Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
6,655
479
91
5
hiện nay, trong đó trực tiếp là những hoạt động điều tra, truy tố, xét xử liên
quan
đến tội phạm này từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Đồng thời nghiên cứu
các quy định của pháp luật hình sự nước ta qua các giai đoạn để làm rõ những ưu
điểm, hạn chế, tồn tại trong BLHS và các Luật dẫn chiếu, các văn bản hướng dẫn,
áp dụng BLHS. Trên cơ sở khoa học đó đề xuất quan điểm của mình nhằm sửa đổi,
hoàn thiện pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng liên quan đến tội
phạm
này.
- Phạm vi nghiên cứu
Đây là một đề tài tương đối rộng, thực tiễn đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết
một cách thấu đáo. Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, người viết nghiên cứu
trong phạm vi tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm theo Điều 155 BLHS 1999 (Sửa
đổi, bổ sung năm 2009) và Điều 191 BLHS năm 2015; tìm hiểu những hành vi
thường xảy ra và những khó khăn trong công tác điều tra, truy tố, xét xử của các
cơ
quan chức năng có thẩm quyền tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An trong thời gian từ
năm 2014 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật; quan điểm của Đảng và nhà nước về Nhà nước pháp quyền, về đấu tranh
phòng chống tội phạm.
- Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành được luận văn này người viết đã sử dụng linh hoạt và hợp lý
các phương pháp nghiên cứu khác nhau như: phương pháp luật học so sánh, phương
pháp sưu tầm và nghiên cứu tài liệu, phương pháp tổng hợp và thống kê số liệu,
phương pháp phân tích luận viết, phương pháp xã hội học, phương pháp logic.
6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn đã hệ thống hóa cơ sở lý luận và các quy định của pháp luật về tội
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm một cách toàn diện, có hệ thống, đưa ra bức tranh
toàn cảnh về loại tội phạm này dưới góc độ pháp luật hình sự; chỉ ra các yếu tố
cấu
thành của loại tội phạm này. Qua đó, đề xuất hệ thống giải pháp có tính khả thi
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội sản
xuất, tàng trữ, buôn bán, vận chuyển hàng cấm.
Luận văn đã chỉ ra những hạn chế trong công tác xây dựng và thi hành pháp
luật, đưa ra phương hướng giải quyết khó khăn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng
cũng như trong việc sửa đổi, bổ sung bộ luật hình sự về loại tội phạm này, những
kiến nghị hoàn thiện và các biện pháp đấu tranh phòng chống tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm, góp phần vào việc phát triển khoa học luật hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm
Chương 2: Thực trạng và giải pháp áp dụng đúng quy định của pháp luật về
tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ
TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM
1.1. Những vấn đề lý luận về tội tàng trữ, vận chuyển hành cấm
1.1.1. Khái niệm tội tàng trữ, vận chuyển hành cấm
- Khái niệm hàng cấm
Hàng cấm được rất nhiều người sử dụng trong đời sống kinh tế. Tuy nhiên,
hiểu một cách chính xác về bản chất của từ này trong khoa học pháp luật hình sự
thì
chưa có cách hiểu và giải thích thống nhất. Để tìm hiểu khái niệm hàng cấm chúng
ta tìm hiểu thông qua ngữ nghĩa của hai từ cụ thể: - “hàng” là sản phẩm để bán,
-
“cấm” là không cho phép làm việc gì đó hoặc không cho phép tồn tại [54]. Từ đó
hàng cấm được hiểu là những sản phẩm không cho phép tồn tại. Theo từ điển Luật
học giải thích: “hàng cấm là hàng hoá bị Nhà nước cấm kinh doanh [54, tr.319].
Một số từ điển hoặc các văn bản có liên quan có đề cập đến hàng cấm là hàng hóa
mà Nhà nước cấm buôn bán, kinh doanh [55, tr.16]. Hàng cấm còn được nhắc đến
trong giải thích tội buôn lậu: buôn lậu là buôn bán trốn thuế hoặc hàng cấm
[56].
Tuy được nhắc đến nhiều nhưng chưa có cách hiểu thống nhất về thuật ngữ này.
Hiện nay, nhiều tác giả đồng tình với cách giải thích: Hàng cấm là hàng hoá Nhà
nước cấm kinh doanh [15, tr.110].
Hàng cấm theo nghĩa rộng là loại hàng hoá bị cấm kinh doanh dưới mọi hình
thức. Bản chất của hàng cấm có thể được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau.
