quan vào các khoản tương
ứng với các thông tư, nghị định. Bởi không xác định được thế nào hàng cấm thì
sẽ không thể nhận thức đúng việc tàng trữ, vận chuyển hàng cấm đáp ứng yêu cầu
67 công tác phòng chống tội phạm hàng cấm, sự chỉ đạo còn chung chung chưa có biện pháp cụ thể, bám sát tình hình địa phương. Tình hình hiện nay cho thấy, tại một số cơ quan điều tra, truy tố, xét xử ở cấp huyện khối lượng công việc nhiều đồng thời giải quyết nhiều loại công việc, vì thế phần nào làm ảnh hưởng đến tiến độ điều tra, xét xử các vụ án về hàng cấm. 2.5. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm 2.5.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội,tàng trữ, vận chuyển hàng cấm Thứ nhất, về xác định căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự, theo đó quy định trong Bộ luật Hình sự tại Điều 191 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định một cách chua rõ khái niệm thế nào là tội phạm tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Quy định tại khoản 1 Điều 191 BLHS cho thấy, việc mô tả cấu thành tội phạm mà dấu hiệu về đối tượng tác động của tội phạm còn chung chung - hàng cấm; phạm vi điều chỉnh quá rộng - các loại hàng hóa mà Nhà nước cấm hoặc chưa được phép tàng trữ, vận chuyển kinh doanh trái phép. Trong khi đó, danh mục các loại hàng hóa thuộc hàng cấm tàng trữ, vận chuyển trái phép chỉ quy định một số loại hàng hóa như thuốc bảo vệ thực vật, thuốc lá điếu nhập lậu, pháo nổ mà còn một số hàng cấm khác quy định tại các điểm d, đ không được quy định cụ thể trong Điều luật mà chủ yếu do Chính phủ hoặc bộ chuyên ngành quy định. Như vậy, để xác định một loại hàng hóa nào đó thuộc “hàng hóa khác mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng” và “hàng hóa chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam” thì cơ quan tiến hành tố tụng phải căn cứ vào rất nhiều các nghị định của Chính phủ, quyết định của bộ chuyên ngành ban hành. Trong thực tế, các văn bản này luôn sửa đổi, bổ sung liên tục để đáp ứng yêu cầu điều chỉnh của pháp luật đối sự phát triển của nền kinh tế trong từng giai đoạn khác nhau. Vì vậy, có thể loại hàng hóa này ở thời điểm này sẽ bị cấm kinh doanh nhưng ở thời điểm khác có thể được phép kinh doanh hoặc ngược lại. Do đó, cần bổ sung quy định khái niệm về hàng cấm và các vấn đề khác có liên quan vào các khoản tương ứng với các thông tư, nghị định. Bởi không xác định được thế nào là hàng cấm thì sẽ không thể nhận thức đúng việc tàng trữ, vận chuyển hàng cấm đáp ứng yêu cầu
68
về tính khái quát cao,dễ hiểu để các quan tư pháp dễ vận dụng trong áp dụng
pháp luật.
Thêm nữa, Điều 191 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017đã có dấu hiệu
định lượng, số lượng thu lợi bất chính, giá trịmột số “hàng phạm pháp” cụ thể. Theo
đó,có quy định về việc xác định người có hành vi vi phạm pháp luật phải chịu trách
nhiệm hình sự hay không phải căn cứ vào mặt hàng phạm pháp đã liệt kê trong điều
luật hoặc giá trị hàng phạm pháp.Tuy nhiên, vấn đề đặt ra mặt hàng Nhà nước
cấm thì việc xác định giá trị hàng phạm pháp là khá cơ sở được tính như
thế nào cũng rất khó đặt ra cũng như cơ quan nào có trách nhiệm thẩm định giá và
căn cứ vào giá nào để áp giá xác định giá trị hàng phạm pháp có đủ định lượng truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi này đều là những bất cập cần giải quyết khi
áp dụng vào thực tế
Thứ hai, trên cơ sở những Danh mục hàng hóa cấm kinh doanh Chính phủ
các bộ chuyên ngành ban hành để xem xét thêm những loại hàng hóa hiện nay và
trong tương lai sẽ luôn cấm tàng trữ, vận chuyển để quy định cụ thể trong BLHS
nhằm đảm bảo tính công bằng, tránh sự phụ thuộc vào các văn bản dưới luật, trên
cơ sở phân biệt rõ ràng đặc tính, công dụng, tính nguy hiểm cho xã hội. Ví dụ như:
Nghiêm cấm tàng trữ, vận chuyển hàng hóa là văn hóa phản động, đồi trụy, phế liệu
gây ô nhiễm môi trường, khoáng sản đặc biệt độc hại ... Làm được điều này không
chỉ ý nghĩa với các quan tiến hành tố tụng còn với cả những hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp nhân trong ngoài nước, nâng cao tính tự chủ,
năng động trong kinh doanh, giúp họ nhận biết được đâu là hàng cấm để tránh tàng
trữ, vận chuyển cũng như kinh doanh, sản xuất.
