Luận văn thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở - Từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
2,045
327
124
45
dân bàn và quyết định trực tiếp đã có giá trị thi hành thì không có tính bắt
buộc đối với những cử tri và hộ gia đình này phải thi hành mà Mặt trận ở cơ
sở vận động, thuyết phục để họ tự nguyện. Do đó MTTQ, các tổ chức thành
viên cần tích cực vận động, thuyết phục để họ tự nguyện đóng góp, trường
hợp đặc biệt không thể đóng góp được thì giải thích để Nhân dân hiểu rõ, bảo
đảm sự đoàn kết trong nội bộ Nhân dân ở thôn, tổ dân phố khi triển khai thực
hiện các nội dung quy định tại Điều 12 Pháp lệnh.
Thứ hai, tầm quan trọng của việc công khai thông tin được coi trọng
nhất là thông tin hai chiều giữa chính quyền và người dân. Pháp lệnh quy
định rõ nội dung, hình thức công khai, thời gian, địa điểm công khai bằng
hình thức niêm yết và quy định về việc cung cấp thông tin theo quy định tại
Điều 32 của Luật Phòng, chống tham nhũng. Ví dụ tại điều 7 Pháp lệnh quy
định: đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do
chính quyền cấp xã trực tiếp thu phải được niêm yết công khai tại trụ sở
HĐND, UBND cấp xã. Chính quyền cấp xã có trách nhiệm niêm yết chậm
nhất là 02 ngày, kể từ ngày văn bản được thông qua, ký ban hành hoặc kể từ
ngày nhận được văn bản... Một số nội dung được Pháp lệnh quy định niêm yết
ít nhất là 30 ngày liên tục hoặc thường xuyên. Trước đây, Nghị định số
79/2003/NĐ-CP không đề cập loại thông tin chi tiết và minh bạch này.
Thứ ba, quyền dân chủ của công dân được ghi nhận nhiều hơn, đặc
biệt là đưa ra được nhiều biện pháp có tính khả thi hơn trước, bảo đảm thực
hiện quyền trên thực tế. Ví dụ khoản 2 Điều 16 Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở
xã, phường, thị trấn đã quy định rõ hiệu quả thực hiện quyết định hay phiếu
bầu của người dân (kết quả bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn, Tổ
trưởng tổ dân phố sẽ được thông báo ngay cho UBND cấp xã và UBND cấp
xã có 05 ngày để xem xét, ra quyết định công nhận, nếu không công nhận thì
phải trả lời và nêu rõ lý do).
46
Thứ tư, tổ chức và hoạt động của chính quyền, nhất là chính quyền cơ
sở đã chú ý đến việc tham vấn, lắng nghe ý kiến của người dân, các quyết
sách đưa ra đã được dựa trên sự tham khảo cần thiết ý kiến của người dân.
Ví dụ như, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 quy
định thêm một mục về nội dung, hình thức Nhân dân bàn, biểu quyết để cấp
có thẩm quyền quyết định, gồm 4 điều, từ Điều 13 đến Điều 16. Quy chế thực
hiện dân chủ ở xã ban hành theo Nghị định số 79/2003/NĐ-CP không quy
định mục này.
Thứ năm, vai trò của MTTQ và các tổ chức thành viên đã được coi
trọng hơn, cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của các tổ chức này được thể chế
rõ hơn. Ví dụ: tại điều 3 Pháp lệnh quy định trách nhiệm tổ chức thực hiện
dân chủ của Ủy ban MTTQ và các tổ chức thành viên của Mặt trận ở cấp xã.