Dưới góc độ xã hội, hàng cấm được hiểu phổ biến nhất là những mặt hàng
đặc biệt do Nhà nước trực tiếp quản lý độc quyền, cấm sản xuất, kinh doanh. Theo
triết học Mác - Lê nin hàng hoá là sản phẩm của lao động thông qua hoạt động
trao
đổi, mua bán. Hàng hoá có thể là hữu hình hoặc vô hình mà nhờ vào tính chất của
nó thoả mãn nhu cầu của con người. Trong nền kinh tế thị trường, hàng hoá ngày
càng trở nên đa dạng phong phú. Việc quản lý đối với các loại hàng hoá và các
hoạt
động kinh doanh liên quan đến hàng hoá ngày càng phức tạp, khó khăn hơn bởi sự
xuất hiện ngày càng nhiều của các loại hàng hoá gây ảnh hưởng xấu tới con người,
8
môi trường và xã hội. Từ sự phát triển của tự do thương mại mà Nhà nước thống
nhất quản lý những mặt hàng có tính chất đặc biệt, có những đặc tính riêng cần
phải
hạn chế cách ly các hoạt động sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán những mặt
hàng đó trong xã hội. Pháp luật quy định cấm tuyệt đối với những mặt hàng khi
lưu
thông hoặc sử dụng có thể gây nguy hại cho an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn
xã
hội, truyền thống văn hóa, môi trường và sức khỏe nhân dân, vì vậy Nhà nước cần
phải độc quyền quản lý loại hàng hoá đó. Trong xã hội gọi những hàng hoá này là
“hàng cấm” hay “hàng quốc cấm”.
Dưới góc độ kinh tế thì hàng cấm là hàng hoá nhưng thuộc loại do Nhà nước
thống nhất quản lý cấm các tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động sản xuất,
tàng
trữ, vận chuyển và buôn bán. Hàng hóa và sản xuất, buôn bán hàng hóa gắn liền
với
hoạt động kinh doanh, phản ánh mối quan hệ giữa người với người trong quá trình
kinh doanh như: phân phối, trao đổi tiêu dùng của cải vật chất xã hội nhằm mục
đích thu về một giá trị lớn hơn giá trị đã bỏ ra ban đầu. Việc sản xuất hàng hóa
là
bắt nguồn từ yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế, đồng thời nó cũng phù
hợp với xu thế vận động của quá trình hoạt động kinh doanh. Qua các thời kỳ phát
triển kinh tế, xã hội lượng hàng hóa sản xuất ngày một nhiều và đa dạng. Có hàng
hoá được tự do sản xuất, kinh doanh; có những mặt hàng do tính chất đặc thù của
nó mà Nhà nước phải cấm thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên,
do những lợi nhuận mà các mặt hàng này đem lại, các cá nhân, tổ chức lén lút sản
xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán, nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm (CTTP) sẽ
bị truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,
buôn
bán hàng cấm. Mặc dù vậy, cho đến nay khái niệm hàng cấm vẫn chưa có bất cứ
văn bản pháp luật nào đưa ra một cách hiểu thống nhất. Trong quá trình giải
quyết
về loại vụ việc liên quan đến hàng cấm, một vấn đề đặt ra đối với các cơ quan
chức
năng là phải hiểu rõ thế nào là hàng cấm và các loại hàng cấm để từ đó mới ra
được
những quyết định phù hợp, đúng đắn phục vụ tốt cho công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm về trật tự kinh tế nói chung, tội phạm về tàng trữ, vận chuyển
hàng
cấm nói riêng.
