Luận văn thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở - Từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
1,945
327
124
5
đánh giá thực trạng, đề xuất các quan điểm và giải pháp thực hiện pháp luật
về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
- Vương Ngọc Thịnh, Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa
bàn huyện Hoài Đức, Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2010. Luận
văn đi sâu vào phân tích khái niệm, đặc điểm, nội dung pháp luật về dân chủ ở
cơ sở và các hình thức thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, vai trò của việc
thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị trấn; đánh giá thực
trạng việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Hoài
Đức và đề xuất phương hướng, luận giải một số giải pháp bảo đảm thực hiện
pháp luật về dân chủ cơ sở tại huyện Hoài Đức, Hà Nội.
- Vũ Thị Nhung, Thực hiện dân chủ ở cấp xã – thực trạng và giải pháp,
Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công, Hà Nội, 2011. Luận văn tập trung
làm rõ quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, quan điểm,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong việc thực hiện dân chủ ở
xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, từ đó rút ra bài học kinh
nghiệm và đề ra một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện, nâng cao chất
lượng, tổ chức tổ chức thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
trong những năm tiếp theo.
- Bùi Thị Hường, Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
hiện nay - thực trạng và những vấn đề cần hoàn thiện, Luận văn Thạc sĩ Luật
học, Hà Nội, 2014. Luận văn nghiên cứu các quy định về dân chủ ở xã,
phường, thị trấn và các cơ quan, tổ chức, xí nghiệp, doanh nghiệp, mục đích
nghiên cứu của luận văn là đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng thực hiện QCDC ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
Tất cả đều đưa ra những luận cứ khoa học có giá trị tham khảo về khái
niệm, bản chất, vai trò quan trọng của dân chủ, dân chủ cơ sở, thực hiện pháp
6
luật về dân chủ cơ sở; những thành công, hạn chế và những vấn đề đặt ra
trong xây dựng và thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở nói chung và từng
địa phương nói riêng. Tuy nhiên các công trình kể trên chưa thật sự chú trọng
vào nghiên cứu chi tiết các quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở,
đặc biệt là ở cấp xã, chưa phân tích các tiêu chí đánh giá thực hiện dân chủ cơ
sở, chưa tìm hiểu việc thực hiện pháp luật dân chủ cơ sở ở địa bàn lựa chọn
nghiên cứu trong luận văn, các giải pháp đưa ra không còn hoàn toàn phù hợp
trong giai đoạn hiện nay. Đây chính là lý do để tác giả tiếp tục đi sâu, nghiên
cứu các vấn đề của đề tài luận văn, tìm kiếm và đưa ra giải pháp thiết thực có
giá trị áp dụng trong phạm vi cả nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích:
Trên cơ sở tìm hiểu các quy định về thực hiện dân chủ cơ sở và thực
tiễn trên địa bàn quận Thanh Xuân, luận văn đề xuất những phương hướng và
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng các quy định, việc thực hiện dân chủ cơ
sở trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ:
Để đạt mục đích trên luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa, nghiên cứu cơ sở lý luận về pháp luật và thực tiễn thực
hiện pháp luật dân chủ cơ sở.
- Đánh giá pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở
trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
- Đề xuất những quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng pháp
luật và thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu: Hiện nay, pháp luật về thực hiện dân chủ
cơ sở điều chỉnh trên 3 loại hình cơ bản: Ở xã, phường, thị trấn (theo Pháp
7
lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11); Trong hoạt động của cơ quan hành chính Nhà
nước và đơn vị sự nghiệp công lập (theo Nghị định số 04/2015/NĐ-CP), Tại
nơi làm việc (theo Nghị định 60/2013/NĐ-CP). Tuy nhiên, trong giới hạn của
luận văn này, dưới góc độ của chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành
chính, tác giả tập trung nghiên cứu quá trình thực
hiện dân chủ trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
theo tinh thần của Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11 của Ủy ban thường vụ
Quốc Hội khóa XI về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi không gian:
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật và quá trình thực hiện
dân chủ trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
- Phạm vi thời gian:
Nghiên cứu pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở từ năm 1998 đến nay
(từ khi ra đời Chỉ thị 30/CT - TW của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa VIII về việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở), trọng
tâm từ năm 2007 đến nay, tức là từ khi Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11
của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa XI về thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn có hiệu lực thi hành, đưa ra đánh giá trong 5 năm gần đây (giai đoạn
từ năm 2012 đến năm 2016).
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phƣơng pháp luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận
khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin (phương pháp duy vật biện chứng và
phương pháp duy vật lịch sử).