Việc tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh chủ chốt do HĐND
cấp xã bầu có thay đổi như sau: đối tượng được lấy phiếu tín nhiệm được mở
rộng hơn, đó là Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch
HĐND cấp xã và không lấy phiếu tín nhiệm đối với Trưởng thôn, Tổ trưởng
dân phố vì các chức danh này là do Nhân dân ở khu dân cư bầu ra và đại diện
cho chính quyền cấp xã thực hiện một số nhiệm vụ về hành chính tại khu dân
cư, đồng thời, phối hợp với Ban Công tác Mặt trận tổ chức các hoạt động tự
quản ở khu dân cư. Nghị định số 79/2003/NĐ-CP quy định chỉ lấy phiếu tín
nhiệm đối với 02 chức danh chủ chốt do HĐND cấp xã bầu là Chủ tịch
HĐND, Chủ tịch UBND. Về thành phần bỏ phiếu tín nhiệm rộng hơn, ngoài
các thành viên của Ủy ban MTTQ cấp xã còn có: thành viên Ban Thường vụ
các tổ chức chính trị - xã hội ở cấp xã; Trưởng Ban TTND; Trưởng Ban Giám
sát đầu tư cộng đồng (nếu có); Bí thư chi bộ, Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân
phố, Trưởng Ban Công tác Mặt trận. Nghị định số 79/2003/NĐ-CP quy định
chỉ có các thành viên Ủy ban MTTQ cấp xã bỏ phiếu tín nhiệm.
47
Thứ sáu, Pháp lệnh nâng cao tinh thần trách nhiệm của chính quyền
hay đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước khi thực thi Pháp lệnh. Điều đó có
nghĩa là gắn với quyền dân chủ của Nhân dân ở cơ sở còn là trách nhiệm
tương ứng của cán bộ, công chức cơ sở. Ví dụ, tại Điều 9 Pháp lệnh thực hiện
dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã quy định UBND cấp xã chịu trách nhiệm lập
và triển khai kế hoạch thực hiện những nội dung công khai, trong đó nêu rõ
nội dung, phương pháp, thời hạn và trách nhiệm thi hành. Sau đó, Chủ tịch
UBND cấp xã chịu trách nhiệm triển khai thực hiện kế hoạch này và báo cáo
tiến độ, kết quả thực hiện cho HĐND trong phiên họp gần nhất.
Ngoài ra, Pháp lệnh quy định rõ ràng, cụ thể về “giá trị thi hành” của
những quyết định, biểu quyết của người dân – điều không có trong Quy chế
thực hiện dân chủ ở xã năm 1998 và năm 2003; Pháp lệnh tập trung nhiều hơn
vào những nội dung quan trọng, thiết thực đối với người dân ở cơ sở (không
còn những nội dung như Nghị quyết của HĐND xã, sơ kết, tổng kết hoạt động
của HĐND, UBND xã) cũng như quy định chi tiết và cụ thể hơn nhiều về các
hình thức thực hiện dân chủ ở cấp xã.
* Những hạn chế
Mặc dù Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007
đã từng bước cải tiến nhất định so với Nghị định 79/2003/NĐ-CP trước đây
song vẫn còn những hạn chế như:
Thứ nhất, quan niệm về dân chủ, nội dung, cách thức thực hiện quyền
dân chủ ở cấp xã còn một số hạn chế. Pháp lệnh không có định nghĩa về dân
chủ cơ sở/dân chủ ở cấp xã. Theo Pháp lệnh thì cách thức thực hiện mới chỉ
chú trọng đến ý kiến của đa số, chưa chú trọng đúng mức đến ý kiến của
nhóm thiểu số, thiếu các biện pháp, giải pháp hợp lý dành cho nhóm thiểu số.
Pháp lệnh chỉ quy định về nội dung, hình thức công khai mà thiếu quy định
bảo đảm tính minh bạch trong việc công khai của chính quyền cấp xã.
48
Thứ hai, do hạn chế trong quan niệm về dân chủ ở cấp xã nên chưa xác
định đúng tính chất của một số việc Nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm
quyền quyết định với những việc Nhân dân tham gia ý kiến trước khi cấp có
thẩm quyền quyết định. Ví dụ: một số nội dung của Điều 19 Pháp lệnh (những
nội dung Nhân dân tham gia ý kiến) nên chuyển lên thành nội dung Nhân dân
bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định, đó là: việc quản lý, sử dụng
quỹ đất của cấp xã; chủ trương, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt
bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng, tái định cư; phương án quy hoạch khu dân cư;
kế hoạch sử dụng các khoản đóng góp của người dân... Lý do được đưa ra là
các nội dung này có quan hệ rất lớn đến mọi mặt của đời sống xã hội cộng
đồng cơ sở, có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người dân. Trên thực
tế, đây cũng là những nội dung xảy ra rất nhiều vi phạm pháp luật, tham
nhũng do thiếu cơ chế giám sát trong nội bộ bộ máy Nhà nước cũng như sự
giám sát của Nhân dân.