9
Dưới góc độ pháp lý, hàng cấm là đối tượng đặc biệt, được Nhà nước quản lý
và xử lý đối với hành vi liên quan đến nó. Trong pháp luật thương mại, đầu tư
đều
có quy định những đối tượng cấm hoạt động kinh doanh đầu tư và có các chế tài xử
phạt đối với hành vi liên quan đến hàng cấm. Khoản 1 Điều 25 Luật thương mại xác
định: “Căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội của từng thời kỳ và điều ước quốc
tế
mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, Chính phủ quy định cụ thể
danh mục hàng hoá cấm kinh doanh, hàng hoá hạn chế kinh doanh, hàng hoá kinh
doanh có điều kiện và điều kiện để được kinh doanh hàng hoá đó”. Đối với pháp
luật về thương mại đầu tư, các nhà làm luật không định nghĩa hàng cấm là gì mà
được quy định thành danh mục cụ thể những mặt hàng cấm kinh doanh. Danh mục
này do Chính phủ quy định và từng thời kỳ khác nhau thì danh mục hàng hoá cấm
kinh doanh cũng thay đổi. Nghị định 185/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15
tháng 11 năm 2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương
mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
có
giải thích: “Hàng cấm” gồm hàng hóa cấm kinh doanh; hàng hóa cấm lưu hành, sử
dụng; hàng hóa chưa được phép lưu hành, sử dụng tại Việt Nam. Dưới góc độ pháp
lý hình sự, hàng cấm được xác định là đối tượng của tội phạm về kinh tế, bị xem
là
đối tượng: “bất hợp pháp”. Việc lưu thông và kinh doanh đối với đối tượng này ở
mức độ nhất định là hành vi tội phạm, bị pháp luật hình sự nghiêm cấm. Để hiểu
rõ
về hàng cấm, ngoài việc xem xét khái niệm hàng hóa nói chung, chúng ta cần thiết
phải tìm hiểu các văn bản pháp luật quy định về hàng cấm và dấu hiệu nhận biết
hàng cấm. Tuy nhiên, cho trước khi BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017
được ban hành, các quy định pháp lý về hàng cấm còn chưa chỉ ra khái niệm hàng
cấm và chưa quy định cụ thể dấu hiệu nhận biết đối tượng hàng cấm đã được điều
chỉnh tại các điều luật khác với Điều 155 BLHS năm 1999. Điều này đã gây những
khó khăn nhất định cho việc nghiên cứu, tìm hiểu để nhận thức cho đúng về hàng
cấm dưới góc độ pháp lý.
Trong các văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa đưa ra khái niệm
về hàng cấm mà hàng cấm chỉ được nhắc đến một cách chung chung. Để đưa ra
10
khái niệm đầy đủ nhất về hàng cấm dưới góc độ pháp luật hình sự cần chú ý một số
nội dung cơ bản sau: một là hàng cấm là loại hàng hoá đặc biệt do nhà nước thống
nhất quản lý và quy định cụ thể danh mục hàng hoá thuộc loại này. Hai là danh
mục
hàng cấm không cố định mà có sự thay đổi theo từng thời kỳ khác nhau. Có nhiều
loại hàng hoá có tính chất cấm vĩnh viễn, cũng có những hàng hoá chỉ cấm tạm
thời.
Ba là hàng cấm có tác hại về kinh tế, có khả năng gây hại cho tính mạng, sức
khoẻ
con người và ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế, văn hoá, chính trị của mỗi
quốc
gia. Bốn là tuỳ thuộc vào chế độ quản lý của mỗi quốc gia mà việc quy định các
mặt
hàng cấm sản xuất kinh doanh khác nhau.
BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 có nhiều điều luật quy định
hành vi phạm tội liên quan đến hàng cấm ở các chương khác nhau, là đối tượng tác
động của nhiều tội phạm khác nhau như: hàng cấm là chất ma tuý, vũ khí quân
dụng,
vật liệu nổ, chất phóng xạ, chất độc, văn hoá phẩm đồi truỵ...Những hàng cấm còn
lại chưa quy định cụ thể ở Điều luật nào khác thì được quy định tại Điều 191
BLHS
năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về tội tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm. Như vậy, diện hàng cấm nói chung rộng hơn diện hàng cấm là đối tượng tác
động của Điều 191 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Nhìn nhận diện
hàng cấm theo nghĩa rộng chúng ta cần nhìn nhận diện hàng cấm trên tất cả các
lĩnh
vực và có sự liên hệ với diện hàng cấm là đối tượng tác động của các tội phạm cụ
thể về hàng cấm kể trên. Vì vậy, từ những phân tích nêu trên và thực tiễn áp
dụng
pháp luật chúng ta nhận thức: “Hàng cấm gồm hàng hóa cấm kinh doanh; hàng hóa
cấm lưu hành, sử dụng; hàng hóa chưa được phép lưu hành, sử dụng tại Việt Nam”.
- Khái niệm tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
Tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là hành vi cất giữ, chuyển dịch hàng hoá mà
Nhà nước cấm kinh doanh.