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu:
8
Luận văn được tiến hành nghiên cứu bằng cách sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu khoa học pháp lý và khoa học hành chính như:
- Nghiên cứu lý thuyết, tài liệu liên quan đến đề tài, đặc biệt là các văn
bản quy phạm pháp luật, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Thu thập, phân tích, tổng hợp, so sánh các số liệu, kết quả trong phạm
vi thời gian nghiên cứu;
- Sử dụng các số liệu thu thập được từ các điều tra xã hội học, phỏng
vấn, thống kê để khái quát và tổng kết kinh nghiệm làm tư liệu phục vụ
nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về dân chủ cơ sở
và thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở, tập trung ở cấp xã.
- Luận văn đánh giá thực trạng, nâng cao nhận thức và
trách nhiệm thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở của các chủ thể trong thực
hiện pháp luật về dân chủ ở các phường trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành
phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
- Luận văn đề xuất một số quan điểm và giải pháp cụ thể để nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật về dân chủ
trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được trình bày với 03 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận của pháp luật về thực hiện dân chủ cơ
sở;
Chương 2. Thực trạng pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở và thực tiễn
thực hiện tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội;
Chương 3. Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thực hiện
dân chủ cơ sở từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
9
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN DÂN
CHỦ CƠ SỞ
1.1. Thực hiện dân chủ cơ sở
1.1.1. Khái niệm
* Khái niệm dân chủ
Trong tri thức nhân loại, dân chủ được coi là một cụm từ có được từ
“sản phẩm của nền văn minh”, là điều kiện và tiêu chuẩn tiến bộ xã hội. Dân
chủ là một khái niệm đa nghĩa, phức tạp, thuộc phạm trù chính trị có nguồn
gốc từ tiếng Hi Lạp: “demos” là Nhân dân và “kratos” là chính quyền; theo
nghĩa tiếng Anh “demoeracy” có nghĩa là “chính thể dân chủ”. Theo đó, có
thể hiểu dân chủ là chính quyền thuộc về Nhân dân. Nhân dân là chủ thể
quyền lực Nhà nước. Nhà nước dân chủ là Nhà nước thừa nhận và bảo đảm
các quyền tự do và bình đẳng của công dân. Dân chủ là khát vọng vươn tới và
là mục tiêu đấu tranh của xã hội loài người.
Lịch sử thế giới đã chứng tỏ sự phát triển của nền dân chủ qua các giai
đoạn, thể hiện nấc thang tiến bộ là: dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản, dân chủ
xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, trên thế giới, nhiều quốc gia đang thực hiện quá
trình dân chủ hóa xã hội một cách mạnh mẽ. Dân chủ đang ngày càng được
thể hiện trong tất cả các mối quan hệ xã hội là một quy luật tất yếu. Vì vậy,
Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng và phát triển đất nước theo mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hiện nay, do cách thức tiếp cận, mục đích tiếp cận không giống nhau,
các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về dân chủ. Từ góc
độ khái quát nhất, theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, có thể hiểu: “Dân chủ
là hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận
10
Nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự
do. Dân chủ cũng được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ
chức và thiết chế chính trị nhất định” [14, tr.89].
* Khái niệm cơ sở và thực hiện dân chủ cơ sở
Cơ sở là thành tố, là đơn vị nhỏ nhất trong cấu trúc của một hệ thống
các sự vật hiện tượng. Khái niệm cơ sở được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa
hẹp.
Theo nghĩa rộng, cơ sở là đơn vị xã hội nhỏ nhất mà Nhân dân tổ chức
nên, đó là gia đình, buôn, làng, xóm, ấp, thôn, bản, cấp nhỏ nhất của một hệ
thống cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội [16].
Theo nghĩa hẹp, cơ sở là cấp chính quyền cuối cùng trong hệ thống
chính quyền Nhà nước, các pháp nhân công quyền, các pháp nhân kinh tế
[16]. Luận văn tiếp cận khái niệm cơ sở theo nghĩa này. Theo điều 110 - Hiến
pháp 2013, các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam được chia thành 4 cấp: Trung ương, cấp Tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Như
vậy, cơ sở trong khái niệm trên được hiểu là: xã, phường, thị trấn (gọi chung
là cấp xã).
Xuất phát từ vị trí, vai trò của cơ sở là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, là nơi cần thực hiện
quyền dân chủ của Nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất nên Đảng và
Nhà nước ta chủ trương phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân trước hết từ
cấp cơ sở. Như vậy, dân chủ cơ sở là biểu hiện cụ thể của thiết chế dân chủ,
là sự đảm bảo Nhân dân là nguồn gốc của quyền lực Nhà nước tại địa bàn
xã, phường, thị trấn bằng những hình thức nhất định, phù hợp với các nguyên
tắc, quy định của pháp luật.