Thứ ba, Pháp lệnh không hề đề cấp đến cơ chế theo dõi, không quy
định thẩm quyền, chức năng của các cấp trên trong việc giám sát, đánh giá
việc chính quyền cấp xã triển khai thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã và
làm thế nào để thực hiện cơ chế đó, đồng thời không nêu rõ thủ tục báo cáo từ
cấp xã lên cấp trên. Hạn chế này có thể dẫn đến hai trạng thái đối lập nhau
trong hoạt động kiểm tra, đánh giá: hoặc là chính quyền cấp xã được nhiều cơ
quan cấp trên kiểm tra thường xuyên bởi cấp trên tự cho mình quyền kiểm tra,
đánh giá hoặc là hoạt động kiểm tra, đánh giá việc chính quyền cấp xã triển
khai thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã không được quan tâm vì cơ quan
cấp trên nào cho rằng không thuộc trách nhiệm của mình.
Thứ tư, bản thân Pháp lệnh không đề cập đến “khu dân cư”, “cụm dân
cư” nhưng đến nay mô hình tổ chức dân cư tại nhiều phường vẫn tồn tại với
những hình thức với quy mô, tên gọi khác nhau như khu dân cư, cụm dân cư,
49
... Với người dân sống tại các khu vực thành thị, cụm từ “khu dân cư” được sử
dụng khá quen thuộc. Nhiều phường trong khu vực nội thành Hà Nội chia dân
cư theo “khu dân cư”, “cụm dân cư”. Nhiều phong trào mang tên “khu dân cư
tự quản”, “khu dân cư bảo vệ môi trường”, “khu dân cư tự quản”, tổ hòa giải
cũng được thành lập và hoạt động theo khu dân cư, các tổ chức chính trị - xã
hội ở cơ sở lại ở cấp “khu dân cư” mà không có ở tổ dân phố. Thực tế hiện
nay, khu dân cư lại cao hơn tổ dân phố, khu dân cư có thể bao gồm nhiều tổ
dân phố. Đây cũng chính là lý do khiến không ít những người tham gia công
tác tại địa phương băn khoăn do các địa phương không thực hiện theo quy
định hoặc chính các quy định đang xa rời thực tế.
Thứ năm, liên quan đến năng lực của cán bộ, công chức cấp xã, Tổ
trưởng tổ dân phố (Trưởng thôn), người đứng đầu các tổ chức chính trị - xã
hội, đây là một vấn đề hết sức quan trọng đối với việc thực hiện thành công
Pháp lệnh nhưng Pháp lệnh lại không nói rõ cách thức xây dựng năng lực,
nâng cao nhận thức thực thi pháp luật, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa trên
toàn quốc. Nguồn nhân lực chất lượng thấp sẽ là lực cản, trở ngại lớn đối với
việc triển khai có hiệu quả hoạt động thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã.
Thứ sáu, Pháp lệnh không quy định rõ về tính chịu trách nhiệm tổ chức
thực hiện dân chủ ở cấp xã của các chủ thể cụ thể liên quan đến hệ quả của
việc tuân thủ hoặc không tuân thủ pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã và
do vậy, cũng không có chế tài đối với việc chính quyền không thực hiện
nghiêm các quy định của Pháp lệnh này. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến
việc phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về thực hiện dân chủ ở
cấp xã còn chậm trễ, bị động, chưa nghiêm minh và thiếu sự răn đe cần thiết.
