Luận văn thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở - Từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
2,032
327
124
85
trưởng tổ dân phố; quy định vấn đề việc thực hiện dân chủ ở các huyện đảo
không có cấp xã; bổ sung các chế tài cụ thể để xử lý cơ quan không thực
hiện/thực hiện không đầy đủ các quy định về dân chủ, công khai; làm rõ chức
năng giám sát thực hiện dân chủ ở xã của MTTQ Việt Nam; có sự phân định
rõ ràng trong giải pháp tổ chức, triển khai thực hiện dân chủ ở chính quyền
phường, thị trấn so với chính quyền xã… Bên cạnh đó, nên tổ chức ra soát,
quy trình hóa và cải tiến các quy trình liên quan đến thực hiện dân chủ ở cấp
xã một cách công khai, để mỗi người dân “phải” (chứ không dừng lại ở việc
“cần” hoặc “nên”) được biết, được bàn, được quyết định và kiểm tra. Những
nội dung công khai cần tập trung đó là: quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây
dựng, các khoản thu, chi của địa phương… Quy định về mức đầu tư nguồn
lực cho công tác triển khai thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã, đặc biệt là
công tác đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
3.2.2. Hoàn thiện nội dung, hình thức công khai để Nhân dân biết
Về nội dung công khai để Nhân dân biết không có hạn chế về mặt quy
định pháp luật nhưng về mặt thực thi cần có sự thay đổi nhất định. Có thể cho
rằng, đối với một số vấn đề cần công khai cho Nhân dân nhưng chính quyền
cấp xã gặp khó khăn vì còn phụ thuộc vào các ngành và tỉnh/thành phố (quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, quy hoạch khu
dân cư trên địa bàn phường; đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành
chính, điều chỉnh địa giới hành chính), các cơ quan cấp trên phải thông báo
nhanh chóng, kịp thời và rõ ràng cho chính quyền phường để chính quyền chủ
động thông báo cho Nhân dân. Đây là những nội dung khá nhạy cảm, ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích của người dân ở xã, phường, thị trấn nên rất cần
được quan tâm công khai chi tiết cho người dân, bảo đảm quyền của người
dân. Vì vậy, Luật về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nên bổ sung quy
định về minh bạch trong việc công khai (phạm vi nội dung của mỗi loại việc
86
công khai đến đâu, bao gồm những vấn đề gì; thời điểm công khai; thời gian
công khai…).
Về hình thức công khai thông tin cho Nhân dân biết, theo kết quả khảo
sát, nhiều ý kiến cho rằng, cũng nên ghi nhận thêm hình thức công khai thông
qua trang thông tin điện tử (Internet) của chính quyền các cấp. Thực tế cho
thấy đây cũng là hình thức công khai đáp ứng được yêu cầu hiện đại hóa nền
hành chính, phát triển công nghệ thông tin đến người dân, đặc biệt có tác
dụng hiệu quả ở đô thị, có tới 31/150 người được hỏi (20,67%) mong muốn
công khai thông qua Internet. Mặt khác, không phải bất cứ hình thức công
khai nào cũng có thể áp dụng đối với tất cả các nội dung được quy định. Do
đó, Luật về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nên đa dạng hóa thêm
một số hình thức công khai để thông tin về hoạt động của chính quyền địa
phương đến được Nhân dân một cách nhanh và hiệu quả nhất, ví dụ bổ sung
hình thức nâng cao tính đối thoại giữa chính quyền và người dân; trang thông
tin điện tử đáp ứng yêu cầu phát triển công nghệ thông tin; gửi văn bản thông
báo công khai đến trực tiếp các hộ gia đình … Luật về thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn không nên tiếp tục quy định theo hướng tất cả các hình thức
công khai đều áp dụng đối với tất cả các nội dung cần công khai.