Tàng trữ hàng cấm là hành vi cất giữ hàng cấm ở bất kỳ chỗ nào một cách
trái phép. Nơi tàng trữ có thể là nơi ở, nơi làm việc, mang theo trong người,
trong
hành lý hoặc cách giấu bất kỳ một vị trí nào khác mà người tàng trữ đã chọn,
không
nhằm mục đích mua bán hay sản xuất ra hàng cấm khác hoặc vận chuyển từ này
11
đến nơi khác. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không có ý nghĩa đối với việc truy
cứu trách nhiệm pháp lý. Nếu tàng trữ hàng cấm cho người mà khác biết rõ người
này buôn bán hàng cấm thì hành vi cất giữ hàng cấm không phải là hành vi tàng
trữ
mà là hành vi giúp sức người buôn bán hàng cấm và bị truy cứu trách nhiệm hình
sự
về tội buôn bán hàng cấm với vai trò đồng phạm. Tuy nhiên, hành vi buôn bán, vận
chuyển đã được quy định trong cùng một điều luật nên việc xác định chính xác
hành vi tàng trữ, hành vi vận chuyển hay hành vi buôn bán chỉ có ý nghĩa trong
việc
định tội theo hành vi (một hoặc một số hành vi hay định tội theo hành vi đầy
đủ),
nếu cùng một loại hàng cấm.
Khi xác định hành vi tàng trữ hàng cấm, cần phân biệt với hành vi chứa chấp
hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Nếu tài sản do người khác
phạm tội mà có là hàng cấm, người đó chứa chấp thì hành vi chứa chấp sẽ bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ hàng cấm hoặc hành vi tiêu thụ sẽ bị
truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn bán hàng cấm.
Vận chuyển hàng cấm là hành vi đưa hàng cấm từ nơi này đến nơi khác một
cách trái phép. Hình thức vận chuyển có thể là trực tiếp mang hoặc gửi hàng cấm
từ
địa điểm này đến địa điểm khác bằng bất cứ đường nào (đường bộ, đường thủy,
đường sắt, đường hàng không, đường bưu điện) bằng bất kỳ phuơng thức nào (trừ
hình thức chiếm đoạt), nhưng đều không nhằm mục đích buôn bán, tàng trữ. Tuy
nhiên nếu vận chuyển hàng cấm qua biên giới thì thuộc trường hợp quy định tại
Điều 189 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Nếu vận chuyển hàng
cấm hộ cho người khác mà biết rõ mục đích buôn bán hàng cấm của người mà mình
nhận vận chuyển hộ thì người có hành vi vận chuyển sẽ bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội buôn bán hàng cấm với vai trò giúp sức.
Nguyên nhân cũng do việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển và buôn bán hàng
cấm mang lại nguồn lợi kinh tế rất lớn nên nhiều người, nhiều cá nhân, tổ chức
hám
lợi mà bất chấp những quy định của pháp luật để thực hiện. Đó đều là những hành
vi gây nguy hiểm cho xã hội không chỉ vi phạm luật xử lý vi phạm hành chính mà
còn bị coi là tội phạm và buộc phải xử lý, áp dụng chế tài hình sự. Tuy nhiên,
pháp
12
luật hình sự Việt Nam chỉ xem hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán
hàng cấm là tội phạm khi hành vi đó ở mức độ nguy hiểm đáng kể cho xã hội, cụ
thể như: phải thực hiện hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng
cấm
với số lượng lớn, thu lợi bất chính lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính, hoặc bị
kết án
về một số hành vi xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế được quy định trong Bộ
luật
hình sự như trong phần nghiên cứu dưới đây.
Khái niệm tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
Tội phạm nói chung, tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nói riêng đều là hiện
tượng tiêu cực của xã hội có nguồn gốc từ sự phát triển của xã hội. Mỗi quốc
gia, để
bảo vệ lợi ích của đất nước mình và phù hợp với tập quán thương mại quốc tế đều
đưa ra những chính sách nhằm đấu tranh, phòng ngừa và giảm bớt tác hại của loại
tội phạm này.
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng,
an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực
khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này
phải bị
xử lý hình sự. Hành vi thoả mãn các yếu tố nêu trên mới được coi là tội phạm.
Hành
vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm để được coi là tội phạm cũng phải thoả mãn các
yếu tố theo quy định của pháp luật.
Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm được quy định tại Điều 191 thuộc chương
XVIII - Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của BLHS năm 2015. Để tìm ra
khái niệm chính xác về tội này, cần tìm hiểu khái niệm của các cụm từ, thuật ngữ
tạo nên tội danh và nguồn gốc, bản chất của hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm.
