Luận văn thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở - Từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
2,016
327
124
25
diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố; Phát phiếu lấy ý kiến cử
tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình; Thông qua hòm thư góp ý.
* Những nội dung, hình thức Nhân dân giám sát
Tất cả những nội dung Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn năm 2007 quy định người dân có quyền được biết, được quyết định và
được tham gia ý kiến thì người dân cũng có quyền giám sát. Hình thức giám
sát: Thông qua hoạt động của Ban TTND, Ban giám sát đầu tư của cộng
đồng; Thông qua quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị với cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền hoặc kiến nghị thông qua Ủy ban MTTQ Việt Nam, các tổ chức
thành viên của Mặt trận cấp xã (Điều 24).
1.2.4. Vai trò của Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở
Thứ tạo bầu không khí cởi mở, dân chủ trong xã hội, củng cố
niề Nhân dân. Pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở đã tạo bầu không
khí dân chủ, cởi mở trong xã hội, củng cố thêm niềm tin của Nhân dân vào
chế độ xã hội, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam của dân, do dân và vì dân. Trong một thời gian dài trước đây dân
chủ cơ sở đã không được quan tâm đúng mức, nhiều nơi, nhiều lúc dân chủ cơ
sở bị vi phạm nghiêm trọng, người dân không có cơ chế để bảo vệ và thực
hiện quyền làm chủ của mình. Do vậy, khi pháp luật thực hiện dân chủ ra đời
và được triển khai đã làm cho người dân rất phấn khởi và nhiệt tình hưởng
ứng vì các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân được bảo đảm, tạo sự
đồng thuận trong cộng đồng dân cư cơ sở [6]. Thông qua quá trình học tập và
thực hiện dân chủ cơ sở người dân đã thấy rõ hơn quyền cũng như trách
nhiệm của mình trong việc xây dựng đời sống dân chủ cơ sở, ý thức làm chủ,
ý thức công dân đã có sự chuyển biến rõ rệt. Ngoài ra, Nhân dân hiểu hơn bản
chất, tầm quan trọng của việc thực hành và phát huy dân chủ ở đại phương.
26
Thứ hai, góp phần hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, phù hợp với phát
triển kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng pháp chế xã hội chủ nghĩa. Sự ra đời
của pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở là một bước đột phá quan trọng trong
việc thực hiện hóa bản chất dân chủ của Nhà nước ta. Sự ra đời của pháp luật
thực hiện dân chủ đã góp phần hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, phù hợp với sự
phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ mới,
bảo đảm nguyên tắc pháp chế ững quan hệ xã hội quan
trọng phải được điều chỉnh bằng pháp luật. Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ
sở đã khơi dậy tiềm tàng của Nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà nước và
xã hội. Thông qua hình thức hoạt động dân chủ trực tiếp tại cơ sở người dân
có điều kiện tham gia ý kiến, có điều kiện tập dượt, trưởng thành trong vai trò
của người chủ đích thực. Kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển là nền tảng để giữ
vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương, đất nước.
Thứ ba, nâng cao nhận thứ ối với các quyền tự do dân
chủ, hình thức dân chủ. Hiến pháp và pháp luật nước ta đã xác nhận các
quyền dân chủ, hình thức thực hiện dân chủ của công dân trong việc tham gia
quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung, trọng
đại của cả nước cũng như của từng địa phương, nêu các đề xuất, kiến nghị với
các cơ quan Nhà nước. Ở cấp xã, thông qua việc thực hiện pháp luật về dân
chủ cơ sở, người dân có điều kiện thuận lợi để biết được các quyền dân chủ
của mình, hiểu các nguyên tắc, hình thức thực hiện các quyền đó cũng như
các hành vi bị nghiêm cấm.
Bên cạnh đó, pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở đã làm cho nhận thức
của các đoàn thể trong toàn hệ thống chính trị và toàn xã hội về dân chủ đại
diện và dân chủ trực tiếp ở cơ sở có nhiều chuyển biến tích cực. Pháp luật về
thực hiện dân chủ cơ sở đã tạo ra cơ sở pháp lý để MTTQ các cấp và các tổ
chức chính trị - xã hội thực hiện được vai trò cầu nối giữa Nhà nước và Nhân
27
dân trong phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. MTTQ và các tổ chức thành
viên thông qua hoạt động phối hợp tuyên truyền, vận động Nhân dân, chỉ đạo
triển khai xây dựng, thực hiện, giám sát việc thực hiện dân chủ ở cấp xã góp
phần tạo ra môi trường dân chủ lành mạnh ở cơ sở, góp phần củng cố, xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc [15].