2.5.2. Tăng cường công tác kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các VAHS về
tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
Hoạt động pháp bao gồm: Việc phát hiện tội phạm, khởi tố, điều tra, thu
thập chứng cứ trong các VAHS do Cơ quan điều tra thực hiện; hoạt động kiểm sát
khởi tố VAHS, khởi tố bị can, kiểm sát điều tra, kiểm sát giam giữ, cải tạo, kiểm sát
xét xử, kiểm sát thi hành án do Viện kiểm sát thực hiện; hoạt động xét xử các
VAHS, giải quyết xét xử các vụ, việc tranh chấp khác do TAND thực hiện
68 về tính khái quát cao,dễ hiểu để các cơ quan tư pháp dễ vận dụng trong áp dụng pháp luật. Thêm nữa, Điều 191 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017đã có dấu hiệu định lượng, số lượng thu lợi bất chính, giá trịmột số “hàng phạm pháp” cụ thể. Theo đó,có quy định về việc xác định người có hành vi vi phạm pháp luật phải chịu trách nhiệm hình sự hay không phải căn cứ vào mặt hàng phạm pháp đã liệt kê trong điều luật hoặc giá trị hàng phạm pháp.Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là mặt hàng Nhà nước cấm thì việc xác định giá trị hàng phạm pháp là khá vô lý và cơ sở được tính như thế nào cũng rất khó đặt ra cũng như cơ quan nào có trách nhiệm thẩm định giá và căn cứ vào giá nào để áp giá xác định giá trị hàng phạm pháp có đủ định lượng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi này đều là những bất cập cần giải quyết khi áp dụng vào thực tế Thứ hai, trên cơ sở những Danh mục hàng hóa cấm kinh doanh Chính phủ và các bộ chuyên ngành ban hành để xem xét thêm những loại hàng hóa hiện nay và trong tương lai sẽ luôn cấm tàng trữ, vận chuyển để quy định cụ thể trong BLHS nhằm đảm bảo tính công bằng, tránh sự phụ thuộc vào các văn bản dưới luật, trên cơ sở phân biệt rõ ràng đặc tính, công dụng, tính nguy hiểm cho xã hội. Ví dụ như: Nghiêm cấm tàng trữ, vận chuyển hàng hóa là văn hóa phản động, đồi trụy, phế liệu gây ô nhiễm môi trường, khoáng sản đặc biệt độc hại ... Làm được điều này không chỉ có ý nghĩa với các cơ quan tiến hành tố tụng mà còn với cả những hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và cá nhân trong ngoài nước, nâng cao tính tự chủ, năng động trong kinh doanh, giúp họ nhận biết được đâu là hàng cấm để tránh tàng trữ, vận chuyển cũng như kinh doanh, sản xuất. 2.5.2. Tăng cường công tác kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các VAHS về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm Hoạt động tư pháp bao gồm: Việc phát hiện tội phạm, khởi tố, điều tra, thu thập chứng cứ trong các VAHS do Cơ quan điều tra thực hiện; hoạt động kiểm sát khởi tố VAHS, khởi tố bị can, kiểm sát điều tra, kiểm sát giam giữ, cải tạo, kiểm sát xét xử, kiểm sát thi hành án do Viện kiểm sát thực hiện; hoạt động xét xử các VAHS, giải quyết và xét xử các vụ, việc tranh chấp khác do TAND thực hiện và
69
hoạt động thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực do quan Thi hành án
thực hiện. Quá trình xây dựng phát triển của Nhà nước ta từ năm 1945 đến nay,
cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước luôn là yếu tố không
thể thiếu được để các cơ quan Nhà nước hoạt động theo đúng các quy định của Hiến
pháp và pháp luật. Trong hệ thống các cơ quan Nhà, hệ thống các cơ quan pháp
có vị trí vai trò rất quan trọng.Hoạt động pháp nước ta được tiến hành bởi
nhiều quan, nhiều địa phuơng liên quan tới quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân.
Tuy nhiên để hoạt động của các cơ quan tư pháp đúng pháp luật và hiệu quả,
ngoài việc chấp hành pháp luật và tự giám sát, kiểm tra nội bộ của các cơ quan
pháp; Hiến pháp và các đạo Luật phải quy định rõ cơ chế giám sát và quy định các
cơ quan tư pháp phải được đặt duới sự kiểm tra, giám sát của Quốc hội và quan
được Quốc hội giao quyền kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật.
