Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội hủy hoại rừng theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk

9,397
517
84
55
t tng vẫn chưa sát sao dẫn đến tình trng ch quan, duy ý chí, không tuân th quy
định pháp lut.
Hiu biết pháp lut của người dân trên địa bàn tnh còn nhiu hn chế. Đặc
bit nhng vùng rng núi, xa xôi ho lánh. Đại b phận người dân không được
thưng xuyên tiếp cn thông tin truyn thông, không được chính quyn tuyên
truyn ph biến pháp luật nên thường cht phá rng t phát nhưng không biết
hành vi vi phm pháp lut.
Trên địa bàn tnh vn còn tình trng di dân t phát của người dân, đặc bit là
người dân tc thiu s, li sng vn áp dng các phong tc tập quán cũ. Một trong
s đó thói quen đốt rừng làm nương rẫy, săn bắt thú rừng hoang đã đang
hy hoi rừng trên địa bàn tnh.
Chính quyền địa phương còn nhiều hn chế, bt cp trong thc hin chính
sách phân đất và cấp đất cho ngưi đng bào dân tc thiu s sinh sng và sn xut.
Do yếu kém trong công tác qun , trong đó có sự bt cp v cơ chế, chính
sách. Do đó cùng với vic x lý nghiêm các đối tượng vi phm, phải đẩy mạnh hơn
na công tác quản lý nhà nước v lĩnh vực rng. Trong công tác xét x các đối
ng cn tuân th đúng quy định pháp lut, x lý nghiêm minh các v phá rng.
Kết luận chương 2
Chương 2 tng hp tình hình thc tin áp dng pháp lut v ti hy hoi
rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lk. T những cơ sở thc tin hin nay ca tỉnh như các
s liu, báo cáo, các bn án của các cơ quan chức năng trong quản lý, bo v rng,
trong khi tố, điều tra, truy t, xét x ti hy hoi rừng để làm rõ tình hình thc tin
hin nay ca ti hy hoi rừng trên địa bàn tỉnh cũng như tình hình thực tin áp
dng pháp lut hình s, pháp lut x pht vi phm hành chính. T những cơ sở s
liu c th đó tác gi đã thống kê, tng hợp và phân tích để làm rõ các vấn đề thc
tin v ti hy hoi rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lk, ch ra nhng hn chế, bt cp và
nguyên nhân ca nhng hn chế bt cập đó dưới góc độ lý lun và thc tin. Tác gi
nghiên cu làm rõ tình hình thc tin áp dng pháp lut hình s v ti hy hoi
rừng trên địa bàn tnh nhm góp phn bo v rng, góp phn bo v môi trường,
55 tố tụng vẫn chưa sát sao dẫn đến tình trạng chủ quan, duy ý chí, không tuân thủ quy định pháp luật. Hiểu biết pháp luật của người dân trên địa bàn tỉnh còn nhiều hạn chế. Đặc biệt là những vùng rừng núi, xa xôi hẻo lánh. Đại bộ phận người dân không được thường xuyên tiếp cận thông tin truyền thông, không được chính quyền tuyên truyền phổ biến pháp luật nên thường chặt phá rừng tự phát nhưng không biết là hành vi vi phạm pháp luật. Trên địa bàn tỉnh vẫn còn tình trạng di dân tự phát của người dân, đặc biệt là người dân tộc thiểu số, lối sống vẫn áp dụng các phong tục tập quán cũ. Một trong số đó là thói quen đốt rừng làm nương rẫy, săn bắt thú rừng hoang dã đã và đang hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh. Chính quyền địa phương còn nhiều hạn chế, bất cập trong thực hiện chính sách phân đất và cấp đất cho người đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống và sản xuất. Do yếu kém trong công tác quản lý, trong đó có sự bất cập về cơ chế, chính sách. Do đó cùng với việc xử lý nghiêm các đối tượng vi phạm, phải đẩy mạnh hơn nữa công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực rừng. Trong công tác xét xử các đối tượng cần tuân thủ đúng quy định pháp luật, xử lý nghiêm minh các vụ phá rừng. Kết luận chương 2 Chương 2 tổng hợp tình hình thực tiễn áp dụng pháp luật về tội hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Từ những cơ sở thực tiễn hiện nay của tỉnh như các số liệu, báo cáo, các bản án của các cơ quan chức năng trong quản lý, bảo vệ rừng, trong khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử tội hủy hoại rừng để làm rõ tình hình thực tiễn hiện nay của tội hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh cũng như tình hình thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, pháp luật xử phạt vi phạm hành chính. Từ những cơ sở số liệu cụ thể đó tác giả đã thống kê, tổng hợp và phân tích để làm rõ các vấn đề thực tiễn về tội hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, chỉ ra những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế bất cập đó dưới góc độ lý luận và thực tiễn. Tác giả nghiên cứu và làm rõ tình hình thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh nhằm góp phần bảo vệ rừng, góp phần bảo vệ môi trường,
56
hn chế thiên thai, góp phần đấu tranh phòng chng ti phm hy hoi rng. T
vic làm sáng t thc tiễn trên làm cơ sở để tác gi kiến ngh nhng gii pháp nhm
hoàn thiện quy định pháp lut nâng cao hiu qu áp dng pháp luật đối vi ti
hy hoi rng mà tác gi đã nghiên cứu và trình bày ngay sau đây ở Chương 3.
56 hạn chế thiên thai, góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm hủy hoại rừng. Từ việc làm sáng tỏ thực tiễn trên làm cơ sở để tác giả kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với tội hủy hoại rừng mà tác giả đã nghiên cứu và trình bày ngay sau đây ở Chương 3.
