Luận văn thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở - Từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
2,035
327
124
35
rõ theo hai chiều hướng: hoặc được đề cao phát huy, hoặc bị tẩy chay, tiêu
cực. Để xảy ra những hiện tượng tiêu cực tại cơ sở, nhiều cán bộ tâm huyết
phải thẳng thắn thừa nhận rằng: do họ chưa thực sự bám sát địa bàn (quần
chúng).
36
Tiểu kết chƣơng 1
Dân chủ cơ sở là biểu hiện cụ thể của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, là
sự đảm bảo nguyên tắc toàn bộ quyền lực thuộc về Nhân dân tại cơ sở trên
nền tảng thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Kết quả tổ chức, triển khai thực hiện dân chủ cơ sở được đánh giá trên các
tiêu chí cơ bản sau: Tiêu chí đánh giá về hiệu quả tổ chức thực hiện của chính
quyền cơ sở; Tiêu chí đánh giá về tác động đối với đời sống địa phương; Tiêu
chí đánh giá về trình độ hiểu biết và mức độ thực hiện nội dung pháp luật quy
định về thực hiện dân chủ cơ sở của Nhân dân...
Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở là hệ thống các quy định về những
nội dung dân chủ cơ sở. Nội dung pháp luật về dân chủ cơ sở rất rộng, có liên
quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của người dân nơi cư trú thông qua việc
thực hiện quyền được biết, quyền được bàn và quyết định, quyền được tham
gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định và quyền giám sát đối
với những nội dung có liên quan tới đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội của người dân ở cơ sở bằng những hình thức nhất định, phù hợp với các
nguyên tắc, quy định của pháp luật. Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở có
những đặc điểm đặc thù riêng. Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở có vai trò
to lớn đối với đời sống chính trị, kinh tế - xã hội ở tất cả các địa phương
trong
cả nước.
Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở chịu sự chi phối, ảnh hưởng của
một số yếu tố, như: yếu tố chính trị; cải cách hành chính Nhà nước; quá trình
hội nhập quốc tế; việc ban hành và tổ chức thi hành Hiến pháp năm 2013.
Việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở được bảo đảm bởi một số điều kiện
như: Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá ‐ xã hội; Sự phát triển của khoa học
công nghệ; Trình độ dân trí; Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức
cấp cơ sở; Hệ thống pháp luật; Bộ máy Nhà nước.
37
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ VÀ
THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ
HÀ NỘI
2.1. Thực trạng pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về thực hiện
dân chủ cơ sở
Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã của nước ta ra đời sau
Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/02/1998 về xây dựng và thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam, là một bước tiến mới của quá trình mở rộng và phát huy dân chủ của
Nhân dân. Để thực hiện và thể chế hóa quan điểm Chỉ thị số 30-CT/TW, Nhà
nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật có liên quan:
* Từ trước năm 2007
Ngày 26/02/1998, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã có Nghị quyết số
45/1998/NQ-UBTVQH10, giao cho Chính phủ khẩn trương ban hành Quy
chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Thực hiện Nghị quyết của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã ban hành văn bản quy phạm pháp
luật: Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 ban hành Quy chế thực
hiện dân chủ ở xã. Đây được coi là văn bản mang tính chất pháp lý đầu tiên
khi quy định về thực hiện dân chủ cơ sở cấp xã ở nước ta. Sau Lời nói đầu,
Quy chế năm 1998 gồm 7 chương, 25 điều; trong đó, chương I – Những quy
định chung (từ Điều 1 đến Điều 3); Chương II – Những việc cần thông báo để
Nhân dân biết (Điều 4 và Điều 5); Chương III – Những việc Nhân dân bàn và
quyết định trực tiếp (từ Điều 6 đến Điều 8); Chương IV – Những việc Nhân
dân bàn, tham gia ý kiến, HĐND, UBND xã quyết định (Điều 9 và Điều 10);
38
Chương V – Những việc Nhân dân giám sát, kiểm tra (Điều 11 và Điều 12);
Chương VI – Xây dựng cộng đồng dân cư thôn, làng, ấp, bản (từ Điều 13 đến
Điều 17) và Chương VII – Điều khoản thi hành (từ Điều 18 đến Điều 25).