Dân chủ cơ sở không phải là hình thức dân chủ mà là cấp độ thực hiện
dân chủ thông qua hai hình thức:
11
Thứ nhất, Dân chủ trực tiếp là hình thức qua đó Nhân dân bằng hành vi
của mình trực tiếp thực hiện quyền dân chủ Nhà nước và xã hội. Đó là thực
hiện quyền được thông tin, bàn bạc và quyết định, trực tiếp giám sát [35].
Thứ hai, Dân chủ đại diện là hình thức mà qua đó Nhân dân thực hiện
sự “ủy quyền”, giao quyền lực của mình cho người, tổ chức mà Nhân dân trực
tiếp bầu ra. Những người và tổ chức ấy đại diện cho Nhân dân, thực hiện
quyền làm chủ của Nhân dân.
Nhà nước là cơ quan đại diện cho quyền làm chủ của Nhân dân trong
việc thực hiện quyền lực Nhà nước. Song Nhà nước không thể hiểu hết được
tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân ở các vùng, miền địa phương có những
đặc điểm, điều kiện kinh tế - xã hội, địa lí, tập quán khác nhau. Do đó, phát
huy và mở rộng dân chủ trực tiếp của Nhân dân đến tận cơ sở là nhằm đảm
bảo quyền tham gia quản lý Nhà nước của công dân, vừa phát huy tính sáng
tạo, trí tuệ của Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Chính vì vậy, dân chủ cơ sở hướng tới hình thức dân chủ trực tiếp là chủ yếu.
Có thể khái quát khái niệm “thực hiện dân chủ cơ sở” như sau: “Thực
hiện dân chủ cơ sở là việc thừa nhận và thực hiện thường xuyên các quyền
làm chủ của công dân; tăng cường tính cộng đồng trách nhiệm giữa Nhà
nước và công dân nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân ở
cấp cơ sở.” [14; tr.279].
1.1.2. Nội dung thực hiện dân chủ cơ sở
Nội dung thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã là những công việc của Nhà
nước và của xã hội mà Nhân dân phải được biết, được tham gia vào quản lý
Nhà nước và những nội dung Nhân dân giám sát hoạt động của chính quyền
cơ sở. Chính quyền cơ sở, cấp ủy Đảng, MTTQ và các tổ chức thành viên ở
cơ sở phải có trách nhiệm thực hiện và tổ chức cho Nhân dân thực hiện các
quyền dân chủ này. Nội dung dân chủ cơ sở ở cấp xã được thực hiện theo
12
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, trong đó các việc
biết, bàn, làm, kiểm tra có mối quan hệ chặt chẽ và chất lượng thực hiện nội
dung này ảnh hưởng quyết định đối với việc thực hiện nội dung tiếp theo [15].
Thứ nhất, “Dân biết” được thể hiện qua hoạt động tiếp cận thông tin
của Nhân dân. Quyền tiếp cận thông tin là quyền chính trị cơ bản đã được ghi
nhận trong các văn kiện quốc tế cũng như Hiến pháp, pháp luật. Hiến pháp
năm 1946 và Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 (Điều 25) đều quy
định công dân có quyền được thông tin. Nghĩa là, công dân có quyền được
biết những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, được thông tin
những vấn đề cấp thiết, gắn liền với cuộc sống hằng ngày. Quyền tiếp cận
thông tin của người dân phản ánh bản chất xã hội ta là Nhà nước của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, mọi việc của Nhà nước phải được cho dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Một trong những vấn đề quan trọng của
Nhân dân đó là quyền được biết về tình hình chung đang diễn ra trên các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước, của địa phương và những
vấn đề cụ thể có liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của bản thân mỗi
người dân, cũng như của gia đình và cộng đồng dân cư.
Thứ hai, “Dân bàn” là xu hướng tất yếu khi người dân đã được cung
cấp thông tin. Nhân dân có quyền tham gia bàn bạc, thảo luận các vấn đề
chung của đất nước và địa phương; biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng
cầu ý dân. Với tinh thần “lấy dân làm gốc”, các cơ quan Nhà nước và chính
quyền các cấp, nhất là cấp xã, phải biết lắng nghe các ý kiến của Nhân dân,
nắm bắt dư luận xã hội một cách nghiêm túc, phân tích nội dung các ý kiến
của dân, dư luận xã hội một cách khoa học để nắm bắt chính xác, kịp thời tâm
trạng, tình cảm, nguyện vọng của Nhân dân. Có thể nói, nội dung “dân bàn”
là một trong những sự phản biện xã hội tốt nhất đối với các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; giúp cho các đường
13
lối, chính sách, pháp luật phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn đời sống trên địa
bàn cơ sở.