Thứ bảy, Pháp lệnh không quy định nguồn lực để thực hiện QCDC cơ
sở. Trong khi đó, nếu điều kiện kinh tế không cho phép, nguồn chi ngân sách
Nhà nước cho công tác thực hiện pháp luật, gồm cả thực hiện pháp luật về
50
dân chủ ở cấp xã còn khó khăn hoặc không được cấp thì hoạt động thực hiện
pháp luật về dân chủ ở cấp xã khó đạt được kết quả như mong muốn.
Thứ tám, những quy định về hương ước, quy ước theo một khuôn mẫu
và trình tự chung thì rất khó có thể áp dụng cho những địa bàn khác nhau
(nông thôn và thành thị, đồng bằng hay miền núi …). Hoặc Pháp lệnh chưa có
những quy định theo hướng tăng cường trách nhiệm của chính quyền và đoàn
thể trong giám sát xây dựng hương ước, để tránh tình trạng hương ước, quy
ước rất hình thức, thậm chí không phù hợp với thực tiễn của địa phương.
Ngoài ra, pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã nói chung còn
thiếu cơ chế giám sát của Nhân dân đối với các công trình có sử dụng vốn
ngân sách trên địa bàn cấp xã. Các văn bản hướng dẫn thi hành trên các lĩnh
vực cụ thể của Pháp lệnh (xây dựng công trình công cộng, bỏ phiếu tín nhiệm
các chức danh cấp xã, bầu Trưởng thôn, TTND, Giám sát đầu tư cộng đồng
...) có nhiều bất cập, chưa tính đến các yếu tố của đặc thù vùng miền, đô thị -
nông thôn.
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn
quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
2.2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của quận Thanh Xuân
Những đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội có ảnh hưởng trực tiếp và
sâu sắc đến tổ chức thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở các phường trên
địa bàn quận Thanh Xuân - thành phố Hà Nội, bởi lẽ những đặc điểm này ảnh
hưởng trực tiếp đến lối sống người dân rất khó thay đổi.
* Đặc điểm tự nhiên
Quận Thanh Xuân là một trong các quận trung tâm của thành phố Hà
Nội, nằm chếch về trục phía Tây Nam của thành phố Hà Nội. Địa giới hành
chính của quận như sau:
- Phía Bắc giáp quận Đống Đa và quận Cầu Giấy;
51
- Phía Tây giáp quận Nam Từ Liêm và quận Hà Đông;
- Phía Nam giáp quận Hoàng Mai, huyện Thanh Trì; Phía Đông giáp
quận Hai Bà Trưng.
Quận Thanh Xuân được thành lập theo Nghị định số 74/NĐ-CP ngày
22/11/1996 của Chính phủ, quận gồm 11 đơn vị hành chính cấp phường là:
Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân Nam, Thanh Xuân Trung, Khương Đình, Nhân
Chính, Phương Liệt, Hạ Đình, Kim Giang, Khương Mai, Khương Trung,
Thượng Đình (có 3 phường được thành lập từ các xã ngoại thành của 2 huyện
Từ Liêm và Thanh Trì, còn lại là các phường cũ của quận Đống Đa chuyển
sang).
Quận Thanh Xuân thuộc vùng khí hậu nhiệt đới, thuộc khu vực quanh
nǎm tiếp nhận lượng bức xạ Mặt Trời khá dồi dào và có nền nhiệt độ cao, độ
ẩm và lượng mưa khá lớn. Lượng mưa phân bố khá đồng đều, trung bình
khoảng 1.600 - 1.800 mm/năm. Địa hình của quận tương đối bằng phẳng.
Điều kiện địa hình quận khá thuận tiện cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, phát
triển kinh tế đô thị.
Trên địa bàn quận có quốc lộ số 6 chạy qua, bắt đầu từ Ngã Tư Sở qua
Thanh Xuân đến quận Hà Đông và đi các tỉnh miền Tây Bắc như Hòa Bình,
đi Phú Thọ theo Quốc lộ 21... Trên địa bàn quận có 5 tuyến đường giao thông
chính đi qua như: đường Giải phóng, đường Nguyễn Trãi, đường vành đai 3,
đường Trường Chinh, đường Láng Hạ - Thanh Xuân. Ngoài ra trên địa bàn
quận còn có một mạng lưới giao thông nội bộ nối liền giữa các trục giao
thông chính và các phường trong toàn quận với các quận, huyện giáp ranh.