Mục đích của Quy chế năm 1998 được thể hiện rõ ràng ngay tại Điều 1:
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã nhằm phát huy quyền làm
chủ, sức sáng tạo của Nhân dân ở xã, động viên sức mạnh vật chất
và tinh thần to lớn của nông dân và Nhân dân trong phát triển kinh
tế, ổn định chính trị, xã hội, tăng cường đoàn kết nông thôn, cải
thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng bộ, chính quyền và
các đoàn thể ở xã trong sạch, vững mạnh; ngăn chặn và khắc phục
tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng, góp phần vào sự nghiệp
dân giảu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa” [4].
Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 22/1998/CT-TTg ngày 15-5-1998
về việc triển khai QCDC ở xã và Chỉ thị số 24/1998/CT-TTg về việc xây
dựng hương ước, quy ước của làng, thôn, ấp, cụm dân cư. Ban Tổ chức – Cán
bộ Chính phủ ban hành Thông tư 03/1998/TT-TCCP ngày 06-7-1998 về
hướng dẫn áp dụng Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và Kế
hoạch số 145/TCCP-ĐP ngày 06-7-1998 về kế hoạch triển khai Quy chế thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Tiếp theo, Nghị định số 79/2003/NĐ-CP
ngày 7/7/2003 của Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, thay
thế Nghị định số 29/1998/CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ và Thông tư số
12/2004/TT-BNV hướng dẫn thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị
trấn. Quy chế năm 2003 (Quy chế này áp dụng cho cả phường và thị trấn) vẫn
gồm 7 chương, 25 điều song, về mặt kỹ thuật lập quy, đã có sự chỉnh sửa, bổ
sung theo hướng cụ thể, rõ ràng hơn nhằm tăng cường vai trò, trách nhiệm
của bộ máy chính quyền cấp cơ sở trong việc thực hiện Quy chế thực hiện dân
39
chủ cơ sở. Cụ thể Quy chế năm 2003 đã bổ sung thêm Điều 1 ở chương I –
Những quy định chung, trong đó nêu rõ:
Quy chế này quy định cụ thể những việc HĐND và UBND
xã phải thông tin kịp thời và công khai để dân biết, những việc dân
bàn và quyết định trực tiếp; những việc dân tham gia ý kiến trước
khi cơ quan Nhà nước quyết định; những việc dân giám sát, kiểm
tra và các hình thức thực hiện QCDC ở xã [5].
So với Quy chế năm 1998, Quy chế năm 2003 bổ sung thêm Điều 14
quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân đối với việc giám
sát và kiểm tra của Nhân dân. Điều 14 cũng quy định rõ: “Nhân dân không
được tụ tập đông người khiếu kiện vượt cấp, gây mất trật tự an ninh và chống
đối người thi hành công vụ trong khi các kiến nghị đang được xem xét, giải
quyết theo quy định của pháp luật” [5].
Ngoài ra, Nhà nước cũng ban hành một số văn bản khác có liên quan
nhằm điều chỉnh các hoạt động thực hiện dân chủ ở cấp xã, ví dụ như: Thông
tư liên tịch số: 03/2000/TTLT-BVHTT-BTTUBTWMTTQVN-UBQGDS-
KHHGĐ ngày 31/3/2000 đã hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện hương
ước, quy ước của làng, bản, thôn ấp, cụm dân cư và Thông tư liên tịch số:
04/2001/TTLT-BVHTT-BTTUBTWMTTQVN-UBQGDS-KHHGĐ hướng
dẫn bổ sung thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT-BVHTT-
BTTUBTWMTTQVN-UBQGDS-KHHGĐ, bổ sung nội dung thực hiện chính
sách dân số - kế hoạch hóa gia đình vào trong hương ước; Quyết định số
80/2005/QĐ-TTg ngày 18-4-2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành
Quy chế giám sát đầu tư của cộng đồng “nhằm theo dõi, đánh giá việc chấp
hành các quy định về quản lý đầu tư của cơ quan có thẩm quyền quyết định
đầu tư, chủ đầu tư, ban quản lý dự án, các nhà thầu và đơn vị thi công dự án
trong quá trình đầu tư; phát hiện, kiến nghị với các cơ quan Nhà nước có thẩm
40
quyền về các việc làm vi phạm các quy định về quản lý đầu tư để kịp thời
ngăn chặn và xử lý các việc làm sai quy định, gây lãng phí, thất thoát vốn và
tài sản của Nhà nước, xâm hại lợi ích của cộng đồng”…
Như vậy, có thể nhận thấy trong giai đoạn trước năm 2007 đã có sự
thay đổi từ sự phân biệt giữa thực hiện dân chủ ở xã với thực hiện dân chủ ở
phường, thị trấn đến sự thống nhất thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
* Từ năm 2007 đến nay
Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11 thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn là văn bản pháp luật quan trọng nhất về thực hiện dân chủ ở cấp xã.