57
Chương 3
MT S GII PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUT VÀ NÂNG
CAO HIU QU ÁP DNG PHÁP LUẬT ĐỐI VI TI HY HOI RNG
3.1. Hoàn thiện các quy định pháp lut v ti hy hoi rng trong B
lut hình s và các văn bản pháp lut khác có liên quan
3.1.1. Hoàn thiện quy định v đối tượng tác động ca ti hy hoi rng
Vic quy định đối tượng tác động ca ti hy hoi rng ti Điu 243 BLHS
2015 mặc quy định c th din tích rng b thit hại đối vi các loi rng, rng
khoanh nuôi tái sinh, rng phòng h, rừng đặc dng, rng sn xut, giá tr lâm sn
b thit hi và các loài thc vt rng nguy cp, quý hiếm b thit hi theo mc thit
hi do luật quy định. Tuy nhiên, Điu 243 BLHS 2015 hin lại chưa văn bản
dưới luật hướng dn thi hành c th điều lut, giải thích điều lut, dn chiếu điều
luật. Đồng thi, vic quy định các căn cứ pháp lý v ngun gc rng giúp xác định
rng thuộc đối tượng tác động ca ti hy hoi rừng hay đối tượng tác động ca ti
hy hoi hoc c ý làm hư hỏng tài snthì chưa quy đnh c th và rt d gây nhm
ln gia hai ti. Do đó, khi áp dụng quy định v ti hy hoi rừng, các cơ quan tiến
hành t tng mt s địa phương áp dụng chưa thống nht các quy định v cu
thành ti phm hy hoi rừng. địa phương cơ quan áp dụng pháp lut xem các
loi cây c, cây bụi, cây dây leo, phong lan đối tượng tác động ca ti hy hoi
rng truy cu TNHS, nhưng cũng địa phương lại không xem các đối tượng
này đối tượng ca ti hy hoi rng và không truy cu TNHS mà ch áp dng x
pht hành chính. Hin nay, vic la chn cách gii quyết da trên ý chí ch quan
của quan áp dụng pháp lut, c th quan điều tra, Kim lâm, UBND các
cp, Vin Kim sát, Tòa Án và mt s quan được giao nhim v qun lý bo v
rng. Cùng với đó thc tin áp dụng quy định v ti hy hoi rng trong mt s
trưng hợp các quan tiến hành t tng la chn lut áp dng x chưa đúng,
hoạt động định tội danh chưa đúng do xác định đối tượng tác động ca ti hy hoi
rừng chưa có sự thng nht gia ti hy hoi rng vi ti hy hoi hoc c ý làm
hỏng tài sn theo BLHS 2015. Nguyên nhân ca vic không thng nht do
57 Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI TỘI HỦY HOẠI RỪNG 3.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về tội hủy hoại rừng trong Bộ luật hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan 3.1.1. Hoàn thiện quy định về đối tượng tác động của tội hủy hoại rừng Việc quy định đối tượng tác động của tội hủy hoại rừng tại Điều 243 BLHS 2015 mặc dù quy định cụ thể diện tích rừng bị thiệt hại đối với các loại rừng, rừng khoanh nuôi tái sinh, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng sản xuất, giá trị lâm sản bị thiệt hại và các loài thực vật rừng nguy cấp, quý hiếm bị thiệt hại theo mức thiệt hại do luật quy định. Tuy nhiên, Điều 243 BLHS 2015 hiện lại chưa có văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành cụ thể điều luật, giải thích điều luật, dẫn chiếu điều luật. Đồng thời, việc quy định các căn cứ pháp lý về nguồn gốc rừng giúp xác định rừng thuộc đối tượng tác động của tội hủy hoại rừng hay đối tượng tác động của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sảnthì chưa quy định cụ thể và rất dễ gây nhầm lẫn giữa hai tội. Do đó, khi áp dụng quy định về tội hủy hoại rừng, các cơ quan tiến hành tố tụng ở một số địa phương áp dụng chưa thống nhất các quy định về cấu thành tội phạm hủy hoại rừng. Có địa phương cơ quan áp dụng pháp luật xem các loại cây cỏ, cây bụi, cây dây leo, phong lan là đối tượng tác động của tội hủy hoại rừng và truy cứu TNHS, nhưng cũng có địa phương lại không xem các đối tượng này là đối tượng của tội hủy hoại rừng và không truy cứu TNHS mà chỉ áp dụng xử phạt hành chính. Hiện nay, việc lựa chọn cách giải quyết dựa trên ý chí chủ quan của cơ quan áp dụng pháp luật, cụ thể là cơ quan điều tra, Kiểm lâm, UBND các cấp, Viện Kiểm sát, Tòa Án và một số cơ quan được giao nhiệm vụ quản lý bảo vệ rừng. Cùng với đó thực tiễn áp dụng quy định về tội hủy hoại rừng trong một số trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng lựa chọn luật áp dụng xử lý chưa đúng, hoạt động định tội danh chưa đúng do xác định đối tượng tác động của tội hủy hoại rừng chưa có sự thống nhất giữa tội hủy hoại rừng với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo BLHS 2015. Nguyên nhân của việc không thống nhất là do
58
xut phát t quy định chưa ràng, lý luận v đối tượng tác động ca ti hy hoi
rng còn nhiều điểm chưa rõ, chưa có văn bản thng nhất hướng dn v đối tượng
[11, tr.71-72]. Do đó, tác giả đã dựa trên tình hình thc tế địa phương kết qu
nghiên cu kiến ngh các gii pháp nhm hoàn thiện quy định pháp lut v ti hy
hoi rừng như sau:
Th nht: Các cơ quan lập pháp cần có quy định rõ các loi cây c, cây bi,
dây leo, các loài phong lan đối tượng tác động ca ti hy hoi rng bng vic
sa, đổi b sung Điu 243 hoặc quy định dn chiếu tới văn bản hướng dn thi hành
như thông tư, nghị định liên quan. Đưa các loại cây này vào bng danh mc c th
bằng văn bản để hướng dn thng nhất cho các địa phương áp dng, tránh hiu
nhầm quy định, áp dng sai lut trong x lý.