Từ trước đến nay các văn bản có liên quan hay các Từ điển tiếng Việt có đề
cập đến khái niệm hoặc giải thích các cụm từ: vận chuyển hàng cấm, tàng trữ hàng
cấm. Tổng kết lại người nghiên cứu hiểu một cách ngắn gọn: Tàng trữ, vận chuyển
13
hàng cấm trong BLHS là các hành vi cất giữ hàng cấm bằng bất kỳ hình thức nào,
di chuyển hàng cấm từ nơi này đến nơi khác bằng bấy kỳ hình thức nào [53].
Để tìm ra khái niệm chính xác về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, bên
cạnh việc tìm hiểu những cụm thuật ngữ tạo nên tội danh, người nghiên cứu cũng
cần tìm hiểu nguồn gốc và bản chất của tội danh này.
Các hoạt động sản xuất, kinh doanh liên quan đến hàng cấm xuất hiện trước
hết là do sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội dẫn đến sự phát
triển của
những hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá trong nội địa không đồng nhất cả
về sức sản xuất (nguồn cung), nhu cầu tiêu dùng (nguồn cầu). Một số mặt hàng với
tính chất đặc biệt có nguy cơ gây nguy hại cho nền kinh tế và cho sức khoẻ con
người. Các loại hàng hoá này mang lại lợi nhuận lớn khiến các cá nhân, tổ chức
bất
chấp sự quản lý của Nhà nước để lưu thông hàng hoá loại này. Đây chính là nguyên
nhân sâu xa khiến hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm tồn tại và phát triển
như
một tất yếu khách quan.
Với bản chất là hoạt động kinh tế mang tính xã hội, hoạt động lưu thông
hàng cấm luôn chịu sự tác động của các quy luật kinh tế. Việc quan niệm về tội
tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm của từng quốc gia trong từng giai đoạn và điều kiện
kinh
tế, chính trị, văn hoá xã hội cũng vì thế mà khác nhau. Những quốc gia có nền
kinh
tế phát triển có hệ thống quy phạm pháp luật về thương mại, đầu tư, kinh doanh
trong nước rất chặt chẽ, do đó hệ thống mặt hàng lưu thông nội địa quy định
nghiêm
ngặt, chế tài xử phạt đối với những hoạt động lưu thông hàng hoá kém chất lượng,
hàng hoá không được kinh doanh rất nghiêm khắc, do đó những mặt hàng cấm vĩnh
viễn mới được áp dụng trong chế tài của luật hình sự theo hướng quy định đối với
hành vi lưu thông loại hàng hoá cụ thể như ma tuý, chất phóng xạ...Đối với các
quốc gia khác, các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển hơn, ý thức chấp hành
pháp luật của người dân còn hạn chế hơn, các hành vi lưu thông hàng cấm phức tạp
và tinh vi hơn, do đó các quốc gia này áp dụng biện pháp nghiêm khắc nhất là
hình
phạt đối với các hành vi lưu thông hàng hoá thuộc danh mục hàng cấm do Chính
phủ quy định.
14
Với những đặc điểm nêu trên, BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017
quy định tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm tại Điều 191: “Người nào tàng trữ,
vận
chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường
hợp quy định tại các điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305,
306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến
300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm...”.
Từ những phân tích ở trên có thể đưa ra khái niệm về tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm như sau:
Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là những hành vi cất giữ trái phép, vận
chuyển trái phép những mặt hàng Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử
dụng, chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng với số lượng, trọng lượng
hoặc giá trị cụ thể mà pháp luật quy định, do người có năng lực trách nhiệm hình
sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm chế độ của nhà
nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh một số loại hàng hóa nhất định.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
- Khách thể của tội phạm là một trong những vấn đề trung tâm của khoa học
pháp lý hình sự. Luật hình sự Việt Nam khẳng định: Khách thể của tội phạm là
quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại [50, tr.86]. Một
hành vi chỉ bị coi là tội phạm khi xâm hại đến một trong các quan hệ xã hội được
Luật hình sự bảo vệ quy định tại Điều 8 BLHS. Khách thể của tội phạm có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm
tội
cũng như đối với việc định tội danh và quyết định hình phạt trên thực tế.
Khách thể của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là trật tự quản lý kinh tế,
chế độ độc quyền của nhà nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh một số loại
hàng cẩm mà pháp luật quy định.
- Hành vi khách quan của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm bao gồm hành
vi tàng trữ hàng cấm và hành vi vận chuyển hàng cấm.
Tàng trữ hàng cấm như đã phân tích ở trên là hành vi cất giữ trái phép những
mặt hàng Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, chưa được phép