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 gồm 6 chương
và 28 điều, với những nội dung chính:
Bảng 2.1. Tóm tắt nội dung Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11
STT
chương
Tên
chương
Số điều
Nội dung
I
Những
quy định
chung
4 điều
(từ Điều
1 đến
Điều 4)
- Phạm vi điều chỉnh
- Nguyên tắc thực hiện dân chủ ở cấp xã
- Trách nhiệm tổ chức thực hiện dân chủ ở
cấp xã
- Các hành vi bị nghiêm cấm
II
Những nội
dung công
khai để
Nhân dân
biết
5 điều
(từ Điều
5 đến
Điều 9)
- Những nội dung công khai
- Hình thức công khai
- Việc công khai bằng hình thức niêm yết
- Việc công khai trên hệ thống truyền thanh
và thông qua Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân
phố để thông báo đến Nhân dân
- Trách nhiệm tổ chức thực hiện các nội
dung công khai
41
STT
chương
Tên
chương
Số điều
Nội dung
III
Những nội
dung
Nhân dân
bàn và
quyết định
9 điều
(từ Điều
10 đến
Điều 18)
- Mục 1
+ Nội dung Nhân dân bàn và quyết định
trực tiếp
+ Hình tức Nhân dân bàn và quyết định trực
tiếp
+ Giá trị thi hành đối những việc Nhân dân
bàn và quyết định trực tiếp
- Mục 2
+ Những nội dung Nhân dân bàn, biểu
quyết
+ Hình thức Nhân dân bàn, biểu quyết
+ Giá trị thi hành đối với những việc Nhân
dân bàn, biểu quyết
+ Việc công nhận những nội dung Nhân dân
bàn, biểu quyết
- Mục 3
+ Trách nhiệm của UBND cấp xã, Chủ tịch
UBND cấp xã
+ Trách nhiệm của Trưởng thôn, Tổ trưởng
tổ dân phố
IV
Những nội
dung
Nhân dân
tham gia ý
kiến trước
4 điều
(từ Điều
19 đến
Điều 27)
- Những nội dung Nhân dân tham gia ý kiến
- Hình thức để Nhân dân tham gia ý kiến
- Trách nhiệm của chính quyền cấp xã về tổ
chức thực hiện những nội dung Nhân dân
tham gia ý kiến
42
STT
chương
Tên
chương
Số điều
Nội dung
khi cơ
quan có
thẩm
quyền
quyết định
- Trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền
cấp trên về tổ chức thực hiện những nội
dung Nhân dân cấp xã tham gia ý kiến
V
Những nội
dung
Nhân dân
giám sát
4 điều
(từ Điều
23 đến
Điều 26
- Những nội dung Nhân dân giám sát
- Hình thức để thực hiện việc giám sát của
Nhân dân
- Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong việc thực hiện giám sát của Nhân dân
- Lấy phiếu tín nhiệm
VI
Điều
khoản thi
hành
2 điều
(Điều 27
Điều 28)
- Hiệu lực thi hành
- Hướng dẫn thi hành
Bên cạnh đó, còn có một số văn bản khác được ban hành nhằm cụ thể
hóa những nội dung mới về thực hiện dân chủ ở cấp xã, như: Nghị quyết liên
tịch số 09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQVN ngày 17-4-2008 về hướng dẫn
một số điều của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn… Một số
văn bản khác được ban hành cũng có nội dung liên quan đến thực hiện dân
chủ cơ sở ở cấp xã, như: Luật thanh tra năm 2010, Luật khiếu nại năm 2011,
Luật tố cáo năm 2011, Luật tiếp công dân năm 2013, Luật Bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015, Luật Tổ chức chính quyền địa
phương năm 2015, và đặc biệt là Hiến pháp năm 2013… Các văn bản pháp
luật này góp phần tiếp tục thể chế phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra” trên các lĩnh vực đời sống xã hội diễn ra ở cấp xã.