Vị trí này rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội, phát triển
kinh doanh - thương mại - dịch vụ. Khi các hoạt động kinh tế phát triển thì
yêu cầu về dân chủ là điều tất yếu vì có dân chủ thì sẽ thúc đẩy kinh tế phát
triển.
52
* Đặc điểm kinh tế - xã hội
Quận Thanh Xuân có diện tích 913,2 ha; gồm 11 phường, 511 tổ dân
phố; toàn quận có 22 phòng, ban, ngành, đoàn thể. Năm 2015, dân số của
quận là 266.791 người (tính đến cuối năm 2015), trong đó nữ giới là 133.315
người chiếm 49,97%, nam chiếm 50,03%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên trung
bình trong vòng 5 năm qua là 1,05%, tỷ lệ sinh con thứ 3 dưới mức 1,44%, tỷ
lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 8,83%. Dân số của quận tăng
nhanh chủ yếu là tăng cơ học, do những năm qua thu hút được số lượng đáng
kể lao động từ các địa phương đến làm việc trong các ngành dịch vụ, công
nghiệp trên địa bàn quận. Tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống dưới 1%/năm, số hộ
thoát nghèo đạt bình quân 78 hộ/năm. Thực hiện chương trình quốc gia về
giải quyết việc làm bằng nguồn vốn cho vay, tạo việc làm cho 23.886 lao
động, bình quân hàng năm có 4.800 người được giải quyết việc làm, đời sống
của người dân ngày càng được cải thiện [22].
Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa làm cho các làng xã xưa của
quận Thanh Xuân có những thay đổi mạnh mẽ. Quá trình đó đã tác động
không nhỏ đến mọi mặt đời sống của Nhân dân địa phương. Địa bàn chuyển
biến nhanh nhất phải kể đến các làng nằm ở phía Đông Bắc của quận như
làng Khương Trung (thuộc phường Khương Trung, một phần phường
Khương Mai); làng Phương Liệt (phường Phương Liệt); làng Thượng Đình
(phường Thượng Đình - một phần Hạ Đình). Các làng nằm ở phía Tây Bắc,
Đông Nam của quận như phường Nhân Chính, phường Khương Đình, Hạ
Đình, sự chuyển biến có phần chậm hơn. Tuy vậy tính chất làng xã xưa còn
bảo lưu khá đậm nét trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của Nhân dân tại các
địa phương này. Phần phía Tây Nam của quận thuộc địa bàn các phường
Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân Trung, Thanh Xuân Nam, một phần của
phường Nhân Chính là nơi hình thành các nhà máy, xí nghiệp, các khu nhà ở
53
tập thể, chung cư cao tầng, là nơi nhiều luồng cư dân từ nơi khác chuyển về
sinh sống, do đó những vết tích của ruộng vườn ao hồ, làng xã cũ phần nhiều
bị khỏa lấp, nếp sinh hoạt làng xã xưa trên địa bàn này cũng vì thế mà bị mai
một dần.
Khu vực đường vành đai 3, hướng đi cầu Thanh Trì được giải phóng
mặt bằng, hình thành tuyến đường mới Khuất Duy Tiến - Nguyễn Xiển.
Những khu dân cư cũ thuộc các làng Nhân Chính, Hạ Đình, Kim Giang
nhường chỗ cho các dự án xây dựng khu chung cư, đường giao thông... phục
vụ đời sống dân sinh. Hiện tại khu dân cư thuộc làng xã xưa đã trở thành
những khu vực đan xen, chia hai phần rõ rệt: khu vực thuộc các làng xã cũ
một phần thuộc các phường Phương Liệt, Khương Đình, Hạ Đình, Khương
Trung, Nhân Chính vẫn còn tồn tại những nếp nhà truyền thống, từ đường các
dòng họ, người dân sống quây quần theo dòng họ, theo ngõ xóm, mối quan hệ
trong cộng đồng dân cư khá mật thiết. Khu dân cư mới xây dựng về sau này
trên địa bàn các phường Khương Mai, Kim Giang, Thượng Đình, Thanh
Xuân Bắc, Thanh Xuân Trung, Thanh Xuân Nam và một phần Nhân Chính,
đại bộ phận là các khu nhà lắp ghép, tập thể, nhà cao tầng khép kín tách biệt
và các khu chung cư hiện đại.