Kiểm sát các hoạt động pháp một trong hai chức năng của Viện kiểm
sát được quy định tại Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân năm
2014. Theo quy định của luật tổ chức VKSND năm 2014 thì đối tượng của kiểm sát
các hoạt động tư pháp trong các VAHS việc tuân theo pháp luật của các cơ quan
tư pháp (cơ quan điều tra, quan tòa án, quan thi hành án), các quan khác
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, các tổ chức nhân
trách nhiệm hoặc liên quan đến giải quyết VAHS. Khi tiến hành hoạt động này,
Viện kiểm sát phải căn cứ vào Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, BLTTHS, Luật tổ chức
VKSND và các văn bản pháp luật khác có liên quan để kiểm tra, xem xét đảm bảo
việc tuân theo pháp luật trong hành vi của các chủ thể bị kiểm sát, cũng như để đảm
bảo tính có căn cứ và hợp pháp của chính các hoạt động kiểm sát của VKS.
Tăng cường công tác kiểm sát hoạt động pháp đối với các VAHS về tội
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm cụ thể là:
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của quan điều tra, quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong việc tiếp nhận tố giác, tin báo về
tội phạm kiến nghị khởi tố. Các quan điều tra có trách nhiệm thông báo đầy
69 hoạt động thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực do Cơ quan Thi hành án thực hiện. Quá trình xây dựng và phát triển của Nhà nước ta từ năm 1945 đến nay, cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước luôn là yếu tố không thể thiếu được để các cơ quan Nhà nước hoạt động theo đúng các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Trong hệ thống các cơ quan Nhà, hệ thống các cơ quan tư pháp có vị trí và vai trò rất quan trọng.Hoạt động tư pháp ở nước ta được tiến hành bởi nhiều cơ quan, ở nhiều địa phuơng và liên quan tới quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên để hoạt động của các cơ quan tư pháp đúng pháp luật và hiệu quả, ngoài việc chấp hành pháp luật và tự giám sát, kiểm tra nội bộ của các cơ quan tư pháp; Hiến pháp và các đạo Luật phải quy định rõ cơ chế giám sát và quy định các cơ quan tư pháp phải được đặt duới sự kiểm tra, giám sát của Quốc hội và cơ quan được Quốc hội giao quyền kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật. Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một trong hai chức năng của Viện kiểm sát được quy định tại Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân năm 2014. Theo quy định của luật tổ chức VKSND năm 2014 thì đối tượng của kiểm sát các hoạt động tư pháp trong các VAHS là việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tư pháp (cơ quan điều tra, cơ quan tòa án, cơ quan thi hành án), các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, các tổ chức cá nhân có trách nhiệm hoặc liên quan đến giải quyết VAHS. Khi tiến hành hoạt động này, Viện kiểm sát phải căn cứ vào Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, BLTTHS, Luật tổ chức VKSND và các văn bản pháp luật khác có liên quan để kiểm tra, xem xét đảm bảo việc tuân theo pháp luật trong hành vi của các chủ thể bị kiểm sát, cũng như để đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp của chính các hoạt động kiểm sát của VKS. Tăng cường công tác kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các VAHS về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm cụ thể là: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Các cơ quan điều tra có trách nhiệm thông báo đầy
70
đủ, kịp thời tố giác, tin báo về tội phạm kiến nghị khởi tố đã tiếp nhận cho
VKSND. Đảm bảo mọi tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố đối với các
VAHS về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm đều phải được tiếp nhận, quyết
đúng trình tự pháp luật.
Đối với giai đoạn điều tra các VAHS về tội tàng trữ, vận chuyển, hàng cấm.
Quán triệt đầy đủ, thường xuyên chủ trương của Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của
Đảng “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với
hoạt động điều tra”tới từng cán bộ, KSV để tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận
thức. Viện kiểm sát có nhiệm vụ THQCT kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
quá trình điều tra (kiểm sát điều tra). Điều này được quy định tại 14 của Luật Tổ
chức VKSND năm 2014 và Điều 165 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nhiệm
vụ kiểm sát điều tra được quy định tại Điêu 15 của Luật Tổ chức VKSND năm
2014 và Điều 166 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Kiểm sát điều tra các tội phạm hình sự về tàng trữ, vận chuyển hàng cấm cần
kiểm sát chặt chẽ các quyết định của cơ quan điều tra như các quyết định khởi tố vụ
án, khởi tố bị can, áp dụng các biện pháp ngăn chặn... Kiểm sát chặt chẽ việc áp
dụng các biện pháp điều tra của quan điều tra như: Khám nghiệm hiện trường,
đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra, khám xét. KSV phải thường xuyên phối
hợp với Điều tra viên làm những vấn đề cần chứng minh trong vụ án, kiểm sát
chặt chẽ việc lập hồ sơ của Cơ quan điều tra, đảm bảo cho việc điều tra được khách
quan, toàn diện, đúng pháp luật. Trong mỗi vụ án, KSV đều có các yêu cầu điều tra
rõ ràng, cụ thể, có tính khả thi, trao đổi với Điều tra viên và được Điều tra viên thực
hiện đầy đủ kịp thời. Việc kiểm sát hồ sơ VAHS được làm chặt chẽ ngay từ giai
đoạn điều tra sẽ tạo thuận lợi cho KSV trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, xây dựng
cáo trạng truy tố và tham gia phiên tòa. Vì khi đó, KSV đã nghiên cứu khá kỹ, nắm
chắc nội dung diễn biến của vụ án cũng như đánh giá được các chứng cứ một
cách toàn diện tránh tình trạng bị Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung. Đồng thời giúp
KSV đối đáp lại tất cả những vấn đề khi tham gia tranh tụng tại phiên tòa.