+ Trường hp din tích rng b thit hi bao gm c din tích các loi cây c,
cây bi, dây leo, các loi phong lan thì việc xác định din tích b thit hi hoc giá
tr lâm sn b thit hi bao gm c các loi cây c, cây bi, dây leo, các loi phong
lan để làm căn cứ truy t TNHS. Phi b sung quy định c th bằng văn bản và cơ
quan có thm quyn thẩm định thit hi v giá tr lâm sn v din tích ca các loi
cây c, cây bi, dây leo, phong lan phi thc hin thẩm định khách quan, trung thc
và đúng quy định pháp lut.
+ Trường hp din tích rng b thit hi chcác loi cây c, cây bi, dây
leo, phong lan hin ti diện tích đất lâm nghiệp đã được ci to, trng mi li
bng các loi cây rng khác thì ch b x pht hành chính v hành vi phát dn cây
rừng trái phép. Nhưng nếu trước đó đã bị x pht hành chính v hành vi này mà còn
tiếp tc vi phm thì mi truy cu TNHS.
+ Trường hp din tích rng phòng h hoc rừng đặc dng không có cây ln
mà chcây c, cây bi, dây leo, phong lan b phá hy thì phi truy cu TNHS vì
tính cht quan trng ca rng phòng h và rừng đặc dng là bt kh xâm phm và
có giá tr v môi trưng rt ln.
+ Đối vi phong lan thì phải quy định ràng chng loài phong lan quý
hiếm, quy định s ng, trọng lượng phong lan c th để làm cơ sở x pht hành
chính hay truy cu TNHS.
58 xuất phát từ quy định chưa rõ ràng, lý luận về đối tượng tác động của tội hủy hoại rừng còn nhiều điểm chưa rõ, chưa có văn bản thống nhất hướng dẫn về đối tượng [11, tr.71-72]. Do đó, tác giả đã dựa trên tình hình thực tế địa phương và kết quả nghiên cứu kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về tội hủy hoại rừng như sau: Thứ nhất: Các cơ quan lập pháp cần có quy định rõ các loại cây cỏ, cây bụi, dây leo, các loài phong lan là đối tượng tác động của tội hủy hoại rừng bằng việc sửa, đổi bổ sung Điều 243 hoặc quy định dẫn chiếu tới văn bản hướng dẫn thi hành như thông tư, nghị định liên quan. Đưa các loại cây này vào bảng danh mục cụ thể bằng văn bản để hướng dẫn thống nhất cho các địa phương áp dụng, tránh hiểu nhầm quy định, áp dụng sai luật trong xử lý. + Trường hợp diện tích rừng bị thiệt hại bao gồm cả diện tích các loại cây cỏ, cây bụi, dây leo, các loại phong lan thì việc xác định diện tích bị thiệt hại hoặc giá trị lâm sản bị thiệt hại bao gồm cả các loại cây cỏ, cây bụi, dây leo, các loại phong lan để làm căn cứ truy tố TNHS. Phải bổ sung quy định cụ thể bằng văn bản và cơ quan có thẩm quyền thẩm định thiệt hại về giá trị lâm sản về diện tích của các loại cây cỏ, cây bụi, dây leo, phong lan phải thực hiện thẩm định khách quan, trung thực và đúng quy định pháp luật. + Trường hợp diện tích rừng bị thiệt hại chỉ có các loại cây cỏ, cây bụi, dây leo, phong lan và hiện tại diện tích đất lâm nghiệp đã được cải tạo, trồng mới lại bằng các loại cây rừng khác thì chỉ bị xử phạt hành chính về hành vi phát dọn cây rừng trái phép. Nhưng nếu trước đó đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn tiếp tục vi phạm thì mới truy cứu TNHS. + Trường hợp diện tích rừng phòng hộ hoặc rừng đặc dụng không có cây lớn mà chỉ có cây cỏ, cây bụi, dây leo, phong lan bị phá hủy thì phải truy cứu TNHS vì tính chất quan trọng của rừng phòng hộ và rừng đặc dụng là bất khả xâm phạm và có giá trị về môi trường rất lớn. + Đối với phong lan thì phải quy định rõ ràng chủng loài phong lan quý hiếm, quy định số lượng, trọng lượng phong lan cụ thể để làm cơ sở xử phạt hành chính hay truy cứu TNHS.
59
Th hai: Cn phi b sung thêm quy định nhằm xác định đối tượng tác động
thuc loi tội nào trong BLHS, đưa quy định này vào trong Điu 243 BLHS 2015
như: “Nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điu 178 ca B luật này” để to
điều kin thun lợi trong xác định đối tượng tác động nhm áp dụng chính xác điều
lut v ti hy hoi rừng để phân bit rõ ràng gia hai ti hy hoi rng và ti hy
hoi hoc c ý làm hư hng tài sn, tránh tình trng áp dụng sai quy định pháp lut
trong hoạt động định tội danh. Do đó, Điu 243 BLHS 2015 cn sớm quy định
hướng dẫn đối tượng tác động gia ti hy hoi rng và hy hoi hoc c ý làm
hng tài sn, cần văn bản hướng dẫn quy định c th rng nào thuc tài sn
nhà nước, rng nào thuc s hu cá nhân, h gia đình, tổ chc được nhà nước giao,
quản lý để áp dụng điều luật chính xác trong định ti danh.
Trưng hợp đốt, phá rng trái phép hoc hành vi khác hy hoi rng
trng, rừng khoanh nuôi tái sinh đã được quan nhà nước thm quyn quyết
định giao cho t chc, tp th, h gia đình, cá nhân sử dng ổn định lâu dài vào mc
đích lâm nghiệp người được giao đã bỏ vốn đầu trồng rừng, chăm sóc, bảo
v, thì phi chu TNHS.