3.2.3. Hoàn thiện nội dung, hình thức Nhân dân bàn và quyết định
Thứ nhất, chuyển một số nội dung Nhân dân tham gia ý kiến trước khi
cơ quan có thẩm quyền quyết định thành nội dung Nhân dân bàn, biểu quyết
để cấp có thẩm quyền quyết định
Theo quy định tại Điều 19 của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn năm 2007 thì hiện nay, có 5 nhóm nội dung phải đưa ra lấy ý
kiến Nhân dân trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định. Như vậy, ý kiến
của người dân đối với các nội dung này chỉ có ý nghĩa tham khảo đối với
chính quyền. Tuy nhiên, qua thực tiễn đánh giá, nên đưa một số nội dung phải
87
do Nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định, đó là: việc
quản lý, sử dụng quỹ đất của cấp xã; chủ trương, phương án đền bù, hỗ trợ
giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng, tái định cư, phương án quy
hoạch khu dân cư. Những nội dung này không mang tính chất kỹ thuật,
chuyên môn cao và ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi cơ bản của người dân
được quy định trong Hiến pháp (quyền về cư trú, nhà ở, việc làm ...) và có tác
động đến nhiều mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của địa phương nên
phải được Nhân dân bàn, biểu quyết làm cơ sở cho cơ quan có thẩm quyền
quyết định. Mặt khác cũng nên bổ sung một vấn đề Nhân dân bàn, biểu quyết
để cơ quan có thẩm quyền quyết định là: phương án sử dụng các khoản đóng
góp vào quỹ của thôn, xã đề góp phần tăng tính minh bạch trong việc sử dụng
kinh phí do Nhân dân đóng góp.
Thứ hai, về nội dung Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp:
Để thực hiện tốt các quy định liên quan đến xây dựng công trình công
cộng, trước hết cần tăng cường thông tin công khai minh bạch, tổ chức thăm
dò ý kiến của người dân về việc triển khai các dự án xây dựng công trình
công cộng tại địa bàn cấp xã. Vấn đề này càng quan trọng đối với những dự
án do chính quyền đầu tư kinh phí 100% không huy động nguồn vốn từ Nhân
dân nhưng lại có tác động thiết thực tới đời sống của người dân. Vì vậy, Pháp
lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 nên được bổ sung quy
định bước thăm dò, lấy ý kiến của người dân về việc xây dựng công trình,
nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của người dân. Điều này sẽ góp phần nâng
cao tính dân chủ, hiệu quả trong việc xây dựng công trình công cộng ở cấp xã.
Tuy nhiên, trong trường hợp một số người dân không thực thi quyết
định đã được thông qua (phương án giải phóng mặt bằng, mức đóng góp ...)
thì Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 cần quy định
rõ biện pháp giải quyết, đó là: xem xét lại chủ trương, nghiên cứu điều chỉnh
88
cho phù hợp với thực tế (nếu có); tổ chức thêm cuộc họp, đối thoại với những
người không đồng ý để thông báo cụ thể định hướng, mục tiêu và phương án
của công trình, kết hợp thuyết phục, vận động thông qua trưởng thôn, tổ dân
phố. Để đảm bảo tính dân chủ, tự nguyện chấp hành của người dân, nên áp
dụng những biện pháp “mềm” trong vấn đề này, tránh những giải pháp quá
mạnh ảnh hưởng đến tâm lý của người dân.
Thứ ba, về nội dung Nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền
quyết định:
Nhanh chóng ban hành văn bản mới thay thế Thông tư liên tịch số
03/2000/TTLT-BTP-BVHTT-BTTUBTƯMTTQVN ngày 31-3-2000 về xây
dựng và thực thi hương ước vì văn bản này đã được ban hành trước Pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 khá lâu, có những điểm
không còn phù hợp với thực tiễn đời sống.