Đẩy mạnh việc nâng cao nhận thức của cán bộ, KSV về trách nhiệm công tố
70 đủ, kịp thời tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đã tiếp nhận cho VKSND. Đảm bảo mọi tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố đối với các VAHS về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm đều phải được tiếp nhận, và quyết đúng trình tự pháp luật. Đối với giai đoạn điều tra các VAHS về tội tàng trữ, vận chuyển, hàng cấm. Quán triệt đầy đủ, thường xuyên chủ trương của Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”tới từng cán bộ, KSV để tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức. Viện kiểm sát có nhiệm vụ THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình điều tra (kiểm sát điều tra). Điều này được quy định tại 14 của Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và Điều 165 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nhiệm vụ kiểm sát điều tra được quy định tại Điêu 15 của Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và Điều 166 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Kiểm sát điều tra các tội phạm hình sự về tàng trữ, vận chuyển hàng cấm cần kiểm sát chặt chẽ các quyết định của cơ quan điều tra như các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, áp dụng các biện pháp ngăn chặn... Kiểm sát chặt chẽ việc áp dụng các biện pháp điều tra của cơ quan điều tra như: Khám nghiệm hiện trường, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra, khám xét. KSV phải thường xuyên phối hợp với Điều tra viên làm rõ những vấn đề cần chứng minh trong vụ án, kiểm sát chặt chẽ việc lập hồ sơ của Cơ quan điều tra, đảm bảo cho việc điều tra được khách quan, toàn diện, đúng pháp luật. Trong mỗi vụ án, KSV đều có các yêu cầu điều tra rõ ràng, cụ thể, có tính khả thi, trao đổi với Điều tra viên và được Điều tra viên thực hiện đầy đủ kịp thời. Việc kiểm sát hồ sơ VAHS được làm chặt chẽ ngay từ giai đoạn điều tra sẽ tạo thuận lợi cho KSV trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, xây dựng cáo trạng truy tố và tham gia phiên tòa. Vì khi đó, KSV đã nghiên cứu khá kỹ, nắm chắc nội dung và diễn biến của vụ án cũng như đánh giá được các chứng cứ một cách toàn diện tránh tình trạng bị Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung. Đồng thời giúp KSV đối đáp lại tất cả những vấn đề khi tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Đẩy mạnh việc nâng cao nhận thức của cán bộ, KSV về trách nhiệm công tố
71
của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra. Cán bộ, KSV cần nhận thức hai
nhiệm vụ THQCT kiểm sát điều tra, mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ này để đạt
hiệu quả cao trong hoạt động.
Viện kiểm sát các cấp cần quản lý, theo dõi chặt chẽ các vụ án đình chỉ, tạm
đình chỉ điều tra. Việc xây dựng hồ sơ vụ án tạm đình chỉ phải đảm bảo đầy đủ,
đúng pháp luật vì có những vụ án sau nhiều năm mới có thể phục hồi điều tra. Nếu
không xây dựng hồ sơ chặt chẽ ngay từ đầu thì việc khắc phục vi phạm, thiếu sót rất
khó hoặc không thể thực hiện được. Viện kiểm sát cần định kỳ soát, chủ động,
tích cực đôn đốc quan điều tra làm rõ đối tượng phạm tội, truy bắt bị can để
phục hồi điều tra. Từng KSV phải tăng cường trách nhiệm trong việc nghiên cứu hồ
vụ án, chủ động đề ra các yêu cầu điều tra đảm bảo xác đáng, ý nghĩa thiết
thực để giúp Cơ quan điều tra tiến hành điều tra đúng hướng, toàn diện.
