Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội hủy hoại rừng theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk
9,474
517
84
45
tiếp với bên ngoài nên trình độ học vấn và hiểu biết về pháp luật rất hạn chế.
Vì
vậy, để đảm bảo đúng tố tụng thì trong quá trình tố tụng phải có sự tham gia của
người phiên dịch. Điều nàylàm cho quá trình tố tụng phức tạp, tốn kém chi phí và
thời gian.
- Trong quá trình xét xử vụ án, các bị can, bị cáo là người dân tộc thiểu số có
kinh tế khó khăn, hiểu biết pháp luật còn hạn chế nên xét xử ít có sự tham gia
của
Luật sư bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo. Hầu hết
các bị can, bị cáo tự bào chữa hoặc để cơ quan tố tụng giải quyết theo quy định
pháp luật về tố tụng hình sự.
- Quy định pháp luật hình sự về tội hủy hoại rừng trong BLHS khi áp dụng
trong xét xử và quyết định hình phạt đối với tỉnh Đắk Lắk còn nhiều khó khăn.
Các
vụ án hủy hoại rừng khi được đưa ra xét xử thì bị can, bị cáo đều có hoàn cảnh
kinh
tế khó khăn, đa số là người đồng bào dân tộc thiểu sốphá rừng tự phát vì mục
đích
sinh sống và lấy đất canh tác. Nhưng khi đưa ra xét xử và căn cứ vào quy định
pháp
luật về tội hủy hoại rừng theo Điều 243 BLHS 2015 thì điều luật lại quy định mức
phạt tiền đối với hành vi phạm tội hủy hoại rừng, mức phạt này áp dụng với cá
nhân
người phạm tội trên địa bàn tỉnh là không phù hợp và khó có khả năng thi hành.
Vì
đa số những người này có kinh tế rất khó khăn, họ phá rừng để lấy đất canh tác
nên
mới phạm tội, việc Tòa án xét xử và áp dụng hình phạt tiền đối với những người
này vẫn còn nhiều bất cập.
- Việc xác định diện tích rừng bị hủy hoại và giá trị rừng thực tế bị hủy hoại
còn nhiều hạn chế, dẫn đến chưa phân biệt rõ ràng giữa vi phạm pháp luật hình
sự,
vi phạm hành chính, vi phạm dân sự để đưa vụ án ra xét xử hay chỉ dừng lại ở
phạt
hành chính, bồi thường dân sự. Tòa án xét xử dựa trên kết luận điều tra của cơ
quan
Công an và cáo trạng của Viện Kiểm Sát, căn cứ vào các tình tiết của vụ án, vào
quy định pháp luật trong BLHS và căn cứ vào diện tích rừng bị hủy hoại, giá trị
rừng bị hủy hoại dựa trên kết quả giám định. Điều này đặc ra vấn đề liệu kết quả
giám định đấy có chính xác không, có khách quan không. Từ đó làm cơ sở cho Tòa
án xét xử khách quan và đúng pháp luật. Nhiều trường hợp đáng lẽ phải truy cứu
46
TNHS thì lại dừng ở mức phạt hành chính và ngược lại.
2.2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt và các biện pháp tư pháp
Thực tiễn áp dụng hình phạt
Theo quy định Điều 30 BLHS 2015 thì “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong luật này, do Tòa án quyết
định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ
hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó” [20, Điều 30].
Cũng theo quy định tại Điều 32 BLHS 2015 thì hình phạt được phân thành hai loại
là hình phạt chính và hình phạt bổ sung, việc áp dụng hình phạt được thực hiện
theo
nguyên tắc “ đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt
chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung” [20, Điều 32].
Hình phạt chính bao gồm: Cảnh cáo; phạt tiền; cải tạo không giam giữ;
trục xuất; Tù có thời hạn; Tù chung thân; Tử hình.
Hình phạt bổ sung gồm: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định; Cấm cư trú; Quản chế; Tước một số quyền công dân; Tịch
thu tài sản; Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; Trục xuất, khi
không áp
dụng là hình phạt chính.
Như vậy, từ khái niệm và quy định pháp luật thì tội hủy hoại rừng cũng như
các tội khác quy định trong BLHS đều phải chịu hình phạt. Quyết định hình phạt
có
thể hiểu là lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể trong phạm
vi
chế tài để áp dụng đối với cá nhân, pháp nhân thương mại. Quyết định hình phạt
có
ý nghĩa rất lớn trong tố tụng, là giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình xét
xử, thể
hiện tính công bằng trong quy luật nhân quả, tính nghiêm minh của quy định pháp
luật. Thể hiện đường lối, chính sách pháp luật của nước ta không chỉ nhằm mục
đích trừng trị mà còn mang tính nhân đạo,hướng thiện.
Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk hiện nay hầu hết đều rất nghiêm khắc đối với chủ thể phạm tội vì diện
tích
rừng và giá trị thiệt hại lớn, nên theo quy định hình phạt phải nghiêm khắc và
nặng
hơn mức bình thường. Hầu hết các vụ do Tòa án xét xử đều có mức hình phạt từ 03
47
đến 07 năm tù, theo báo cáo của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk thì trong năm 2018
có đến 65% vụ án về tội hủy hoại rừng bị xử phạt với mức án theo khoản 2 Điều
243 BLHS từ 03 năm đến 07 năm [36]. Ngoài ra, cùng với hình phạt chính người
phạm tội còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 4
từ
20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ 01 đến 05 năm.
Các vụ án về tội hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh sau khi tuyên án sơ thẩm,
các bị cáo đều có kháng cáo lên cấp phúc thẩm để xin giảm nhẹ hình phạt. Vì vậy,
làm cho thời gian tố tụng bị kéo dài, thủ tục tố tụng phức tạp, gây quá tải đối
với
Tòa án cấp tỉnh.
Bảng 6. Số vụ án hủy hoại rừng có kháng cáo, kháng nghị từ năm 2014
đến 2018 của tỉnh Đắk Lắk
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát của VKSND tỉnh Đắk Lắk từ năm
2014 đến năm 2018.
- Thông qua bảng số liệu thống kê ta thấy được số vụ án kháng nghị
kháng cáo về tội hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh chiếm tỷ lệ rất lớn so với tổng
số
vụ án phạm tội hủy hoại rừng được Tòa án đưa ra xét xử, tỷ lệ chấp nhận kháng
cáo
và chấp nhận kháng nghị cũng rất cao. Nguyên nhân của việc chấp nhận kháng cáo
kháng nghị cao là vì đa phần các bị can, bị cáo trong vụ án hủy hoại rừng trên
địa
bàn tỉnh thường là người dân tộc thiểu số, kinh tế khó khăn, phạm tội lần đầu và
do
Năm
Số vụ xét
xử
Số vụ kháng
cáo
Số vụ
kháng
nghị
Số vụ
kháng cáo
chấp nhận
Số vụ kháng
nghị chấp
nhận
2014
86
74
6
68
5
2015
78
70
5
52
4
2016
68
62
5
59
4
2017
63
58
4
52
3
2018
30
26
2
24
2
48
thiếu hiểu biết pháp luật cũng như vì mục đích đốt rừng, phá rừng để làm nương
rẫy
kiếm sống nên sau khi xét xử sơ thẩm họ thường kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt
và thường được Tòa án chấp nhân. Việc Tòa án chấp nhận kháng cáo với tỷ lệ cao
thể hiện đường lối chính sách pháp luật luôn quan tâm hỗ trợ và tạo điều kiện
đối
với người đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt thể hiện chính sách nhân đạo,
khoan
hồng đối với những người phạm tội lần đầu do thiếu hiểu biết pháp luật.
Một số vụ kháng cáo, kháng nghị điển hình:
Vụ thứ nhất: Vào ngày 20/03/2017 Hoàng Văn Lâm đến khu vực rừng tại
khu D thuộc rừng phòng hộ đầu nguồn do UBND xã Yang Mao, huyện Krông
Bông, tỉnh Đắk Lắk quản lý. Lâm dùng rựa, rìu và cưa lốc phát dọn những cây nhỏ
liên tục trong 05 ngày. Diện tích rừng bị phá hủy là 5.126m2, thuộc rừng phòng
hộ
đầu nguồn, trữ lượng rừng nghèo, giá trị thiệt hại theo thẩm định là 78.837.000
đồng. Tại cáo trạng số 10/QĐ-KSĐT ngày 20/06/2017 của Viện kiểm sát nhân nhân
huyện Krông Bông đã truy tố Lâm tội hủy hoại rừng theo điểm b khoản 3 Điều 189
BLHS 1999[32]. Ngày 25/06/2017. Bị cáo Lâm có đơn kháng cáo yêu cầu giảm
hình phạt. Tại cấp phúc thẩm Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã chấp nhận kháng
cáo của Lâm, quyết định giảm hình phạt cho Lâm.