43
Có thể khẳng định, từ năm 1998, pháp luật về dân chủ cơ sở đã từng
bước đi vào cuộc sống, dù ở thành thị hay nông thôn, tỉnh, huyện hay cơ sở,
doanh nghiệp Nhà nước hay tư nhân, cụm từ “Thực hiện đúng QCDC ở cơ
sở” đã trở thành phương châm hành động của đội ngũ cán bộ, công chức và
toàn thể Nhân dân. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về thực hiện
dân chủ cơ sở tại Việt Nam đi từ ít hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, chất lượng
của các quy phạm pháp luật ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu mở rộng các
quan hệ xã hội và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.
2.1.2. Đánh giá pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở
* Ưu điểm
Với sự ra đời của Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (ban hành kèm theo
Nghị định số 29/1998/NĐ-CP), lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, lập quy,
Nhà nước ta đã tạo ra một công cụ pháp lý về thực hiện dân chủ cơ sở, trao
cho các tầng lớp Nhân dân ở xã, phường, thị trấn những quyền dân chủ thực
sự từ cơ sở. Có thể nói, Quy chế thực hiện dân chủ ở xã được ban hành và đi
vào thực tiễn cuộc sống là một chủ trương đúng đắn, kịp thời tạo ra được bầu
không khí dân chủ thực sự, niềm tin tưởng trong Nhân dân, được đông đảo
các tầng lớp Nhân dân đồng tình và hưởng ứng nhiệt liệt.
Ngày 07/7/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 79/2003/NĐ-CP về
việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (thay thế Nghị định số
29/1998/NĐ-CP), về cơ bản, Quy chế này vẫn giữ nguyên những nội dung cốt
lõi về các quyền dân chủ của Nhân dân đã được quy định trong Nghị định
29/1998/NĐ-CP, chỉ có một số sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, đi vào thực chất
hơn, cụ thể hơn cả về nội dung, hình thức, việc làm và đối tượng thực hiện
theo hướng tăng cường vai trò, trách nhiệm của bộ máy chính quyền cấp xã
trong việc thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Trên thực tế, Nghị định
79/2003/NĐ-CP là bước chuyển và chuẩn bị tiếp theo để nâng Quy chế thực
44
hiện dân chủ ở xã thành Pháp lệnh hoặc Luật theo chỉ đạo của Ban Bí thư
Trung ương Đảng nêu trong Chỉ thị số 10/CT-TW ngày 28/3/2002 về tiếp tục
đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Có thể coi đây
là ưu điểm, bước phát triển mới trong hệ thống pháp luật về thực hiện dân chủ
cơ sở ở cấp xã, khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng và nỗ lực của Nhà
nước ta trong việc thúc đẩy Nhân dân phát huy quyền làm chủ.
Ngày 20/4/2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007.
Pháp lệnh là bước phát triển tiếp theo, hoàn thiện hơn pháp luật về thực hiện
dân chủ cơ sở ở cấp xã. So với Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (đặc biệt theo
Nghị định số 79/2003/NĐ-CP) trước đây, Pháp lệnh có những điểm mới, cũng
là những ưu điểm sau đây:
Thứ nhất, có sự thay đổi lớn trong nhận thức về dân chủ, quyền dân
chủ trực tiếp của người dân được tôn trọng và bảo đảm thực hiện tốt hơn.
Nếu trước đây, Nghị định số 79/2003/NĐ-CP quy định tất cả các cử tri và hộ
gia đình chưa tán thành phải thực hiện những nội dung đã có giá trị thi hành
(quy định cũ này có tính áp đặt khá cao, ảnh hưởng đến tính dân chủ khi thực
hiện các công việc ở cấp xã) thì hiện nay tại Điều 12 của Pháp lệnh nói về giá
trị thi hành đối với những việc Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp có quy
định: những nội dung khi đưa ra Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp, nếu có
trên 50% tổng số cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố
hoặc trong toàn cấp xã tán thành thì có giá trị thi hành. Chính quyền cấp xã
phối hợp với Ủy ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận
cùng cấp tổ chức tuyên truyền, vận động, thuyết phục những cử tri, hộ gia
đình chưa tán thành những nội dung Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp có
giá trị thi hành để cử tri và các hộ gia đình tự nguyện thực hiện. Như vậy, đối
với cử tri và các hộ gia đình chưa tán thành với những nội dung đưa ra Nhân