Đối với giai đoạn xét xử các VAHS về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm:
Viện kiểm sát có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân thủ theo pháp luật trong giai đoạn xét
xử VAHS THQCT. Điều này được quy định tại Điêu 19 của Luật Tổ chức
VKSND năm 2014 Điều 267 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Để
VKSND thực hiện chức năng THQCT kiểm sát xét xử các VAHS, bảo đảm cho
việc xét xử của Toà án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời;
VKSND các cấp phải quan tâm, lựa chọn, bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ KSV nói
chung, KSV làm nhiệm vụ THQCT kiểm sát xét xử các ván hàng cấm nói
riêng, trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức, vừa trách nhiệm cao, đặc biệt
chú ý việc rèn luyện kỹ năng viết, kỹ năng trình bày, đồng thời phải nhạy bén, linh
hoạt, chủ động trong mọi tình huống xảy ra tại phiên toà. Thường xuyên theo dõi,
kiểm tra, đôn đốc tiến độ thực hiện nhiệm vcủa cán bộ, KSV. Đình kỳ 6 tháng,
năm lãnh đạo Viện phụ trách tiến hành kiểm tra chất lượng xây dựng hồ sơ kiểm sát,
chất lượng nghiên cứu, báo cáo tham mưu đề xuất đường lối giải quyết; khả năng
phát hiện vi phạm, tồn tại của Tòa án... của cán bộ, KSV để nhận xét, đánh giá, rút
kinh nghiệm nhằm nâng cao kỹ năng nghiệp vụ. Tăng cường mối quan hệ phối hợp
với Tòa án; mở các cuộc liên ngành thống nhất giải quyết đối với các vụ án hàng
71 của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra. Cán bộ, KSV cần nhận thức rõ hai nhiệm vụ THQCT và kiểm sát điều tra, mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ này để đạt hiệu quả cao trong hoạt động. Viện kiểm sát các cấp cần quản lý, theo dõi chặt chẽ các vụ án đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra. Việc xây dựng hồ sơ vụ án tạm đình chỉ phải đảm bảo đầy đủ, đúng pháp luật vì có những vụ án sau nhiều năm mới có thể phục hồi điều tra. Nếu không xây dựng hồ sơ chặt chẽ ngay từ đầu thì việc khắc phục vi phạm, thiếu sót rất khó hoặc không thể thực hiện được. Viện kiểm sát cần định kỳ rà soát, chủ động, tích cực đôn đốc Cơ quan điều tra làm rõ đối tượng phạm tội, truy bắt bị can để phục hồi điều tra. Từng KSV phải tăng cường trách nhiệm trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, chủ động đề ra các yêu cầu điều tra đảm bảo xác đáng, có ý nghĩa thiết thực để giúp Cơ quan điều tra tiến hành điều tra đúng hướng, toàn diện. Đối với giai đoạn xét xử các VAHS về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm: Viện kiểm sát có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân thủ theo pháp luật trong giai đoạn xét xử VAHS và THQCT. Điều này được quy định tại Điêu 19 của Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và Điều 267 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Để VKSND thực hiện chức năng THQCT và kiểm sát xét xử các VAHS, bảo đảm cho việc xét xử của Toà án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời; VKSND các cấp phải quan tâm, lựa chọn, bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ KSV nói chung, KSV làm nhiệm vụ THQCT và kiểm sát xét xử các vụ án hàng cấm nói riêng, có trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức, vừa có trách nhiệm cao, đặc biệt chú ý việc rèn luyện kỹ năng viết, kỹ năng trình bày, đồng thời phải nhạy bén, linh hoạt, chủ động trong mọi tình huống xảy ra tại phiên toà. Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc tiến độ thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, KSV. Đình kỳ 6 tháng, năm lãnh đạo Viện phụ trách tiến hành kiểm tra chất lượng xây dựng hồ sơ kiểm sát, chất lượng nghiên cứu, báo cáo tham mưu đề xuất đường lối giải quyết; khả năng phát hiện vi phạm, tồn tại của Tòa án... của cán bộ, KSV để nhận xét, đánh giá, rút kinh nghiệm nhằm nâng cao kỹ năng nghiệp vụ. Tăng cường mối quan hệ phối hợp với Tòa án; mở các cuộc liên ngành thống nhất giải quyết đối với các vụ án hàng
72
cấm phức tạp, các vụ án dư luận xã hội quan tâm.