Thứ tư, pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở là phương tiện pháp lý cơ
bản, hiệu quả nhất bảo đảm quyền con người, quyền công dân, thực thi quyền
làm chủ của nhân dân tại địa bàn cơ sở. Thực hiện tốt dân chủ tại cơ sở sẽ góp
phần xây dựng, củng cố và phát huy nền dân chủ, góp phần bảo đảm, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, dân chủ sẽ chỉ là những khẩu
hiệu nằm trên biểu ngữ nếu không có cơ chế hữu hiệu để hiện thực hóa.
Thông qua các thể chế, thiết chế và các bảo đảm được ghi nhận và triển khai
trên thực tế, dân chủ sẽ chuyển hóa từ lý tưởng, mong muốn thành hiện thực
đời sống.
Thứ năm, góp phần xây dựng hệ thống chính trị của cơ sở nói chung,
đặc biệt là chính quyền cơ sở. Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở góp phần
đổi mới hoạt động của bộ máy chính quyền cơ sở theo hướng công khai, minh
bạch, dân chủ, chú trọng đến chất lượng và hiệu quả giải quyết công việc để
thích ứng với yêu cầu ngày càng cao của đời sống dân chủ ở địa phương.
Đồng thời, thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở là nền tảng để sửa đổi lề lối
làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở theo hướng chuyên nghiệp và
hiện đại; nâng cao vai trò, trách nhiệm của họ trong quá trình thực hiện dân
chủ cơ sở. Những điều đó góp phần vào công cuộc đổi mới hoàn thiện bộ máy
Nhà nước và công cuộc cải cách hành chính hiện nay ở Việt Nam. Ngoài ra,
thông qua các thiết chế giám sát và trực tiếp giám sát của Nhân dân, hoạt
động của cấp ủy Đảng, MTTQ và các tổ chức thành viên được hiệu quả hơn.
28
Pháp luật
về thực hiện dân chủ cơ sở đã góp phần nâng cao hiệu quả tác động tới các
luật khác như: Luật Tổ chứ Khiếu nại; Tố cáo;
công dân, luật Bầu cử đại biểu Quốc hộ đại biểu Nhân dân ...
1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến pháp luật về thực hiện dân chủ cơ
sở và điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở
1.3.1. Các yếu tố ảnh hƣớng đến pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở
* Yếu tố chính trị
Dân chủ - bản thân nó là một quá trình chính trị - pháp lý phức tạp,
cùng vận hành với các yếu tố chính trị - xã hội khác và chịu tác động mạnh
mẽ từ các yếu tố chính trị - xã hội khác của đất nước.
Sự ảnh hưởng của yếu tố chính trị đến pháp luật về thực hiện dân chủ
cơ sở trước hết thể hiện ở chế độ chính trị. Một chế độ chính trị có xu hướng
độc tài, chuyên chế thường song hành với pháp luật xâm hại và tàn lụi của
dân chủ và nhân quyền (trước hết là các quyền chính trị - dân sự). Chế độ
chính trị dân chủ, tiến bộ có mục tiêu chính trị vì con người, quan tâm tới việc
xây dựng đường lối, chiến lược, chính sách, pháp luật lấy con người làm
trung tâm, hướng tới việc tạo mọi khả năng bảo đảm tốt nhất quyền con người
sẽ là bảo đảm chắc chắn nhất cho các quá trình và phạm vi dân chủ [31]. Sự
ổn định chính trị của đất nước, sự hài hoà về lợi ích giữa các lực lượng xã hội,
sự dân chủ trong Đảng, trong Nhà nước và trong các tổ chức chính trị xã hội
khác của đất nước tạo điều kiện để Nhân dân lao động tham gia một cách bình
đẳng và ngày càng nhiều vào các lĩnh vực quản lý Nhà nước và xã hội, ảnh
hưởng tích cực đến việc hiện thực hóa các mục tiêu của pháp luật về thực hiện
dân chủ cơ sở.
Ngoài ra, sự tác động của yếu tố chính trị đến pháp luật về thực hiện
dân chủ cơ sở còn biểu hiện ở cơ chế hợp lý để vừa chế ngự Nhà nước nhằm
29
giảm tối đa sự vi phạm dân chủ vừa phát huy tính trách nhiệm, tích cực của
Nhà nước trong nghĩa vụ đảm bảo thực thi quyền làm chủ của Nhân dân.