Tùy vào đặc thù vùng miền, nên có hướng dẫn thống nhất việc xây
dựng hương ước theo hướng phân hóa. Đối với khu vực nông thôn, nên tiếp
tục duy trì hương ước nhưng chủ yếu nên hướng đến các quy định nội bộ của
thôn, làng và nếp sống văn hóa mới lành mạnh, có ý thức đổi mới gắn với quá
trình xây dựng nông thôn mới. Đối với khu vực đô thị, vẫn nên có quy ước
văn hóa nhưng vì ở nhiều phường có rất nhiều tổ dân phố và ít có đặc thù
riêng nên chỉ cần xây dựng một văn bản quy ước áp dụng chung cho một số tổ
dân phố (khu dân cư) hoặc quy ước dùng chung cho đơn vị phường.
Nên bổ sung quy định Chủ tịch UBND quận có thể ủy quyền cho Chủ
tịch UBND phường ký thông qua quy ước nhằm hạn chế việc tồn đọng các
bản quy ước, đặc biệt là ở khu vực đô thị hiện nay.
Xây dựng cơ chế giám sát việc thực thi quy ước và chế tài xử lý đối với
việc vi phạm quy định của quy ước. Để nâng cao hiệu quả thực hiện quy ước
cần thiết phải có cơ chế giám sát thường xuyên để kịp thời phát hiện các sai
89
phạm trong quá trình thực hiện; phát hiện các điểm không còn phù hợp với
thực tiễn để kiến nghị sửa đổi, bổ sung. Về chủ thể nên được pháp luật quy
định giao giám sát thực hiện quy ước là Ban Công tác Mặt trận khu dân cư (tổ
dân phố) vì đây là tổ chức gắn bó gần gũi với quần chúng Nhân dân, góp phần
thể hiện sâu sắc hơn bản chất của MTTQ trong việc tham gia xây dựng đời
sống của Nhân dân.
Về vị trí, vai trò của khu dân cư và cán bộ khu dân cư. Đây là một thực
tế rất phổ biến ở các khu vực đô thị khi có quá nhiều tổ dân phố đã hình thành
nên các khu dân cư. Khu dân cư ở các phường đã khá gắn bó với đời sống
người dân. Tuy nhiên, quy định hiện hành chưa ghi nhận quy mô khu dân cư
cũng như các vấn đề về cán bộ của khu dân cư. Pháp lệnh nên ghi nhận khu
dân cư, phạm vi, quy mô khu dân cư để góp phần giải tỏa khó khăn trong việc
quản lý các tổ dân phố của khu vực phường ở đô thị. Việc có khu dân cư cũng
sẽ góp phần tạo sự liên kết hơn giữa các tổ trưởng tổ dân phố, tạo điều kiện
thuận lợi trong việc ban hành quy ước chung cho cả khu dân cư.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phối hợp công tác giữa tổ trưởng, tổ phó tổ
dân phố (khu dân cư) với Ban Công tác Mặt trận và các đoàn thể Nhân dân.
MTTQ và các đoàn thể Nhân dân ở tổ dân phố (khu dân cư) là nơi đại diện
cho quyền làm chủ của Nhân dân nên tổ trưởng, tổ phó tổ dân phố (khu dân
cư) phải thường xuyên phối hợp thống nhất hành động, đổi mới phương thức
hoạt động, tạo sức hấp dẫn để thu hút đoàn viên, hội viên vào tổ chức và từ đó
có điều kiện để phát huy đúng, phát huy tốt quyền làm chủ của Nhân dân, đặc
biệt, trong tổ chức họp cử tri và tuyên truyền, tổ chức, vận động Nhân dân
thực hiện dân chủ. Chính việc phối hợp này sẽ làm cho hoạt động của tổ
trưởng, tổ phó tổ dân phố (khu dân cư) hiệu quả hơn.
Thứ tư, về nội dung, hình thức Nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ
quan có thẩm quyền quyết định:
90
Đối với những vấn đề Nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có
thẩm quyền quyết định, Pháp luật cần quy định phải kèm theo văn bản giải
thích cụ thể, rõ ràng về nội dung của các dự thảo cần lấy ý kiến Nhân dân.