Vụ thứ hai: Trong năm 2018 Nguyễn Thanh An đã 03 lần vào rừng phòng hộ
thuộc thuộc huyện Ea’ Hleo để chặt phá rừng làm rẫy. Diện tích rừng bị thiệt hại
là
3.000 m2, loại rừng thiệt hại theo đúng mục đích sử dụng là rừng phòng hộ đầu
nguồn, trữ lượng nghèo, rừng thiệt hại là rừng đang phục hồi trạng thái IIA, giá
trị
thiệt hại là 50.000.000 đồng. Tại cáo trạng số 19/QĐ-KSĐT ngày 20/01/2018 của
viện kiểm sát nhân dân huyện Ea’ Hleo đã truy tố An tội hủy hoại rừng theo điểm
c
khoản 1 Điều 243 BLHS 2015. Xử phạt An 03 năm tù và phạt tiền 50triệu đồng [34].
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo An kháng cáo xin được giảm án. Tại bản án
phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk chấp nhận một phần kháng cáo, giảm
mức tiền phạt cho bị cáo An từ 50 triệu đồng xuống còn 25 triệu đồng.
Qua các vụ án trên xảy ra trên địa bàn tỉnh thì thực tiễn quyết định hình phạt
tội hủy hoại rừng cho thấy chưa có sự thống nhất giữa việc xác định diện tích
rừng
49
bị thiệt hại và mức hình phạt. Theo BLHS 1999 quy định khung hình phạt đối với
tội hủy hoại rừng còn nhiều sơ sài, chưa quy định cụ thể rõ ràng về diện tích bị
hủy
hoại, giá trị thiệt hại của rừng tương ứng với khung hình phạt. Vì vậy, việc áp
dụng
hình phạt theo quy định Điều 189 BLHS 1999 là rất khó khăn và vướng mắc. Đến
BLHS 2015 thì tội hủy hoại rừng được sửa đổi, bổ sung rõ ràng hơn về quy định
diện tích, giá trị rừng bị phá hủy tương xứng với từng mức phạt. Từ đó tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc tồn đọng trong thực tiễn hoạt động quyết định hình
phạt. Giúp cho việc xác định tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trong vụ
án rõ
ràng hơn, giải quyết kháng cáo, kháng nghị đem lại hiệu quả.
Trong thực tế áp dụng hình phạt đối với chủ thể phạm tội hủy hoại rừng theo
Điều 243 BLHS 2015 trên địa bàn tỉnh là đúng quy định pháp luật, đem lại nhiều
hiệu quả trong công tác trừng trị, giáo dục, cải tạo phạm nhân. Tuy nhiên, việc
áp
dụng hình phạt tiền hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc và chưa thể thực
hiện đem lại hiệu quả vì nhiều nguyên nhân khách quan như kinh tế khó khăn,
người phạm tội không có tài sản để thi hành án, người phạm tội là lao động chính
trong gia đình. Vì vậy, áp dụng hình phạt tiền đối với tội hủy hoại rừng trên
địa bàn
tỉnh còn gặp khó khăn và cần phải có giải pháp để giải quyết vấn đề này.
Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự thông qua hoạt động định
tội danh và quyết định hình phạt đối với tội hủy hoại rừng đã được các cơ quan
tiến
hành tố tụng tại tỉnh Đắk Lắk áp dụng cơ bản là chính xác và đúng quy định pháp
luật. Đảm bảo tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và hậu quả xảy
ra
trên thực tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn đọng một số điểm bất cập, thiếu
sót, quy định chưa rõ ràng như: mâu thuẫn dẫn đến hiểu sai các quy định của pháp
luật, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội, người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Chính vì vậy, trong phạm vi nghiên
cứu của luận văn, tác giả trình bày những quy định của pháp luật hình sự, pháp
luật
liên quan đến hoạt động định tội danh, quyết định hình phạt liên quan đến tội
hủy
hoại rừng. Đồng thời nêu lên thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự
đối
với tội hủy hoại rừng tại địa phương. Từ thực tiễn ở địa phương nghiên cứu và đề
50
xuất kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác áp
dụng
pháp luật.
Thực tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp:
Biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế nhà nước được quy định trong
BLHS và do Tòa án áp dụng, bổ sung cho hệ thống hình phạt với mục đích thay thế
hoặc hỗ trợ hình phạt. Các biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 46 BLHS
2015 cụ thể như sau:
Biện pháp tư pháp đối với cá nhân bao gồm: Tịch thu vật, tiền trực tiếp
liên quan đến tội phạm;Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; Buộc
công khai xin lỗi; Bắt buộc chữa bệnh.