Theo đó, đặt ra trách nhiệm của Nhà nước phải kiềm chế không can thiệp
(trực tiếp hay gián tiếp) vào việc hưởng thụ các quyền con người của cá nhân,
liên quan trước hết đến các quyền chính trị và dân sự; trách nhiệm của Nhà
nước phải có những hành động tích cực dân chủ cơ sở được thực hiện trên
thực tế thông qua việc thể chế và đưa các quy định pháp luật về dân chủ cơ sở
vào cuộc sống; cũng như trách nhiệm của Nhà nước phải ngăn chặn các hành
vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân từ phía các chủ thể khác. Điều này
trực tiếp đặt ra yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền trong đó thừa nhận
nguyên lý chủ quyền nhân dân và ưu thế của pháp luật, biến pháp luật trở
thành đạo đức của Nhà nước, bằng việc ghi nhận tính bất khả xâm phạm các
quyền và tự do của công dân, đi đôi với tính tất yếu hoàn thiện các công cụ tổ
chức Nhà nước mà trước hết là hoàn thiện các cơ quan Nhà nước với tính
cách là các công cụ bảo hộ pháp lý đối với quyền lực nhân dân.
* Cải cách hành chính Nhà nước
Nội dung cải cách hành chính ở nước ta hiện nay trên tất cả các lĩnh
vực đang đòi hỏi pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở cần có những quy định
về tăng cường giáo dục pháp luật cho công dân, tạo lòng tin và nếp sống làm
việc theo pháp luật của cán bộ, công chức cũng như của các tầng lớp Nhân
dân; quy định để phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông, báo chí để
không chỉ là phương tiện phổ biến thông tin một cách chính xác, kịp thời mà
phải trở thành công cụ hữu hiệu để phân tích, dự báo, phản biện chính sách
cho xã hội và là diễn đàn để Nhân dân trao đổi, bày tỏ ý kiến tham gia quản lý
Nhà nước [15].
Những yêu cầu đổi mới cải cách hành chính thực sự có tác động rất
nhiều đến pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở, đặc biệt là các quy định về
30
công khai thủ tục hành chính, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức
trong thực thi công vụ. Nếu như chính quyền cơ sở có một hệ thống thủ tục
hành chính hợp lý, đồng bộ; hệ thống cán bộ, công chức chính quyền có tài,
có đức sẽ góp phần bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân ở cơ sở.
* Quá trình hội nhập quốc tế
Chặng đường hơn 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế vừa qua của
nước ta là quá trình nhiều thử thách và khó khăn, được ví như hành trình “từ
sông ra biển lớn”. Trong quá trình này, việc xây dựng hệ thống pháp luật để
thúc đẩy hội nhập quốc tế đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Việt Nam đang và
sẽ tiếp tục nghiên cứu pháp luật quốc tế để hoàn thiện quá trình xây dựng
pháp luật nói chung và pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở nói riêng để đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế. Ví dụ
như: nghiên cứu cơ chế tự quản địa phương trong Luật của Hàn Quốc; cho
phép thí điểm Nhân dân địa phương trực tiếp bầu chức danh Chủ tịch UBND
cấp xã trên cơ sở tham khảo mô hành “hai lần bỏ phiếu” của Trung Quốc ...
* Việc ban hành và tổ chức thi hành Hiến pháp năm 2013
Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp năm
2013 thay thế Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). Khi sửa đổi
Hiến pháp, các quy định về hệ thống chính trị nói cung, hệ thống chính quyền
địa phương nói riêng; các quyền thực hiện dân chủ của Nhân dân ở cơ sở (ví
dụ như quyền con người, quyền tham gia quản lý Nhà nước, quyền khiếu nại,
tố cáo; quyền giám sát...) đã được đánh giá, nghiên cứu đề xuất những thay
đổi nhất định. Chính vì vậy, pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở có nhiệm vụ
quan trọng trong việc cụ thể hóa những điểm mới của bản Hiến pháp mới
nhằm bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân ở cơ sở.
1.3.2. Các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở
* Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá
‐
xã hội.
31
Điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng nhất định đến việc thực hiện pháp luật
nói chung, pháp luật về dân chủ cơ sở cũng như dân chủ ở cấp xã nói riêng.
Việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở chịu sự ảnh hưởng nhất định bởi
các điều kiện tự nhiên như địa hình, thời tiết, khí hậu, sông ngòi, đất đai,
nguồn nước... các điều kiện này sẽ ảnh hưởng tới sự phân bố dân cư, hình
thành các khu vực nơi người dân sinh sống (vùng núi, vùng cao, vùng đồng
bằng, thành thị hay vùng sâu, vùng xa...). Những yếu tố này sẽ hình thành nên
chất lượng và những đặc điểm của dân cư (trình độ văn hoá, mặt bằng dân trí,
ý thức pháp luật, thói quen, phong tục tập quán và lối sống theo pháp luật...
của cộng đồng dân cư) nên có những ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện
pháp luật.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện pháp luật dân chủ cơ sở còn chịu
ảnh hưởng mạnh mẽ của sự phát triển kinh tế. Dân chủ và kinh tế là hai vấn
đề có mối quan hệ mật thiết với nhau. Kinh tế tạo điều kiện để xây dựng dân
chủ, nhưng dân chủ cũng tạo điều kiện cho phát triển kinh tế. Kinh tế càng
phát triển, năng suất lao động cao, cơ sở hạ tầng của xã hội ngày càng phát
triển hoàn thiện sẽ bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền công dân và quyền con
người. Sự phát triển kinh tế bảo đảm cho triển vọng của nền dân chủ, sự phát
triển kinh tế sẽ tạo ra được một tầng lớp trung lưu và sẽ tạo điều kiện cho dân
chúng có học thức cao hơn trước và đó là môi trường mới thuận lợi cho dân
chủ hoá. Cũng cần thấy rằng dân chủ đã tạo điều kiện phân phối công bằng
hơn phúc lợi xã hội, nhờ vậy kích thích sự phát triển kinh tế. Trình độ kinh tế
ở mỗi vùng miền khác nhau nên sự ảnh hưởng của yếu tố này đến việc thực
hiện pháp luật dân chủ cơ sở cũng khác nhau [34].
Dân chủ và việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở không chỉ phụ
thuộc vào điều kiện kinh tế mà còn phụ thuộc vào điều kiện văn hoá - xã hội.
Rõ ràng, trong một xã hội đáp ứng được các yêu cầu về giáo dục đào tạo, văn
32
hoá, thông tin, thể dục, thể thao, y tế, chăm sóc sức khỏe, công tác dân số, lao
động, việc làm, xoá đói giảm nghèo… sẽ phản ánh phần nào về một xã hội
giàu có. Một xã hội giàu có sẽ có tác động thuận lợi đến quá trình dân chủ hoá
xã hội vì có khả năng, trong phần lớn các trường hợp, xoa dịu được sự bất
bình đẳng xã hội. Thực tế chứng minh rằng, sự phân cực do bất bình đẳng xã
hội sẽ làm nảy sinh những mâu thuẫn hoặc xung đột chính trị, mà nhiều khi
không thể sử dụng thiết chế và phương pháp dân chủ để giải quyết các xung
đột đó. Do vậy, sự phân cực giàu nghèo trong xã hội là rào cản to lớn cho quá
trình thực hiện dân chủ, mặc dù dân chủ cũng không dễ có trong một xã hội
với chế độ phân phối của cải xã hội theo hình thức cào bằng, bình quân chủ
nghĩa.
* Sự phát triển của khoa học công nghệ
Trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển một cách mạnh mẽ như
hiện nay thì thông tin là yếu tố hết sức quan trọng trong công tác chỉ đạo, điều
hành. Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở gắn liền với yếu tố thông tin.
Thông tin nhanh hay chậm, chất lượng hay không đảm bảo chất lượng bên
cạnh việc phụ thuộc vào công nghệ hiện đại thì một phần nó còn phù thuộc
vào các yếu tố của điều kiện tự nhiên. Sự phát triển của phương tiện thông tin
giúp cho dân chúng nhanh chóng có thông tin để có thể tham gia bàn luận,
đánh giá và lựa chọn những quyết định chính trị đúng đắn; ảnh hưởng đến
chất lượng và hiệu quả của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật. Trong một quốc gia rộng lớn về lãnh thổ, với dân số đông thì sự yếu kém
và lạc hậu về hạ tầng thông tin sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của dân
chủ [34].