Điều này sẽ giúp Nhân dân góp ý có hiệu quả hơn bởi những dự thảo nói trên
thường có tính chuyên môn, kỹ thuật khá cao, nếu không giải thích sẽ gây khó
khăn cho người dân. Bên cạnh đó, việc lấy ý kiến nên có trọng tâm, trọng
điểm, tập trung vào những nội dung cơ bản, quan trọng nhất của dự thảo.
Về hình thức lấy ý kiến, hòm thư góp ý là hình thức kém hiệu quả bởi
sự tương tác trực tiếp giữa chính quyền và Nhân dân và thực tế thì nhiều
người dân không quan tâm đến hình thức này. Vì vậy, pháp luật nên bỏ hình
thức hòm thư góp ý ở nội dung Nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan
có thẩm quyền quyết định.
3.2.4. Hoàn thiện nội dung, hình thức Nhân dân tham gia giám sát
Thứ nhất, đối với Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng
- Quy chế Giám sát đầu tư của cộng đồng (Ban hành kèm theo Quyết
định số 80/2005/QĐ-TTg ngày 18-4-2005) đã hết hiệu lực thi hành từ
01/7/2007 vì văn bản này căn cứ Nghị định 79/2003/NĐ-CP đã hết hiệu lực.
Vì vậy, để tiếp tục duy trì hoạt động của Ban Giám sát đầu tư cộng đồng theo
quy định của Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11, cần ban hành một số quy
định dưới dạng quy chế mới phù hợp với tính chất hoạt động của Ban Giám
sát đầu tư cộng đồng theo hướng như sau:
+ Về nội dung giám sát: cần có sự điều chỉnh thu hẹp nội dung giám sát
để phù hợp hơn với tính chất giám sát của giám sát đầu tư cộng đồng là giám
sát của Nhân dân. Hiện nay, với phạm vi giám sát rộng (bao gồm các dự án
đầu tư có sử dụng nguồn vốn của Nhà nước, nguồn vốn của cộng đồng, nguồn
vốn khác) và phương thức thực hiện giám sát chỉ có thể dựa trên các thông tin
được cung cấp, trình độ và năng lực của các thành viên còn hạn chế thì rất
91
khó khăn cho Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng khi thực hiện các nội dung
giám sát như quy định tại Điều 4 Quy chế. Để có thể theo dõi đánh giá hiệu
quả đầu tư dự án, kiểm tra việc tuân thủ các quy trình, quy phạm kỹ thuật,
định mức vật tư... theo quy định trong suốt quá trình triển khai dự án đòi hỏi
Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng phải có được đầy đủ các thông tin, nắm
vững được thiết kế định mức kỹ thuật xây dựng, cam kết chất lượng ... như
những người hành nghề chuyên nghiệp. Với nội dung và mức độ giám sát
rộng như hiện nay chỉ phù hợp với tính chất của các thiết kế giám sát Nhà
nước, không phù hợp với tính chất giám sát của Nhân dân.
+ Cần quy định rõ, cụ thể hơn nữa trách nhiệm, quyền hạn và cách thức
hoạt động của Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng. Mặc dù được trao nhiệm
vụ giám sát với phạm vi và nội dung rộng không khác gì so với các thiết chế
giám sát của Nhà nước nhưng vai trò, trách nhiệm và cơ chế thực hiện giám
sát của Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng lại được thể hiện trong Quy chế
khá mờ nhạt và không bảo đảm tính khả thi. Quy định tại điều 5 của Quy chế
cho phép Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng được yêu cầu cơ quan quản lý
Nhà nước, các đối tượng chịu sự giám sát trả lời, cung cấp thông tin phục vụ
việc giám sát; được kiến nghị cấp có thẩm quyền đình chỉ thực hiện đầu tư,
vận hành dự án, kiến nghị các biện pháp xử lý ... nhưng quy định trên sẽ chỉ là
hình thức nếu pháp luật không tạo ra cơ chế cho việc bảo đảm thực thi các
quyền hạn trên. Ví dụ như: (1) Quy định rõ chủ thể, quy trình tiếp nhận các
phản ánh, kiến nghị của Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng; (2) Gắn vai trò
và trách nhiệm của Ban Giám sát khi kết thúc công trình bằng cách quy định
đại diện Ban Giám sát phải là một bên ký xác nhận trong biên bản nghiệm thu
công trình. Đây cũng là hình thức để thể hiện ý kiến của Ban Giám sát về chất
lượng công trình. Đó cũng là giải pháp đế hạn chế khiếu kiện trong Nhân dân
ngay từ cơ sở trong quá trình triển khai thực hiện dự án.