Trưng hợp đất thuc quyn s dụng đất ca t chc, các nhân, h gia đình
nhưng được quan nhà ớc đầu kinh phí, cây giống, thuật,… thì khi thực
hin hành vi hy hoi rng trái phép vn phi b truy cu TNHS
Trưng hp t chc, cá nhân, h gia đình dùng đất thuc quyn s dụng đất
của mình để trng trng, trc tiếp đầu chi phí, phát trin kinh tế rng. Khi thc
hin hành vi hy hoi rng trên không làm ảnh hưởng đến môi trường sung
quanh thì không b truy cu TNHS. Hành vi hy hoi nêu trên b truy cu TNSH v
ti hy hoi hoc c ý làm hư hỏng tài sn. [47, tr. 67].
3.1.2. Hoàn thiện quy định v tình tiết định khung hình pht ca ti hy hoi
rng
Điều 243 BLHS 2015 đã khắc phục được hn chế như: Khi xét x ti hy
hoi rng phi vin dẫn căn cứ vào định lượng quy định tại văn bản hướng dn
v định lượng, din tích, giá tr lâm sn b thit hi khi xây dng các khung hình
phạt cơ bản và khung hình phạt tăng nặng.
59 Thứ hai: Cần phải bổ sung thêm quy định nhằm xác định đối tượng tác động thuộc loại tội nào trong BLHS, đưa quy định này vào trong Điều 243 BLHS 2015 như: “Nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 178 của Bộ luật này” để tạo điều kiện thuận lợi trong xác định đối tượng tác động nhằm áp dụng chính xác điều luật về tội hủy hoại rừng để phân biệt rõ ràng giữa hai tội hủy hoại rừng và tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, tránh tình trạng áp dụng sai quy định pháp luật trong hoạt động định tội danh. Do đó, Điều 243 BLHS 2015 cần sớm có quy định hướng dẫn đối tượng tác động giữa tội hủy hoại rừng và hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, cần có văn bản hướng dẫn và quy định cụ thể rừng nào thuộc tài sản nhà nước, rừng nào thuộc sở hữu cá nhân, hộ gia đình, tổ chức được nhà nước giao, quản lý để áp dụng điều luật chính xác trong định tội danh. Trường hợp đốt, phá rừng trái phép hoặc có hành vi khác hủy hoại rừng trồng, rừng khoanh nuôi tái sinh đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao cho tổ chức, tập thể, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp mà người được giao đã bỏ vốn đầu tư trồng rừng, chăm sóc, bảo vệ, thì phải chịu TNHS. Trường hợp đất thuộc quyền sử dụng đất của tổ chức, các nhân, hộ gia đình nhưng được cơ quan nhà nước đầu tư kinh phí, cây giống, kĩ thuật,… thì khi thực hiện hành vi hủy hoại rừng trái phép vẫn phải bị truy cứu TNHS Trường hợp tổ chức, cá nhân, hộ gia đình dùng đất thuộc quyền sử dụng đất của mình để trồng trừng, trực tiếp đầu tư chi phí, phát triển kinh tế rừng. Khi thực hiện hành vi hủy hoại rừng trên mà không làm ảnh hưởng đến môi trường sung quanh thì không bị truy cứu TNHS. Hành vi hủy hoại nêu trên bị truy cứu TNSH về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. [47, tr. 67]. 3.1.2. Hoàn thiện quy định về tình tiết định khung hình phạt của tội hủy hoại rừng Điều 243 BLHS 2015 đã khắc phục được hạn chế như: Khi xét xử tội hủy hoại rừng và phải viện dẫn căn cứ vào định lượng quy định tại văn bản hướng dẫn về định lượng, diện tích, giá trị lâm sản bị thiệt hại khi xây dựng các khung hình phạt cơ bản và khung hình phạt tăng nặng.
60
Thc tế, rng phòng h rừng đặc dng giá tr ý nghĩa về môi
trưng lớn hơn rừng sn xut và các loi rng khác. Vì vy, cn phải quy đnh rng
phòng h rừng đặc dngvào bo v đặc bit. Điều 243 BLHS 2015 quy định
rng phòng h rừng đặc dụng định lượng để xác định khung hình pht cao
hơn so với quy định Điu 189 BLHS 1999 s dn ti h ly nghiêm trng. Trong
đó, nguy him nht kh năng bảo v môi trưng, hn chế thiên tai, điều hòa khí
hu, bo tồn các loài động thc vt quý hiếm ca rng phòng hrừng đặc dng.
Việc BLHS 2015 quy định các yếu t định khung cơ bản đối vi 02 loi rng này là
chưa hợp lý. vy, tác gi kiến ngh cn sửa đổi, b sung Điu 243 BLHS 2015
theo hưng gim dn v định lượng din tích thit hi ca rng phòng h rng
đặc dụng trong quy định ca khung hình phạt như sau:
Bng 7. Đề ngh mức định ng mi ca rng phòng h rừng đặc
dng
Loi
rng
Định lưng theo BLHS 2015
Định lượng đề ngh sađổi
Khon 1
Khon 2
Khn 3
Khon 1
Khon 2
Khn 3
Rng
phòng
h
3.000 m2
đến dưới
7.000 m2
7.000 m2
đến dưới
10.000 m2
10.000
m2 tr
lên
2.000 m2
đến dưới
5.000 m2
5.000 m2
đến dưới
7.000 m2
7.000
m2 tr
lên
Rng
đặc
dng
1.000 m2
đến dưới
3.000 m2
3.000 m2
đến dưới
5.000 m2
5.000 m2
tr lên
1.000 m2
đến dưới
2.000 m2
2.000 m2
đến dưới
3.000 m2
3.000
m2 tr
lên
Riêng đối với rừng sản xuất tác giả kiến nghị giữ nguyên mức định lượng về
diện tích rừng bị phá hủy theo quy định Điều 243 BLHS 2015. là loại rừng phục
vụ cho hoạt động sản xuất và có thể phục hồi nhanh.