Đối với giai đoạn thi hành án các VAHS về tội tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm: Viện kiểm sát có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi
hành án hình sự căn cứ các điều 25, 26 Luật tổ chức VKSND năm 2014 Điều
141 Luật thi hành án hình sự năm 2010. Đẩy mạnh công tác kiểm sát hoạt động thi
hành án hình sự, đặc biệt đối với việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án về tội
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Bảo đảm bản án quyết định hiệu lực pháp luật
của Tòa án đối với người phạm tội phải được thi hành. Kiểm sát chặt chẽ việc ra
Quyết định thi hành án hình sự của Tòa án trong thời hạn luật định, bảo đảm bản án
quyết định hiệu lực pháp luật của Tòa án đối với người phạm tội phải được thi
hành; kịp thời phát hiện những sai sót, các trường hợp chậm ra quyết định thi hành
án, chậm áp giải, chậm ra quyết định truy nã. Tăng cường áp dụng các biện pháp
pháp luật như kháng nghị, kiến nghị nhằm loại trừ vi phạm pháp luật trong việc thi
nh án hình sự nói chung và thi hành án hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm nói riêng, coi đây là những biện pháp pháp luật có tầm quan trọng để quan
có vi phạm khắc phục, sửa chữa. Việc áp dụng các biện pháp pháp luật đòi hỏi tính
chính xác, kịp thời khách quan đảm bảo công tác kiểm sát thi hành án hình sự
đem lại hiệu quả cao, đồng thời thể hiện vai trò kiểm sát hoạt động pháp của
VKSND.
Ngoài ra thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật kiểm sát
các hoạt động pháp, VKSND cần kịp thời phát hiện những lĩnh vực chưa được
pháp luật điều chỉnh để kiến nghị với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ
tịch nước, Chính phủ các Bộ, Ngành Trung uơng ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật để điều chỉnh kịp thời. Những sơ hở, thiếu sót trong chế và quá
trình quản cũng được VKSND yêu cầu, kiến nghị với các quan quản lý, kịp
thời có biện pháp bổ sung, khắc phục nhằm ngăn chặn các nguyên nhân, điều kiện
dẫn đến vi phạm pháp luật.
72 cấm phức tạp, các vụ án dư luận xã hội quan tâm. Đối với giai đoạn thi hành án các VAHS về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm: Viện kiểm sát có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành án hình sự căn cứ các điều 25, 26 Luật tổ chức VKSND năm 2014 và Điều 141 Luật thi hành án hình sự năm 2010. Đẩy mạnh công tác kiểm sát hoạt động thi hành án hình sự, đặc biệt đối với việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Bảo đảm bản án quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án đối với người phạm tội phải được thi hành. Kiểm sát chặt chẽ việc ra Quyết định thi hành án hình sự của Tòa án trong thời hạn luật định, bảo đảm bản án quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án đối với người phạm tội phải được thi hành; kịp thời phát hiện những sai sót, các trường hợp chậm ra quyết định thi hành án, chậm áp giải, chậm ra quyết định truy nã. Tăng cường áp dụng các biện pháp pháp luật như kháng nghị, kiến nghị nhằm loại trừ vi phạm pháp luật trong việc thi hành án hình sự nói chung và thi hành án hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nói riêng, coi đây là những biện pháp pháp luật có tầm quan trọng để cơ quan có vi phạm khắc phục, sửa chữa. Việc áp dụng các biện pháp pháp luật đòi hỏi tính chính xác, kịp thời và khách quan đảm bảo công tác kiểm sát thi hành án hình sự đem lại hiệu quả cao, đồng thời thể hiện vai trò kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND. Ngoài ra thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật và kiểm sát các hoạt động tư pháp, VKSND cần kịp thời phát hiện những lĩnh vực chưa được pháp luật điều chỉnh để kiến nghị với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và các Bộ, Ngành ở Trung uơng ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh kịp thời. Những sơ hở, thiếu sót trong cơ chế và quá trình quản lý cũng được VKSND yêu cầu, kiến nghị với các cơ quan quản lý, kịp thời có biện pháp bổ sung, khắc phục nhằm ngăn chặn các nguyên nhân, điều kiện dẫn đến vi phạm pháp luật.
73
2.5.3. Nâng cao trình độ đội ngũ những người tiến hành tố tụng giải quyết
VAHS về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm
Tổ chức kiện toàn các lực lượng chuyên trách đấu tranh phòng, chống tội
phạm về hàng cấm, đặc biệt là Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về hàng cấm ở các
Công an các xã có tuyến biên giới. Ở những xã này phải tuyển chọn những người
đủ các điều kiện cần thiết theo quy định nhung phải có sức khoẻ tốt, thông thạo địa
hình.
Tuyển chọn những người tham gia trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm
về hàng cấm của các lực lượng Công an, quản thị trường, quốc phòng phải là
những cán bộ, chiến sỹ có kinh nghiệm trong điều tra các vụ án về hàng cấm truớc
đây, phẩm chất chính trị vững ng, phải được bồi duỡng thường xuyên về
nghiệp vụ đấu tranh chống tội phạm và có am hiểu nhất định về hàng cấm.