Biện pháp tư pháp đối với pháp nhân thương mại gồm: Tịch thu vật, tiền
trực tiếp liên quan đến tội phạm; trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường
thiệt hại;
buộc công khai xin lỗi; khôi phục lại tình trạng ban đầu; thực hiện một số biện
pháp
nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra.
Thực trạng áp dụng các biện pháp tư pháp đối với tội hủy hoại rừng trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk hiện nay đối với cá nhân chủ yếu là biện pháp: Tịch thu vật,
tiền
trực tiếp liên quan đến tội phạm, các vật, công cụ, dụng cụ, phương tiện dùng
vào
việc phạm tội hủy hoại rừng sau khi giải quyết vụ án sẽ được tịch thu sung công
quỷ
nhà nước. Cụ thể, năm 2018 trên địa bàn tỉnh các cơ quan chức năng đã phát hiện
và
xử lý hành vi hủy hoại rừng, sau khi xử lý các cơ quan chức năng đã tịch thu
sung
công quỷ nhà nước 200 máy cưa máy các loại, 250 rìu thô sơ, 86 xe tải dùng để
vận
chuyển gỗ, tịch thu nộp vào kho bạc nhà nước số tiền 1.900.000 đồng [36]. Việc
áp
dụng biện pháp tư pháp buộc bồi thường thiệt hại hiện nay cũng được Tòa án
thường xuyên áp dụng nhưng vẫn chưa đem lại hiệu quả vì hầu hết kinh tế người
phạm tội thuộc dạng khó khăn nên rất khó thi hành. Thực tiễn áp dụng các biện
pháp tư pháp đối với tội hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk hiện nay được
thực hiện theo đúng quy định pháp luật và đem lại hiệu quả, tịch thu sung công
quỷ
nhà nước các máy móc, công cụ, phương tiện phục vụ việc hủy hoại rừng. Từ đó,
hạn chế nạn phá rừng và hủy hoại rừng, sung công quỷ nhà nước số lượng tài sản
51
lớn. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp tư pháp đối với pháp nhân thương mại
còn nhiều hạn chế. Vì pháp nhân thương mại là một chủ thể mới nên việc áp dụng
các biện pháp tư pháp đối với chủ thể này còn chưa quy định rõ ràng và hướng dẫn
cụ thể nên công tác áp dụng pháp luật gặp khó khăn.
2.3. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của hạn chế, bất cập trong
thực tiễn xét xử tội hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh
2.3.1. Hạn chế, bất cập của pháp luật hình sự về tội hủy hoại rừng và các
quy định pháp luật khác có liên quan
Quy định về tội hủy hoại rừng trong BLHS 2015 hiện nay đã được sửa đổi,
bổ sung theo hướng tích cực hơn so với quy định tại BLHS 1999. Những đổi mới
này mang tính tích cực đem lại hiệu quả và đáp ứng được tình hình tội phạm hủy
hoại rừng hiện nay. Tuy nhiên, hiện nay tình hình tội phạm hủy hoại rừng đang
diễn
biến hết sức phức tạp, tinh vi cho nên quy định hiện hành về tội này trong BLHS
vẫn còn một số hạn chế, khó khăn trong thực tiễn. Cụ thể: Thực tế xét xử và
quyết
định hình phạt đối với tội hủy hoại rừng trong thời gian qua cho thấy các cơ
quan
tiến hành tố tụng xuất phát từ biên độ khung hình phạt quá lớn cho nên trong quá
trình xét xử vụ án đã áp dụng hình phạt chưa hợp lý, áp dụng tùy tiện, chủ quan,
duy ý chí. Điều 243 BLHS 2015 đã sửa đổi, bổ sung quy định: Khoản 1 Điều 243
quy định phạt tù từ 01 năm đến 05 năm; Khoản 2 quy định phạt tù từ 03 năm đến 07
năm; Khoản 3 quy định phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Mức phạt trên vẫn chưa
khắc phục được tình trạng biên độ dao động của khung hình phạt quá lớn mà cụ thể
biên độ hình phạt là: 4 năm (khoản 1), 4 năm (khoản 2), 8 năm (khoản 3), việc
pháp
luật quy định như vậy gây khó khăn trong công tác xét xử và quyết định hình phạt
đối với người phạm tội vì biên độ dao động của khung hình phạt là rất lớn. Có
thể
dẫn đến tình trạng tùy tiện, chủ quan duy ý chí, tuyên mức hình phạt cao nhất
trong
khung hình phạt, hoặc thấp nhất trong khung hình phạt nhưng không tương xứng
với hành vi phạm tội. Những hạn chế, bất cập này là nguyên nhân chính gây ra
những khó khăn cho việc quyết định hình phạt. Thông qua đó làm cho hoạt động
đấu tranh phòng, chống tội này chưa đạt được hiệu quả cao, dẫn đến hậu quả là
diện
52
tích rừng và chất lượng rừng ngày càng suy giảm. Do đó, tác giả nhận thấy cần
sớm
cósửa đổi, bổ sung quy định pháp luật và những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn
thiện quy định pháp luật về khung hình phạt đối với tội hủy hoại rừng để đảm bảo
nhu cầu thực tiễn hiện nay [47, tr. 61].