3.1.3. Hoàn thiện quy định về hình phạt của tội hủy hoại rừng
Việc quy định hình phạt tại Điều 243 BLHS 2015 về tội hủy hoại rừng vẫn
còn tồn tại một số bất cập trong áp dụng và thi hành pháp luật như sau:
60 Thực tế, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng có giá trị và có ý nghĩa về môi trường lớn hơn rừng sản xuất và các loại rừng khác. Vì vậy, cần phải quy định rừng phòng hộ và rừng đặc dụngvào bảo vệ đặc biệt. Điều 243 BLHS 2015 quy định rừng phòng hộ và rừng đặc dụng có định lượng để xác định khung hình phạt cao hơn so với quy định Điều 189 BLHS 1999 sẽ dẫn tới hệ lụy nghiêm trọng. Trong đó, nguy hiểm nhất là khả năng bảo vệ môi trường, hạn chế thiên tai, điều hòa khí hậu, bảo tồn các loài động thực vật quý hiếm của rừng phòng hộ và rừng đặc dụng. Việc BLHS 2015 quy định các yếu tố định khung cơ bản đối với 02 loại rừng này là chưa hợp lý. Vì vậy, tác giả kiến nghị cẩn sửa đổi, bổ sung Điều 243 BLHS 2015 theo hướng giảm dần về định lượng diện tích thiệt hại của rừng phòng hộ và rừng đặc dụng trong quy định của khung hình phạt như sau: Bảng 7. Đề nghị mức định lượng mới của rừng phòng hộ và rừng đặc dụng Loại rừng Định lượng theo BLHS 2015 Định lượng đề nghị sửađổi Khoản 1 Khoản 2 Khản 3 Khoản 1 Khoản 2 Khản 3 Rừng phòng hộ 3.000 m2 đến dưới 7.000 m2 7.000 m2 đến dưới 10.000 m2 10.000 m2 trở lên 2.000 m2 đến dưới 5.000 m2 5.000 m2 đến dưới 7.000 m2 7.000 m2 trở lên Rừng đặc dụng 1.000 m2 đến dưới 3.000 m2 3.000 m2 đến dưới 5.000 m2 5.000 m2 trở lên 1.000 m2 đến dưới 2.000 m2 2.000 m2 đến dưới 3.000 m2 3.000 m2 trở lên Riêng đối với rừng sản xuất tác giả kiến nghị giữ nguyên mức định lượng về diện tích rừng bị phá hủy theo quy định Điều 243 BLHS 2015. Vì là loại rừng phục vụ cho hoạt động sản xuất và có thể phục hồi nhanh. 3.1.3. Hoàn thiện quy định về hình phạt của tội hủy hoại rừng Việc quy định hình phạt tại Điều 243 BLHS 2015 về tội hủy hoại rừng vẫn còn tồn tại một số bất cập trong áp dụng và thi hành pháp luật như sau:
61
Thứ nhất: Hình phạt tiền vừa là hình phạt chính vừa hình phạt bổ sung
chưa tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm, cũng như thiệt hại gây ra của
hành vi hủy hoại rừng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp người phạm tội khó
khăn về kinh tế thì hình phạt tiền đối với các đối tượng này là không hợp lý và khó
có khả năng thi hành án. vậy, kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định về hình phạt
tiền đối với tội hủy hoại rừng trong trường hợp người phạm tội người đồng bào
dân tộc có kinh tế khó khăn thì được xem xét miễn, giảm hình phạt tiền.
Thứ hai: Hình phạt thời hạn quy định với mức dao động của khung
hình phạt khá lớn: (Khoản 1 thì từ 01 năm đến 5 năm, khoản 2 thì 3 năm đến 7 năm,
khoản 3 từ 7 năm đến 15 năm), nên việc quyết định hình phạt chưa thể thực hiện
khách quan thường dựa trên chủ quan duy ý chí của quan xét xử người
tiến hành tố tụng. Việc quy định hình phạt đối với tội hủy hoại rừng chưa thể hiện
được mức tương xứng đối với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội
hủy hoại rừng gây ra, cách xây dựng quy định của nhà lập pháp chưa phù hợp, biên
độ hình phạt lớn, cũng như khả năng dự liệu cho quy định hình phạt và mức hình
phạt chưa cao. Khi xây dựng BLHS 2015, nhà lập pháp còn theo tư duy của BLHS
1999, chưa xây dựng, so sánh hậu quả thiệt hại của hành vi hủy hoại rừng với mức
độ ảnh hưởng đến đời sống xã hội, ảnh hưởng đến môi trường như hiện nay. Điều
243 BLHS 2015 quy định về phạt và mức phạt có sự điều chỉnh rõ ràng hơn và tích
cực hơn so với quy định tại BLHS 1999. Tuy nhiên, xét về mặt toàn diện thì vẫn
còn hạn chế trong tình hình kinh tế, hội của Đất nước hiện nay. Cụ thể, nhà
làm luật vẫn giữu nguyên mức dao động của khung hình phạt giữa khoản 1
khoản 2 còn rất lớn, và giữa hai khoản này vẫn chưa rõ ràng về số năm phạt tù, giữa
hai khoản có sự mâu thuẩn về mức hình phạt dẫn đến cơ quan tiến hành tố tụng rất
khó khăn trong việc xác định khoản hình phạt để áp dụng và thường xét xử theo tư
duy chủ quan. Trên sở đó tác giả kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện
quy định về hình phạt đối với tội hủy hoại rừng như sau:
Thứ nhất: Về mức hình phạt tiền quy định tại khoản 4 Điều 243 BLHS cần
có sự điều chỉnh lại cho phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay, phải có mức phạt