Đối với lực lượng đấu tranh phòng, chống tội phạm về hàng cấm cấp
huyện cần phải bố trí đủ lực lượng, bộ phận theo dõi theo các tuyến và địa bàn
trọng điểm ở các giáp vùng biên giới; sự phối hợp chặt chẽ với lực lượng
cấp xã, ấp để hướng dẫn làm tốt các mặt công tác phòng ngừa, đặc biệt công tác
phòng ngừa nghiệp vụ và trực tiếp điều tra khám phá các vụ án hàng cấm lớn phức
tạp, hoạt động theo băng, ổ, nhóm hay hoạt động liên xã, liên huyện... với nhiều đối
tượng tham gia.
Đối với các khu vực gần huyện biên giới phức tạp, khu vực đường bộ, đường
thủy: bọn tội phạm thường hoạt động cần bố trí đủ lực lượng phụ trách theo địa bàn,
tuyến trọng điểm; đồng thời phải làm tốt công tác điều tra cơ bản nắm tình hình, xây
dựng sở bí mật sử dụng chó nghiệp vụ kết hợp với việc thực hiện quy trình
thủ tục thường xuyên lập chốt kiểm tra để phòng ngừa và phát hiện hàng cấm.
Trong công tác cán bộ cần phải rà soát, đánh giá lại đội ngũ cán bộ chiến s
từ tỉnh đến các huyện, thị về trình độ, năng lực, sở trường, năng khiếu trên sở
hiệu quả giải quyết vụ án được giao để có cơ sở bố trí sắp xếp cho phù hợp; tạo điều
kiện cho những cán bộ có khả năng phát triển được đào tạo nâng cao trình độ.
Thường xuyên tập huấn bồi dưỡng về kiến thức phòng hàng cấm cho cán bộ
73 2.5.3. Nâng cao trình độ đội ngũ những người tiến hành tố tụng giải quyết VAHS về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm Tổ chức kiện toàn các lực lượng chuyên trách đấu tranh phòng, chống tội phạm về hàng cấm, đặc biệt là Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về hàng cấm ở các Công an các xã có tuyến biên giới. Ở những xã này phải tuyển chọn những người có đủ các điều kiện cần thiết theo quy định nhung phải có sức khoẻ tốt, thông thạo địa hình. Tuyển chọn những người tham gia trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm về hàng cấm của các lực lượng Công an, quản lý thị trường, quốc phòng phải là những cán bộ, chiến sỹ có kinh nghiệm trong điều tra các vụ án về hàng cấm truớc đây, có phẩm chất chính trị vững vàng, phải được bồi duỡng thường xuyên về nghiệp vụ đấu tranh chống tội phạm và có am hiểu nhất định về hàng cấm. Đối với lực lượng đấu tranh phòng, chống tội phạm về hàng cấm ở cấp huyện cần phải bố trí đủ lực lượng, có bộ phận theo dõi theo các tuyến và địa bàn trọng điểm ở các xã giáp vùng biên giới; có sự phối hợp chặt chẽ với lực lượng ở cấp xã, ấp để hướng dẫn làm tốt các mặt công tác phòng ngừa, đặc biệt là công tác phòng ngừa nghiệp vụ và trực tiếp điều tra khám phá các vụ án hàng cấm lớn phức tạp, hoạt động theo băng, ổ, nhóm hay hoạt động liên xã, liên huyện... với nhiều đối tượng tham gia. Đối với các khu vực gần huyện biên giới phức tạp, khu vực đường bộ, đường thủy: bọn tội phạm thường hoạt động cần bố trí đủ lực lượng phụ trách theo địa bàn, tuyến trọng điểm; đồng thời phải làm tốt công tác điều tra cơ bản nắm tình hình, xây dựng cơ sở bí mật và sử dụng chó nghiệp vụ kết hợp với việc thực hiện quy trình thủ tục thường xuyên lập chốt kiểm tra để phòng ngừa và phát hiện hàng cấm. Trong công tác cán bộ cần phải rà soát, đánh giá lại đội ngũ cán bộ chiến sỹ từ tỉnh đến các huyện, thị về trình độ, năng lực, sở trường, năng khiếu trên cơ sở hiệu quả giải quyết vụ án được giao để có cơ sở bố trí sắp xếp cho phù hợp; tạo điều kiện cho những cán bộ có khả năng phát triển được đào tạo nâng cao trình độ. Thường xuyên tập huấn bồi dưỡng về kiến thức phòng hàng cấm cho cán bộ
74
chiến sỹ, điều tra viên trực tiếp tiến hành công tác đấu tranh chống tội phạm về
hàng cấm, đặc biệt là tổng kết rút kinh nghiệm về các vụ án đã điều tra khám phá tại
khu vực để xây dựng kế hoạch cho toàn bộ hoạt động đấu tranh loại tội phạm này
trong thời gian tiếp theo.
Nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Toà án, Viện kiểm t
các cấp, phát huy trí tuệ tập thể, tăng cường trách nhiệm cá nhân; làm tốt công tác
tổng kết thực tiễn xét xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; Đổi mới mạnh
mẽ phương thức chỉ đạo, điều hành và thủ tục hành chínhpháp trong hoạt động
của Toà án, Viện kiểm sát theo hướng nhanh, gọn, hiệu quả; phân công, phân nhiệm
và phân cấp rõ ràng trong từng lĩnh vực công tác... trong đó đặc biệt chú trọng đến
giải pháp nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, KSV, Thẩm phán trong công tác
truy tố, xét xử.
Phân công cán bộ có năng lực, trình độ và kinh nghiệm chuyên môn để điều
tra, truy tố, xét xử các vụ án về hàng cấm; thường xuyên phối hợp, họp bàn với các
cơ quan tiến hành tố tụng để đề ra những biện pháp tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh
tiến độ giải quyết các vụ án và lựa chọn các vụ án trọng điểm đưa ra xét xử lưu
động tại các địa bàn phức tạp, đảm bảo nâng cao chất ợng xét xử các vụ án về
hàng cấm; Đảm bảo các vụ án này được tiến hành chính xác, đúng pháp luật không
để quá hạn luật định, tồn đọng; kiên quyết không xét xử oan hoặc bỏ lọt tội phạm.
Tiếp tục kiện toàn đội ngũcán bộ Điều tra viên, KSV, Thẩm phán, cán bộ
đủ năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức theo quy định; Tăng cường công tác đào
tạo, tập huấn, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ, từng bước nâng cao trình độ,
kinh nghiệm bản lĩnh nghề nghiệp cho cán bộ, Điều tra viên, KSVThẩm phán,
đáp ứng yêu cầu công tác điều tra, truy tố, xét xử nói chung và điều tra, truy tố, xét
xử các vụ án về hàng cấm nói riêng;
Không ngừng nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức và trách nhiệm
của KSV, quan tâm hơn nữa đến công tác lựa chọn bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ KSV
làm nhiệm vụ THQCT và kiểm sát xét xử các VAHS. Mỗi cán bộ, KSV cần thường
xuyên tu dưỡng phẩm chất đạo đức, vừa trách nhiệm cao; tích cực học tập, tự
74 chiến sỹ, điều tra viên trực tiếp tiến hành công tác đấu tranh chống tội phạm về hàng cấm, đặc biệt là tổng kết rút kinh nghiệm về các vụ án đã điều tra khám phá tại khu vực để xây dựng kế hoạch cho toàn bộ hoạt động đấu tranh loại tội phạm này trong thời gian tiếp theo. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Toà án, Viện kiểm sát các cấp, phát huy trí tuệ tập thể, tăng cường trách nhiệm cá nhân; làm tốt công tác tổng kết thực tiễn xét xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; Đổi mới mạnh mẽ phương thức chỉ đạo, điều hành và thủ tục hành chính tư pháp trong hoạt động của Toà án, Viện kiểm sát theo hướng nhanh, gọn, hiệu quả; phân công, phân nhiệm và phân cấp rõ ràng trong từng lĩnh vực công tác... trong đó đặc biệt chú trọng đến giải pháp nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, KSV, Thẩm phán trong công tác truy tố, xét xử. Phân công cán bộ có năng lực, trình độ và kinh nghiệm chuyên môn để điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về hàng cấm; thường xuyên phối hợp, họp bàn với các cơ quan tiến hành tố tụng để đề ra những biện pháp tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ giải quyết các vụ án và lựa chọn các vụ án trọng điểm đưa ra xét xử lưu động tại các địa bàn phức tạp, đảm bảo nâng cao chất lượng xét xử các vụ án về hàng cấm; Đảm bảo các vụ án này được tiến hành chính xác, đúng pháp luật không để quá hạn luật định, tồn đọng; kiên quyết không xét xử oan hoặc bỏ lọt tội phạm. Tiếp tục kiện toàn đội ngũcán bộ Điều tra viên, KSV, Thẩm phán, cán bộ có đủ năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức theo quy định; Tăng cường công tác đào tạo, tập huấn, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ, từng bước nâng cao trình độ, kinh nghiệm và bản lĩnh nghề nghiệp cho cán bộ, Điều tra viên, KSVThẩm phán, đáp ứng yêu cầu công tác điều tra, truy tố, xét xử nói chung và điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về hàng cấm nói riêng; Không ngừng nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức và trách nhiệm của KSV, quan tâm hơn nữa đến công tác lựa chọn bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ KSV làm nhiệm vụ THQCT và kiểm sát xét xử các VAHS. Mỗi cán bộ, KSV cần thường xuyên tu dưỡng phẩm chất đạo đức, vừa có trách nhiệm cao; tích cực học tập, tự