* Trình độ dân trí (trình độ hiểu biết các vấn đề chính trị - xã hội)
Đây là yếu tố tác động trực tiếp đến việc thực hiện pháp luật về dân chủ
cơ sở. Trình độ dân trí cao là điều kiện đầu tiên, cơ bản để có những hành vi
33
xử sự hợp pháp. Với người có trình độ văn hóa cao họ sẽ dễ dàng hiểu biết
pháp luật, nhận thức đúng pháp luật và dẫn đến việc thực hiện pháp luật tốt.
Ngược lại, với những người trình độ văn hóa thấp, sẽ khó khăn cho họ trong
việc hiểu biết cũng như thực hiện pháp luật. Do trình độ dân trí không đồng
đều, nhận thức của Nhân dân còn thấp nên việc tiếp thu chủ trương về thực
hiện dân chủ cơ sở còn có những hạn chế thể hiện ở hai khuynh hướng: bàng
quan hoặc lạm dụng dân chủ. Trong xã hội, những bộ phận công dân có trình
độ dân trí thấp thường đứng ngoài chính trị và dễ trở thành đối tượng cho các
mánh khóe, thủ đoạn của những lực lượng chính trị cơ hội [36].
Thực tiễn đã chứng minh, chỉ khi nào người dân tự giác nhận thức được
quyền hạn và nghĩa vụ của mình, tự giác tham gia vào công việc Nhà nước,
công việc xã hội, hoạt động với tư cách là công dân có tri thức văn hoá mới
thực sự có điều kiện thực hiện pháp luật nói chung, pháp luật về dân chủ và
dân chủ cơ sở nói riêng. Hành vi xử sự của các chủ thể thực hiện pháp luật là
yếu tố quyết định tính hiệu quả trong việc thực hiện pháp luật. Hành vi đó phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có ý thức pháp luật, thể hiện những tri thức
pháp luật mà con người có được, ở ý chí, thái độ, tình cảm của họ đối với
pháp luật. Vì vậy, trong quá trình thực hiện pháp luật, các quy phạm pháp luật
chỉ được thực hiện đúng đắn, chính xác, kịp thời khi chủ thể hiểu được chính
xác nội dung, ý nghĩa của quy phạm, hay nói cách khác là chủ thể có ý thức
pháp luật.
* Hệ thống pháp luật
Thực hiện dân chủ cơ sở có hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào
sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật, trong đó phải kể đến các văn bản pháp
luật về thực hiện dân chủ cơ sở
ệ thống các văn bản quy
34
phạm pháp luật quy định dân chủ cơ sở phải được ban hành đồng bộ, hoàn
thiện về nội dung, đạt yêu cầu về quy trình ban hành và kỹ thuật văn bản. Hệ
thống pháp luật dân chủ cơ sở phải có tính ổn định, bảo đảm tính chuẩn mực,
có tính nhất quán, hệ thống và tính phù hợp... Bên cạnh yếu tố về nội dung,
các quy định củ
ật về quy trình thực hiện pháp luật về dân
chủ cơ sở cũng đòi hỏi phải được hoàn thiện, việc áp dụng phải phù hợp với
từng điều kiện, hoàn cảnh, tính chất và từng loại vụ việc cụ thể.
* Bộ máy Nhà nước
Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tổ chức thực hiện pháp luật phải
được tổ chức một cách khoa học có sự phân công rõ ràng về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn… để xử lý công việc nhanh chóng, không chồng chéo.
Chẳng hạn, trong giai đoạn hiện nay, thực hiện dân chủ cơ sở cần chú trọng
đến việc đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính có liên quan đến công dân, đề
cao các quyền tự do dân chủ của công dân, đẩy mạnh hoạt động phòng ngừa
các hành vi vi phạm pháp luật...
* Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở
Điều 3 Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007
quy định chính quyền cấp cơ sở chịu trách nhiệm chính trong việc tổ chức
thực hiện dân chủ ở cấp xã. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là người trực
tiếp giác ngộ, tuyên truyền đầy đủ, sâu sắc mục đích, ý nghĩa, nội dung pháp
luật về dân chủ ở cấp xã cho Nhân dân. Thực tế những năm qua cho thấy, một
khi có chủ trương hợp lòng dân, có đội ngũ cán bộ mẫn cán, thực sự là “công
bộc của dân” thì dân tin tưởng và hăng hái tham gia mọi phong trào. Thông
qua phong trào của quần chúng, vai trò của đội ngũ cán bộ cũng được thể hiện