61 Thứ nhất: Hình phạt tiền vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung chưa tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm, cũng như thiệt hại gây ra của hành vi hủy hoại rừng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp người phạm tội khó khăn về kinh tế thì hình phạt tiền đối với các đối tượng này là không hợp lý và khó có khả năng thi hành án. Vì vậy, kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định về hình phạt tiền đối với tội hủy hoại rừng trong trường hợp người phạm tội là người đồng bào dân tộc có kinh tế khó khăn thì được xem xét miễn, giảm hình phạt tiền. Thứ hai: Hình phạt tù có thời hạn quy định với mức dao động của khung hình phạt khá lớn: (Khoản 1 thì từ 01 năm đến 5 năm, khoản 2 thì 3 năm đến 7 năm, khoản 3 từ 7 năm đến 15 năm), nên việc quyết định hình phạt chưa thể thực hiện khách quan mà thường dựa trên chủ quan duy ý chí của cơ quan xét xử và người tiến hành tố tụng. Việc quy định hình phạt đối với tội hủy hoại rừng chưa thể hiện được mức tương xứng đối với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội hủy hoại rừng gây ra, cách xây dựng quy định của nhà lập pháp chưa phù hợp, biên độ hình phạt lớn, cũng như khả năng dự liệu cho quy định hình phạt và mức hình phạt chưa cao. Khi xây dựng BLHS 2015, nhà lập pháp còn theo tư duy của BLHS 1999, chưa xây dựng, so sánh hậu quả thiệt hại của hành vi hủy hoại rừng với mức độ ảnh hưởng đến đời sống xã hội, ảnh hưởng đến môi trường như hiện nay. Điều 243 BLHS 2015 quy định về phạt và mức phạt có sự điều chỉnh rõ ràng hơn và tích cực hơn so với quy định tại BLHS 1999. Tuy nhiên, xét về mặt toàn diện thì vẫn còn hạn chế trong tình hình kinh tế, xã hội của Đất nước hiện nay. Cụ thể, là nhà làm luật vẫn giữu nguyên mức dao động của khung hình phạt giữa khoản 1 và khoản 2 còn rất lớn, và giữa hai khoản này vẫn chưa rõ ràng về số năm phạt tù, giữa hai khoản có sự mâu thuẩn về mức hình phạt dẫn đến cơ quan tiến hành tố tụng rất khó khăn trong việc xác định khoản hình phạt để áp dụng và thường xét xử theo tư duy chủ quan. Trên cơ sở đó tác giả kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định về hình phạt đối với tội hủy hoại rừng như sau: Thứ nhất: Về mức hình phạt tiền quy định tại khoản 4 Điều 243 BLHS cần có sự điều chỉnh lại cho phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay, phải có mức phạt
62
tiền phù hợp để bản án có khả năng thi hành. Đặc biệt, đối với các đối tượng phạm
tội hủy hoại rừng kinh tế khó khăn không thể thi hành hình phạt tiền thì
thể quy định phạt bằng các biện pháp khác như lao động công ích, trồng rừng, chăm
sóc rừng,…
Thứ hai: Việc quy định mức hình phạt tù giữa khoản 2 và khoản 3 Điều 243
BLHS 2015 có sự phân định rõ ràng. Tuy nhiên, quy định của khoản 1 là từ 01 năm
đến 05 năm khoản 2 từ 03 năm đến 07 năm sự chồng chéo, trùng lặp nhau
trong khoản thời gian 03 năm đến 05 m. Từ thực tiễn tố tụng tại tỉnh Đắk Lắk,
những đối tượng thực hiện hành vi hủy hoại rừng thường đi cùng với rất nhiều tình
tiết giảm nhẹ như: Nhận thức kém về pháp luật, người dân tộc thiểu số, lao
động duy nhất trong gia đình, sinh sống tại vùng đặc biệt khó khăn, gia đình
hoàn cảnh khó khăn, thành khẩn khai báo, ăn n hối cải, lập công chuộc tội,
Như vậy, sẽ xảy ra những trường hợp đối tượng mặc dù phạm tội tại khoản 1 nhưng
lại bị xử lý nặng hơn đối tượng khác phạm tội ở khoản 2 mà có nhiều tình tiết giảm
nhẹ. Việc áp dụng pháp luật để quyết định hình phạt ở các địa phương sẽ không
sự thống nhất. Do đó, cần phải có sự phân định rõ ràng khung hình phạt, điều chỉnh
mức hình phạt giữa khoản 1 và khoản 2 Điều 243 BLHS giống như quy định giữa
khoản 2 và khoản 3 [47, tr. 70]. Cụ thể các mức như sau là hợp lý và dễ dàng trong
công tác áp dụng:
+ Khoản 1 từ 01 năm đến 03 năm;
+ Khoản 2 từ 03 năm đến 7 năm;
+ Khoản 3 từ 07 năm đến 15 năm;
3.1.4. Áp dụng án lệ làm nguồn của pháp luật
Đắk Lắk là tỉnh tội phạm hủy hoại rừng thường xuyên diễn ra, nhiều vụ
phạm tội hủy hoại rừng có tính chất, mức độ và nội dung vụ án giống nhau. Vì vậy,
để hệ thống pháp luật hoàn thiện, nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án trong xét xử
các vụ án phạm tội hủy hoại rừng có nội dung, tính chất và mức độ giống nhau thì
tác giả kiến nghị nên lựa chọn các bản án, quyết định của Tòa án đã xét xử để chọn
làm nguồn của pháp luật, áp dụng án lệ vào trong xét xử các vụ án phạm tội hủy