Thực tiễn công tác xét xử còn gặp nhiều khó khăn vì hầu hết những cá nhân
phạm tội hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh chủ yếu là người đồng bào, kinh tế gia
đình khó khăn, trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế dẫn đến việc áp dụng
hình
phạt đối với các chủ thể phạm tội này rất khó đối với cơ quan xét xử. Cụ thể,
Tòa án
trong quá trình xét xử vụ án rất khó khăn trong việc lựa chọn hình phạt phù hợp
mà
vẫn phải đúng theo quy định pháp luật, xét xử đúng người đúng tội nhưng bản án
vẫn phải có khả năng thi hành đối với các chủ thể phạm tội hủy hoại rừng. Khó
khăn trong tuyên hình phạt tiền đối với các chủ thể này vì không có khả năng thi
hành, dẫn đến bản án không thi hành được
Trong nhiều vụ án về hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh, chủ thể phạm tội
thường không xác định được hoặc cố tình lẫn trốn dẫn đến ảnh hưởng đến quá trình
tố tụng cụ thể là quá trình xét xử thiếu các bị can, bị cáo dẫn đến công tác làm
sáng
tỏ các tình tiết vụ án gặp nhiều khó khăn. Cơ quan chức năng không thể điều tra
ra
người thực hiện hành vi hủy hoại rừng, hoặc đối tượng cố tình trốn tránh mà cơ
quan điều tra không thể tìm thấy và bắt buộc phải điều tra, truy tố, xét xử vụ
án mà
thiếu một vài bị can, bị cáo làm cho công tác xét xử tại Tòa án gặp nhiều khó
khăn.
Về thẩm quyền xử lý các vụ hủy hoại rừng còn chồng chéo giữa thẩm quyền
của cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính;
Giữa quy định pháp luật hình sự và luật xử phạt vi phạm hành chính, luật dân
sự.Dẫn đến việc thống nhất áp dụng pháp luật gặp nhiều khó khăn; Giữa thẩm
quyền xử lý các vụ hủy hoại rừng giữa cơ quan điều tra, cơ quan kiểm lâm, ủy ban
nhân dân các cấp, các tổ chức được nhà nước giao và quản lý rừng. Cụ thể nhiều
vụ
án về tính chất mức độ hành vi chỉ đáng lý ra ở mức xử phạt hành chính nhưng lại
bị hình sự hóa lên để truy cứu TNHS và ngược lại nhiều vụ tính chất mức độ
nghiêm trọng của hành vi gây thiệt hại cho rừng rất lớn nhưng lại được các cơ
quan
53
có thẩm quyền xử lý lơ là, bỏ qua chỉ phạt hành chính. Từ những xử lý sai bước
ban
đầu đó của các cơ quan chức năng mà khi đến giai đoạn xét xử tại Tòa án dẫn đến
tình trạng hình sự hóa và phi hình sự hóa ở giai đoạn xét xử.
Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng còn khó khăn về cơ sở vật
chất, con người, chuyên môn nghiệp vụ trong công tác xét xử tội hủy hoại rừng.