Kinh tế trên địa bàn quận ổn định, tiếp tục tăng trưởng (giai đoạn 2010
– 2015 với tốc độ tăng trưởng bình quân 3,7%). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo hướng giảm dần tỷ trọng công nghiệp do các doanh nghiệp sản xuất công
nghiệp trên địa bàn di dời dần cơ sở sản xuất ra ngoại thành theo chủ trương
của Chính Phủ; tăng tỉ trọng thương mại, dịch vụ, do cơ sở hạ tầng đô thị
được đầu tư, số cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể tăng (Năm 2015: Công
nghiệp – xây dựng chiếm 65,5%; thương mại – dịch vụ chiếm 34,5%). Trong
đó, kinh tế Nhà nước chiếm tỷ trọng lớn, các thành phần kinh tế ngoài Nhà
nước tăng trưởng cả về số lượng, quy mô và hiệu quả. Dịch vụ thương mại
54
phát triển rộng khắp trên địa bàn phục vụ nhu cầu dân sinh. Nhiều dịch vụ
chất lượng cao, đặc biệt là dịch vụ ngân hàng tài chính phát triển.
Tình hình chính trị - xã hội ổn định, an ninh quốc phòng luôn được giữ
vững. Trong lĩnh vực xã hội có nhiều chuyển biến, nhiều chỉ tiêu xã hội đạt
cao và về trước kế hoạch như: chất lượng giáo dục được nâng cao; mức
hưởng thụ về các dịch vụ y tế tăng cao, tỷ lệ các hộ dân được sử dụng nước
sạch tăng nhanh.
Tất cả những đặc điểm trên đây cho thấy toàn cảnh diện mạo đời sống
văn hóa tinh thần của cộng đồng cư dân quận Thanh Xuân ngày nay, vừa bảo
lưu, phát huy những yếu tố văn hóa truyền thống, vừa hội nhập những yếu tố
văn hóa hiện đại, trong đó ít nhiều có tiếp thu văn hóa từ các vùng miền trong
cả nước, tạo thành một “phức hợp” văn hóa đa dạng và phong phú. Để phát
huy tổng hợp nguồn lực từ Nhân dân địa phương và đảm bản dân chủ cần
phải chú ý đến đặc điểm kinh tế - xã hội đặc trưng này của quận. Việc ngày
càng phải đổi mới, hoàn thiện vấn đề dân chủ và cách thức tổ chức thực hiện
là đòi hỏi tất yếu khách quan phục vụ cho sự phát triển của quận Thanh Xuân.
2.2.2. Kết quả quá trình quán triệt, triển khai pháp luật về dân chủ
cơ sở trên địa bàn quận Thanh Xuân
* Về công tác quán triệt, triển khai các chủ trương, quan điểm của
Đảng có liên quan đến nội dung pháp luật về dân chủ cơ sở, ngay từ thời
gian đầu thực hiện cho đến nay, công tác chỉ đạo thực hiện pháp luật về dân
chủ cơ sở cũng như QCDC từ quận tới cơ sở đã gắn với thực hiện nhiệm vụ
chính trị của địa phương và các phong trào thi đua yêu nước như: tuyên
truyền thực hiện QCDC ở cơ sở với tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị trong
cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân, gắn với thực hiện kết luận số 65-
KL/TW ngày 4/3/2010 của Ban Bí thư Trung Ương, Chỉ thị số 21- CT/TU
ngày 2/6/2010 của Thành ủy và Thông tri số 10-TTr/QU ngày 20/10/2011 của