92
- Tăng cường mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức
trong việc thực hiện quản lý về công tác giám sát đầu tư cộng đồng. Ở đây,
cần nhấn mạnh đến vai trò của MTTQ cấp cơ sở trong việc chỉ đạo tổ chức và
hoạt động của Ban Giám sát, thực hiện báo cáo định kỳ về công tác giám sát
đầu tư cộng đồng; vai trò của Sở Kế hoạch và Đầu tư trong việc tổng hợp số
liệu, thông tin liên quan đến công tác giám sát đầu tư cộng đồng tại địa
phương để báo cáo chính quyền cấp tỉnh cũng như cơ quan quản lý cấp trung
ương. Thực tiễn cho thấy, hiện nay, mối quan hệ này khá lỏng lẻo, bản thân
việc tổ chức thực hiện cũng như cơ quan quản lý chưa thực sự quan tâm đúng
mức, chưa có những biện pháp quản lý chặt chẽ để nâng cao hiệu quản của
hoạt động giám sát đầu tư của cộng đồng.
Thứ hai, đối với Ban TTND
Cũng giống như Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng, cần xác định rõ
Ban TTND tại xã, phường, thị trấn (cũng như Ban TTND được thành lập ở cơ
quan Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước) là một thiết chế giám sát của Nhân
dân, có tính chất đại diện cho cộng đồng dân cư và các thành viên cũng được
lựa chọn từ cộng đồng, do cộng đồng bầu ra va chỉ bị bãi nhiệm bởi Hội nghị
của cộng đồng dân cư. Với tính chất như vậy, rõ ràng là không phù hợp nếu
đặt thiết chế TTND bên cạnh các thiết chế thanh tra chuyên ngành khác được
điều chỉnh bởi Luật thanh tra. Thiết chế TTND nên được quy định tập trung ở
các văn bản về thực hiện dân chủ cơ sở.
Hiện nay, theo quy định của pháp luật, nhiệm kỳ của TTND là hai năm.
Có thể nhận thấy nhiệm kỳ như vậy là quá ngắn khi hai năm thay đổi một lần
làm cho cơ cấu tổ chức thiếu ổn định, cơ quan có thẩm quyền không thể xây
dựng được kế hoạch, phương hướng bồi dưỡng nghiệp vụ cho các thành viên
Ban TTND phù hợp với yêu cầu thay đổi của đời sống. Vì vậy, nên kéo dài
nhiệm kỳ của TTND. Ngoài ra, để nâng cao chất lượng hoạt động giám sát
93
của Ban TTND cũng như Ban Giám sát đầu tư, trước hết phải nâng cao hơn
nữa vai trò và chất lượng giám sát của MTTQ.
3.2.5. Hoàn thiện các quy định cụ thể về trách nhiệm cá nhân, khen
thƣởng, kỷ luật
Quy định cụ thể trách nhiệm cá nhân của những cán bộ lãnh đạo chủ
chốt. Những nơi không thực hiện hoặc thực hiện mang tính hình thức, đối
phó, không hiệu quả, để xảy ra các vụ việc sai phạm... thì ít nhất là các chức
danh Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND cấp xã phải chịu
trách nhiệm cá nhân trước Nhân dân địa phương, trước pháp luật.