Thứ ba, “Dân làm” là sự hiện thực hóa tư tưởng đã thông suốt thành
những hành động, việc làm cụ thể. Từ chỗ được cung cấp thông tin một cách
công khai, trung thực, kịp thời, qua bàn bạc, trao đổi ý kiến để tìm ra tiếng
nói
chung, có được sự đồng thuận giữa chính quyền và Nhân dân, người dân sẽ tự
giác tuân thủ, thực hiện các quy định của pháp luật, hăng hái, nhiệt tình trong
lao động sản xuất với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao.
Thứ tư, “Dân kiểm tra” được thể hiện qua hoạt động giám sát của
Nhân dân. Giám sát là một nội dung thực hiện dân chủ cơ sở của Nhân dân
nhằm góp phần xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và các đoàn thể Nhân
dân trong sạch, vững mạnh. Giám sát có ý nghĩa rất quan trọng trong phát
hiện những khuyết điểm của cán bộ, công chức trong bộ máy của Đảng và
Nhà nước để chấn chỉnh những sai phạm, đưa mọi hoạt động vào đúng nền
nếp, kịp thời phát hiện những sai phạm để xử lý kỉ luật, tạo dựng trật tự kỷ
cương, góp phần vào việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước và của tập thể, quyền
và lợi ích chính đáng của Nhân dân. Do đó, quyền giám sát không chỉ thể hiện
thông qua hoạt động của các cơ quan chuyên trách giám sát mà còn phải lôi
cuốn được đông đảo Nhân dân tham gia. Nhân dân cần được giám sát những
gì có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của họ, giám sát việc thực thi nhiệm
vụ của các cơ quan Nhà nước địa phương, giám sát hoạt động của cán bộ,
công chức, những người có trách nhiệm trong việc thực hiện những quy định
về tài chính, kinh tế, quản lý sử dụng đất đai, chính sách xã hội, việc giải
quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân …
1.1.3. Các tiêu chí đánh giá thực hiện dân chủ cơ sở
* Tiêu chí đánh giá về hiệu quả tổ chức thực hiện của chính quyền
(HĐND, UBND) cơ sở
14
Chính quyền cơ sở điều hành, quản lý các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã
hội tại cấp xã nên có vai trò rất quan trọng trong việc tạo điều kiện và đảm
bảo thi hành các quyền dân chủ của Nhân dân ở cơ sở. Những quyết định do
chính quyền cơ sở ban hành đều có tác động ngay đối với đời sống và hoạt
động sản xuất, kinh doanh của Nhân dân ở cơ sở. Vì vậy, hiệu quả tổ chức
thực hiện của chính quyền cơ sở được coi là một tiêu chí đánh giá việc thực
hiện dân chủ cơ sở. Nội dung tiêu chí này được thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, chính quyền cơ sở công khai, minh bạch chỉ đạo để tạo điều
kiện cho Nhân dân thực hiện các quyền dân chủ. Ví dụ: Chính quyền cơ sở
phải lập kế hoạch, lên phương án, phổ biến các văn bản pháp luật có liên quan
đến việc đền bù cho dân biết để dân có thể bàn bạc, góp ý kiến về kế hoạch
huy động tiền của Nhân dân xây dựng đường, trường, về phương án đền bù
giải phỏng mặt bằng.
Thứ hai, chính quyền cơ sở thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến
đến Nhân dân nội dung thực hiện dân chủ cơ sở. Ví dụ: Chính quyền cơ sở
thông báo đến Nhân dân thông qua các hình thức về chính sách, pháp luật của
Nhà nước, về quyết toán công trình xây dựng do dân đóng góp, về sơ kết,
tổng kết hoạt động hoạt động của HĐND, UBND; Chính quyền cơ sở chủ
động phối hợp với MTTQ và các tổ chức thành viên cấp xã tổ chức họp Nhân
dân, họp chủ hộ, phát phiếu lấy ý kiến đến từng hộ gia đình.
Thứ ba, chính quyền cơ sở lắng nghe, tiếp thu và xử lí nghiêm túc và có
trách nhiệm giải trình các công việc mà Nhân dân đã thực hiện bàn bạc, quyết
định, giám sát.
* Tiêu chí đánh giá về chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức
Đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở là những người thay mặt Nhà
nước trực tiếp thi hành quyền lực Nhà nước ở địa phương, giải quyết các công
việc có liên quan tới lợi ích của Nhà nước và Nhân dân; đồng thời, cũng là