62 tiền phù hợp để bản án có khả năng thi hành. Đặc biệt, đối với các đối tượng phạm tội hủy hoại rừng mà có kinh tế khó khăn không thể thi hành hình phạt tiền thì có thể quy định phạt bằng các biện pháp khác như lao động công ích, trồng rừng, chăm sóc rừng,… Thứ hai: Việc quy định mức hình phạt tù giữa khoản 2 và khoản 3 Điều 243 BLHS 2015 có sự phân định rõ ràng. Tuy nhiên, quy định của khoản 1 là từ 01 năm đến 05 năm và khoản 2 từ 03 năm đến 07 năm có sự chồng chéo, trùng lặp nhau trong khoản thời gian 03 năm đến 05 năm. Từ thực tiễn tố tụng tại tỉnh Đắk Lắk, những đối tượng thực hiện hành vi hủy hoại rừng thường đi cùng với rất nhiều tình tiết giảm nhẹ như: Nhận thức kém về pháp luật, là người dân tộc thiểu số, là lao động duy nhất trong gia đình, sinh sống tại vùng đặc biệt khó khăn, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, lập công chuộc tội, … Như vậy, sẽ xảy ra những trường hợp đối tượng mặc dù phạm tội tại khoản 1 nhưng lại bị xử lý nặng hơn đối tượng khác phạm tội ở khoản 2 mà có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Việc áp dụng pháp luật để quyết định hình phạt ở các địa phương sẽ không có sự thống nhất. Do đó, cần phải có sự phân định rõ ràng khung hình phạt, điều chỉnh mức hình phạt giữa khoản 1 và khoản 2 Điều 243 BLHS giống như quy định giữa khoản 2 và khoản 3 [47, tr. 70]. Cụ thể các mức như sau là hợp lý và dễ dàng trong công tác áp dụng: + Khoản 1 từ 01 năm đến 03 năm; + Khoản 2 từ 03 năm đến 7 năm; + Khoản 3 từ 07 năm đến 15 năm; 3.1.4. Áp dụng án lệ làm nguồn của pháp luật Đắk Lắk là tỉnh có tội phạm hủy hoại rừng thường xuyên diễn ra, nhiều vụ phạm tội hủy hoại rừng có tính chất, mức độ và nội dung vụ án giống nhau. Vì vậy, để hệ thống pháp luật hoàn thiện, nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án trong xét xử các vụ án phạm tội hủy hoại rừng có nội dung, tính chất và mức độ giống nhau thì tác giả kiến nghị nên lựa chọn các bản án, quyết định của Tòa án đã xét xử để chọn làm nguồn của pháp luật, áp dụng án lệ vào trong xét xử các vụ án phạm tội hủy
63
hoại rừng có nội dung giống nhau. Từ đó góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả công tác xét xử của Tòa án.
3.1.5. Sửa đổi, bổ sung và hướng dẫn giải thích quy định pháp luật
Hiện nay, việc pháp luật hình sự còn nhiều mâu thuẩn, chưa thống nhất trong
cách hiểu thường nhầm lẫn, chồng chéo quy định. Từ đó, gây khó khăn trong
công tác xử lý, tạo kẻ hở cho tội phạm thực hiện hành vi phạm tội. BLHS 2015 đã
có những sửa đổi, bổ sung tích cực nhưng vẫn còn những hạn chế. Đặc biệt, là quy
định về tội hủy hoại rừng đã có sự tiến bộ và đem lại nhiều hiệu quả tích cực trong
quản lý, bảo vệ tài nguyên rừng. Nhưng đối với tỉnh Đắk Lắk là tỉnh đặc thù có diện
tích rừng lớn, dân cư đa dạng phức tạp nên việc áp dụng quy định tội hủy hoại rừng
theo Điều 243 BLHS 2015 vẫn còn nhiều khó khăn và hạn chế. Trong các tội phạm
môi trường không có tội phạm nào thuộc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, không áp
dụng hình phạt cao nhất chung thân tử hình đối với tội phạm hủy hoại rừng,
hình phạt chỉ dừng lại mức cao nhất phạt thời hạn. vậy, tác giả kiến
nghị nên bổ sung thêm hình phạt chung thân đối với hành vi phạm tội huỷ hoại rừng
trường hợp đặc biệt nghiêm trọng như gây chết người, gây thiên tai, làm tuyệt
chủng động thực vật. Mặc khác, đối với chủ thể pháp nhân thương mại phạm tội
hủy hoại rừng là một chủ thể mới được luật hình sự quy định là tội phạm nên công
tác áp dụng pháp luật gặp khó khăn. Vì vậy, cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn
cụ thể các vấn đề liên quan đến pháp nhân thương mại để việc áp dụng pháp luật
được thuận lợi, dễ dàng và đạt hiệu quả [11, tr. 76].
3.1.6. Hoàn thiện các quy định về tội phạm hình phạt đối với chủ thể
pháp nhân thương mại
Điều 243 BLHS 2015 lần đầu tiên quy định pháp nhân thương mại là chủ thể
của tội hủy hoại rừng nên hiện nay điều luật quy định về tội phạm và hình phạt đối
với pháp nhân thương mại còn sài chưa có hướng dẫn áp dụng chi tiết,
ràng. vậy, cần phải sửa đổi, bổ sung ban hành các văn bản hướng dẫn, mặc
khác địa bàn tỉnh Đắk Lắklà địa bàn đặc thù có diện tích rừng lớn, rừng được giao
phần lớn cho các Công ty lâm nghiệp, ban quản lý rừng đặc dụng, ban quản lý rừng
63 hoại rừng có nội dung giống nhau. Từ đó góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác xét xử của Tòa án. 3.1.5. Sửa đổi, bổ sung và hướng dẫn giải thích quy định pháp luật Hiện nay, việc pháp luật hình sự còn nhiều mâu thuẩn, chưa thống nhất trong cách hiểu và thường nhầm lẫn, chồng chéo quy định. Từ đó, gây khó khăn trong công tác xử lý, tạo kẻ hở cho tội phạm thực hiện hành vi phạm tội. BLHS 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung tích cực nhưng vẫn còn những hạn chế. Đặc biệt, là quy định về tội hủy hoại rừng đã có sự tiến bộ và đem lại nhiều hiệu quả tích cực trong quản lý, bảo vệ tài nguyên rừng. Nhưng đối với tỉnh Đắk Lắk là tỉnh đặc thù có diện tích rừng lớn, dân cư đa dạng phức tạp nên việc áp dụng quy định tội hủy hoại rừng theo Điều 243 BLHS 2015 vẫn còn nhiều khó khăn và hạn chế. Trong các tội phạm môi trường không có tội phạm nào thuộc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, không áp dụng hình phạt cao nhất là chung thân và tử hình đối với tội phạm hủy hoại rừng, hình phạt chỉ dừng lại ở mức cao nhất là phạt tù có thời hạn. Vì vậy, tác giả kiến nghị nên bổ sung thêm hình phạt chung thân đối với hành vi phạm tội huỷ hoại rừng ở trường hợp đặc biệt nghiêm trọng như gây chết người, gây thiên tai, làm tuyệt chủng động thực vật. Mặc khác, đối với chủ thể là pháp nhân thương mại phạm tội hủy hoại rừng là một chủ thể mới được luật hình sự quy định là tội phạm nên công tác áp dụng pháp luật gặp khó khăn. Vì vậy, cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể các vấn đề liên quan đến pháp nhân thương mại để việc áp dụng pháp luật được thuận lợi, dễ dàng và đạt hiệu quả [11, tr. 76]. 