Cụ
thể, các Tòa án huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đều thuộc vùng kinh tế khó khăn,
cơ sở vật chất phục vụ cho công tác xét xử còn hạn chế trong tổ chức, phương
tiện
kỹ thuật phục vụ công tác xét xử còn nhiều hạn chế, số lượng thẩm phán và thư ký
Tòa còn hạn chế so với số vụ việc phát sinh cần xét xử, nghiệp vụ xét xử còn hạn
chế. Cụ thể việc xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm tội hủy hoại rừng trên địa
bàn
tỉnh trong công tác di lý gặp nhiều khó khăn, hầu hết các vụ phạm tội hủy hoại
rừng
thì số lượng xét xử các bị can, bị cáo rất đông, khoản cách giữa các Tòa án
huyện
với tòa án tỉnh rất lớn, địa hình thì hiểm trở dẫn đến gây khó khăn trong việc
duy
chuyển đến trụ sở Tòa án để xét xử, gây tốn kém chi phí cho ngân sách nhà nước.
Các bị can, bị cáo phạm tội hủy hoại rừng chủ yếu là người đồng bào dân tộc
thiểu số, trình độ hiểu biết pháp luật hạn chế nên công tác xét xử gặp khó khăn
về
ngôn ngữ, người phiên dịch, cán bộ xét xử gồm Thẩm phán, thư ký, hội thẩm cần
phải có vốn hiểu biết về ngôn ngữ của người đồng bào và am hiểu về phong tục tập
quán của người đồng bào tránh tình trạng xét xử quá cứng nhắc xâm phạm đến
phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo.
Chính quyền điạ phương còn nhiều hạn chế, bất cập trong thực hiện chủ
trương chính sách phân đất và cấp đất cho người đồng bào dân tộc thiểu số sinh
sống và sản xuất. Dẫn đến tình trạng người đồng bào dân tộc thiểu số không có
đất
ở và sản xuất nên lấn vào đất rừng và phá rừng làm nương rẫy.
2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập
Nguyên nhân khách quan:
Do đặc thù của tỉnh là có diện tích rộng lớn, địa hình nhiều đồi núi, nhiều
thành phần dân cư sinh sống, nhiều phong tục tập quán lạc hậu, đời sống còn
nhiều
54
khó khăn dẫn đến khó khăn trong công tác phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố,
xét
xử tội hủy hoại rừng.
Do tỉnh có diện tích rừng lớn nhất cả nước, diện tích đất rừng lớn, rừng có
giá cao về gỗ và động thực vật quý hiếm nên thu hút tội phạm hủy hoại rừng ngày
càng nhiều, tính chất, mức độ, quy mô ngày càng diễn biến phức tạp và tinh vi.
Quy định pháp luật hình sự về tội hủy hoại rừng còn hạn chế về quy định và
mức hình phạt đối với tội hủy hoại rừng còn quá rộng, quy định mức hình phạt còn
chồng chéo dẫn đến tùy tiện áp dụng mức hình phạt trong khung hình phạt, gây khó
khăn trong quá trình xét xử vụ án và quyết định hình phạt.
Luật quy định các mức phạt tiền đối với cá nhân và pháp nhân thương mại
phạm tội hủy hoại rừng vẫn còn chưa hợp lý. Quy định phạt tiền và áp dụng hình
phạt tiền đối với cá nhân phạm tội hủy hoại rừng đa số đều không thực hiện được
vì
những người này không có tiền để nộp phạt do hoàn cảnh kinh tế, gia đình khó
khăn.
Quy định hình phạt đối với pháp nhân thương mại còn nhiều khó khăn vướng
mắc trong công tác áp dụng pháp luật vì pháp nhân thương mại là chủ thể mới, quy
định pháp luật về chủ thể này chưa chi tiết và hướng dẫn thi hành.
Do dân số của tỉnh ngày càng tăng nhanh, đặc biệt là tình trạng dân cư từ các
vùng khác di cư tới sinh sống và làm ăn nên diện tích đất sản xuất và trồng trọt
ngày
càng hạn hẹp, nhu cầu về sử dụng đất vào mục đích canh tác, trồng trọt và để ở
ngày càng tăng. Dẫn đến người dân thiếu đất canh tác phải phá rừng để lấy diện
tích
đất canh tác sản xuất.
Do chính sách quản lý đất đai, cấp đất và giao đất cho người dân còn chưa
hợp lý và chưa đem lại hiệu quả. Các chính sách đối với người đồng bào dân tộc
thiểu số còn nhiều bất cập dẫn đến kinh tế càng khó khăn và tình trạng lấn chiếm
đất rừng làm nương rẫy diễn ra thường xuyên.
Nguyên nhân chủ quan:
Chuyên môn nghiệp vụ xét xử trên địa bàn tỉnh còn nhiều hạn chế nên khi có
vụ án phức tạp thì gây khó khăn trong công tác xét xử của Tòa án, công tác kiểm
sát