Đối với khen thưởng, quy định những thành tích cụ thể nào đạt được
trong thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở thì được đề nghị khen thưởng, cần
lượng hóa thành tích bằng những tiêu chí càng cụ thể càng tốt nhằm đảm bảo
sự công bằng, khách quan, tạo thuận tiện cho việc đánh giá, xét duyệt; Quy
định các hình thức khen thưởng cụ thể cả về mặt tinh thần và vật chất kèm
theo nhằm động viên, khích lệ kịp thời cán bộ, công chức cấp xã và Nhân dân
trong thực hiện có hiệu quả pháp luật về dân chủ cơ sở.
Đối với xử lý kỷ luật, quy định cụ thể các loại hành vi vi phạm trong
thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở cấp xã phải bị xử lý kỷ luật, như tính
chất, mức độ của lỗi, hậu quả xảy ra, ảnh hưởng của hành vi vi phạm trong
cán bộ và Nhân dân địa phương. Quy định cụ thể hình thức xử lý kỷ luật đối
với từng loại hành vi vi phạm cụ thể, đảm bảo tính giáo dục đối với bản thân
người vi phạm và tính ngăn ngừa, răn đe đối với những người khác. Trường
hợp hành vi vi phạm pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã mà hội đủ
các yếu tố cấu thành tội phạm của một tội nào đó được quy định trong Bộ luật
Hình sự thì phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
3.2.6. Xây dựng, hoàn thiện một số đạo luật làm cơ sở cho việc thực
hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã
94
* Ban hành luật riêng về TTND hoặc Luật về hoạt động giám sát
phản biện xã hội của Nhân dân để tạo cơ sở pháp lý cho Nhân dân thực
hiện quyền được bàn và quyền được kiểm tra, giám sát
Ban TTND được tổ chức và hoạt động theo Luật Thanh tra năm 2010
hiện nay tỏ ra không hiệu quả, không phát huy được vai trò của mình nếu
không muốn nói là đa số hoạt động kém hiệu quả. Điều này có nguyên nhân
cơ bản là do bản thân quy định về Ban TTND chưa hợp lý, hoạt động của ban
TTND đang được quy định chung cùng luật Thanh tra, cùng lúc điều chỉnh
hai đối tượng: TTND và Thanh tra Chính phủ, điều đó đã làm mâu thuẫn
trong mục đích điều chỉnh của luật thanh tra, trong khi đó Ban TTND là tổ
chức hoạt động mang tính chất Nhân dân và không có điều kiện thực hiện
những nghiệp vụ chuyên ngành thanh tra. Bên cạnh đó, mặc dù quy định cùng
trong một đạo luật song không có một điều nào quy định cơ chế phối hợp giữa
hai hình thức thanh tra. Để thực hiện được đầy đủ, có hiệu quả những nhiệm
vụ quyền hạn của Ban TTND việc ban hành luật riêng về TTND là cần thiết
và cấp bách để tạo ra cơ sở pháp lý đầy đủ hơn, cao hơn cho tổ chức và hoạt
động của Ban TTND. Việc sửa đổi này cũng sẽ giúp tháo gỡ vướng mắc trong
định hướng sửa đổi Luật Tranh tra hiện nay, vì trong quá trình thảo luận sửa
đổi luật thanh tra thì vẫn còn nhiều ý kiến đồng tình để nguyên quy định về
TTND trong luật Thanh tra.
Hoặc khi không ban hành luật riêng về TTND thì cần ban hành luật về
hoạt động giám sát của Nhân dân để quy định về vai trò giám sát Nhân dân
đối với bộ máy Nhà nước khi Luật Thanh tra không còn quy định về vấn đề
này. Xây dựng luật về giám sát của Nhân dân trên cơ sở rà soát, pháp điển
hóa, hệ thống hóa các quy định về giám sát của Nhân dân trong các văn bản
như: Luật Khiếu nại, Tố cáo, Luật Thanh tra, Luật Mặt trận Tổ quốc, Pháp
lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và các QCDC ở các loại hình