3.1.6. Hoàn thiện các quy định về tội phạm và hình phạt đối với chủ thể là pháp nhân thương mại Điều 243 BLHS 2015 lần đầu tiên quy định pháp nhân thương mại là chủ thể của tội hủy hoại rừng nên hiện nay điều luật quy định về tội phạm và hình phạt đối với pháp nhân thương mại còn sơ sài và chưa có hướng dẫn áp dụng chi tiết, rõ ràng. Vì vậy, cần phải sửa đổi, bổ sung và ban hành các văn bản hướng dẫn, mặc khác địa bàn tỉnh Đắk Lắklà địa bàn đặc thù có diện tích rừng lớn, rừng được giao phần lớn cho các Công ty lâm nghiệp, ban quản lý rừng đặc dụng, ban quản lý rừng
64
phòng hộ, UBND các cấp, doanh nghiệp, nhân, hộ gia đình quản nên chủ thể
chức năng thẩm quyền quản tài nguyên rừng trên địa bàn tỉnh là rất đa
dạng. Vì vậy, BLHS các văn bản hướng dẫn thi hành BLHS cần phải được sửa
đổi, bổ sung hướng dẫn quy định về tội phạm hình phạt đối với pháp nhân
thương mại. Cụ thể, đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật về hình phạt đối với
pháp nhân thương mại phạm tội.
Bảng 8. Đề xuất mức phạt tiền mới đối với pháp nhân thương mại phạm
tội.
Khoản 5 Điều 243
Mức phạt hiện tại
Phức phạt kiến nghị sửa đổi
Điểm a
500.000.000 đồng đến
2.000.000.000 đồng.
1.000.000.000 đồng đến
3.000.000.000 đồng.
Điểm b
2.000.000.000 đồng đến
5.000.000.000 đồng.
3.000.000.000 đồng đến
6.000.000.000 đồng.
Điểm c
5.000.000.000 đồng đến
7.000.000.000 đồng. Đình
chỉ hoạt động từ 06 tháng
đến 03 năm.
6.000.000.000 đồng đến
10.000.000.000 đồng. Đình
chỉ hoạt động từ 03 tháng đến
01 năm.
Điểm d đ Điều 243 BLHS 2015 giữ nguyên không cần thay đổi. Tuy
nhiên phải ban hành văn bản hướng dẫn thi hành chi tiết các điểm này hoặc hướng
dẫn dẫn chiếu đến văn bản pháp luật có liên quan.
3.1.7. Tăng cường hợp tác quốc tế và kết các điều ước quốc tế về bảo vệ
rừng
Hiện nay nước tham gia ký kết các điều ước quốc tế như: Công ước về bảo
vệ tầng ô zôn 1985; Công ước về chống sa mạc hóa của Liên Hiệp Quốc (UNCCD)
1992; Công ước về biến đổi khí hậu của Liên Hiệp Quốc UNFCCC 1992; Công ước
về đa dạng sinh học CBD 1992,… Các điều ước quốc tế y sở pháp để
nước ta thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường bảo vệ tài nguyên rừng, làm
cơ xây dựng các quy định pháp luật phù hợp với quy định chung của thế giới. Ngoài
64 phòng hộ, UBND các cấp, doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình quản lý nên chủ thể có chức năng và thẩm quyền quản lý tài nguyên rừng trên địa bàn tỉnh là rất đa dạng. Vì vậy, BLHS và các văn bản hướng dẫn thi hành BLHS cần phải được sửa đổi, bổ sung và hướng dẫn quy định về tội phạm và hình phạt đối với pháp nhân thương mại. Cụ thể, là đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật về hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Bảng 8. Đề xuất mức phạt tiền mới đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Khoản 5 Điều 243 Mức phạt hiện tại Phức phạt kiến nghị sửa đổi Điểm a 500.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng. 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng. Điểm b 2.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng. 3.000.000.000 đồng đến 6.000.000.000 đồng. Điểm c 5.000.000.000 đồng đến 7.000.000.000 đồng. Đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 03 năm. 6.000.000.000 đồng đến 10.000.000.000 đồng. Đình chỉ hoạt động từ 03 tháng đến 01 năm. Điểm d và đ Điều 243 BLHS 2015 giữ nguyên không cần thay đổi. Tuy nhiên phải ban hành văn bản hướng dẫn thi hành chi tiết các điểm này hoặc hướng dẫn dẫn chiếu đến văn bản pháp luật có liên quan. 3.1.7. Tăng cường hợp tác quốc tế và ký kết các điều ước quốc tế về bảo vệ rừng Hiện nay nước tham gia ký kết các điều ước quốc tế như: Công ước về bảo vệ tầng ô zôn 1985; Công ước về chống sa mạc hóa của Liên Hiệp Quốc (UNCCD) 1992; Công ước về biến đổi khí hậu của Liên Hiệp Quốc UNFCCC 1992; Công ước về đa dạng sinh học CBD 1992,… Các điều ước quốc tế này là cơ sở pháp lý để nước ta thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường và bảo vệ tài nguyên rừng, làm cơ xây dựng các quy định pháp luật phù hợp với quy định chung của thế giới. Ngoài