Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Văn hóa của người Tày ở huyện định hóa tỉnh Thái Nguyên
4,845
41
134
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
75
Người thợ rèn về nhà thấy sự thể đã rồi, ông không nói gì chỉ thầm
trách lẽ ra phải xử tội Thiên lôi ngay. Lại nói về quả bầu đem trồng, 7 ngày
ra hoa, 10 ngày đậu quả. Một tháng quả bầu đã già, vỏ cứng như sành. Hai
chị em đục một cái lỗ, rồi chui vào đó ngồi thử và giữ lại hạt giống về sau.
Thiên lôi về trời tâu với Ngọc Hoàng: Dưới hạ giới giống người khôn
lắm, dũng mãnh như thần mà còn bị chúng bắt được, hút chết. Vậy tâu xin
cho lũ lụt lớn để giết hết chúng đi. Ngọc Hoàng nghe xong liền làm mưa suốt
ngày suốt đêm. Mưa lớn tràn ngập dân gian, các ngọn núi cao nhất cũng bị
nhấn chìm trong biển nước.
Trận đại hồng thủy làm cho muôn loài cây cỏ, súc vật chết hết. Chỉ có
hai chị em con nhà người thợ rèn chui vào quả bầu với người cha ngồi trên
quả bầu và một con rùa còn sống sót. Nước cứ dâng lên mãi. Khi ô của người
thợ rèn chọc thủng bầu trời, nước mới chịu rút, cán ô móc vào bầu trời, người
thợ rèn bám lấy. Mấy ngày sau cán ô bị mục, người thợ rèn rơi xuống mà
chết. Khi nước rút hết, hai chị em từ trong quả bầu chui ra, thấy rùa liền hỏi:
Mày có biết thiên hạ còn người nào sống sót nữa không? Rùa trả lời: không.
Người chị tức quá vụt cho rùa một cái, mai rùa vỡ thành từng mảnh. Hai chị
em quay lưng lại với nhau mỗi người đi về một hướng. Hồi lâu họ lại gặp
nhau ở chỗ con rùa. Đi ba lần như vậy mới biết rùa nói thật. Họ xin lỗi và
hàn lại mai cho rùa. Đến nay, mai rùa vẫn còn vết rạn là vì thế. Hai chị em
mỗi người ở một bên bờ suối, họ đốt lửa, thấy khói bay lên cuộn làm một, bấy
giờ mới chịu lấy nhau.
Về sau người vợ có thái, sinh ra một quả bầu. Hai vợ chồng đem hạt
bầu rải ra khắp vùng rừng núi. Các dân tộc Tày, Nùng, Mông, Dao, Sán
Chay, Lô Lô… sinh ra từ đấy.
Hạt bầu còn rất nhiều, hai vợ chồng đổ ào xuống đồng bằng, thế là
sinh ra người Kinh. Thế nên người Kinh đông hơn cả” [62].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
76
thông
Chàng ngốc, Chàng rể ngốc, Mưu mẹo kẻ khó, Hai anh em mồ côi
Ăn vụng rượu nếp cái g: “Từ đời xưa, một nhà nọ có rất nhiều
ruộng, toàn ruộng tốt, dễ dẫn nước vào ruộng. Sắp hết vụ cấy lúa, nhà nọ nhờ
nhiều người đến cấy giúp đến hôm nay nữa là cấy xong. Chủ nhà mổ lợn làm
cỗ mời những người đã cấy giúp để tạ ơn. Các chức dịch trong xã cùng các
bô lão cũng được mời.
Những người làm bếp, mổ lợn làm cỗ sửa soạn bữa ăn trưa ra vào tấp
nập trong đó có cả thằng Mồ côi. Mồ côi lâu nay vẫn được đồn có tiếng là
thông minh. Thấy Mồ côi đi qua trước mặt, các chức dịch gọi lại nói:
- Ái chà, lâu ta không được xem tài năng của mày. Này nhé, mày có
nhìn thấy 4 đứa con gái đang cấy ở gần bờ đó không? Mày đi hôn được má 4
đứa con gái ấy thì quay về đây tao thưởng.
Mồ côi hỏi thưởng cái gì, chức dịch nói:
- Ông chủ nhà giàu có mày sợ chúng tao dối hay sao, có phải không
ông chủ? Một nén bạc.
Ông chủ nhà đành phải nói theo: - Một nén bạc.
Mồ côi ra đi, chức dịch cùng các bô lão với chủ nhà và những người có mặt
đứng ở xa quan sát. Mồ côi đến gặp 4 cô gái đang cấy ruộng ở gần bờ nhất nói:
- Bốn chị ơi, bà chủ nhà nói các chị lúc nãy ăn vụng rượu nếp cái của
bà, bà đang mắng nhiếc ở nhà.
Bốn cô nói:
- Chúng tao đâu làm xấu xa như thế, mày đừng nói bậy. Ban nãy chúng
tao ngồi chờ ở đấy có nhiều người cùng đến, nhiều người cùng đi với nhau,
không biết chuyện mất rượu nếp cái. Chúng tao không biết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
77
Mồ côi nói với cô gái ít tuổi nhất đám: - Mồm còn thơm rượu nếp cái,
sao bảo không ăn vụng?
Cô gái nói: - Lại ngửi đi
Mồ côi ngửi mồm xong nói: - Ờ thế mới minh bạch là không ăn vụng
rượu nếp cái chứ. Không thấy thơm.
Ba cô kia nói: - Ba chúng tao thì có mùi thơm rượu à? Lại ngửi xem.
Thằng Mồ côi ngửi má cả ba xong nói: - Thôi, bà chủ nhà đặt điều, nói
gian để tôi về nói cho bà ấy biết.
Các chức dịch cùng mọi người từ xa trông thấy chỉ biết Mồ côi hôn
được má 4 cô gái chứ không biết là Mồ côi chỉ ngửi má 4 cô gái thôi. Mồ côi
về đến nhà, chủ nhà giàu phải đưa cho Mồ côi một nén bạc.”[62].
Vịt cõng gà
qua phai
“Từ thuở nảo thuở nào xa xưa lắm, con
người đã biết đắp phai để lấy nước vào ruộng. Ruộng ở mái dốc phải tạo
thành ruộng bậc thang, suối cũng ở cao phải đắp đập ngang suối mới dẫn
được nước vào ruộng.
Năm ấy trời đang nắng bỗng nhiên tối sầm, mưa tuôn xuống như trời
đổ, trong nháy mắt nước dâng mênh mông. Con vật đi kiếm ăm xa muốn trở
về chuồng cũng chưa tính cách nào.
Con gà mọi khi gáy ò ó o… trên đồi, má đỏ bừng nay mặt xanh mặt tái
vì sợ không về chuồng được. Đàn gà con thì khóc chiếp chiếp. Vịt thấy phiền
lòng đến lân la hỏi:
- Nước dâng ngập trời, vịt muốn chìm cũng chẳng chìm cho, vịt sẽ cõng
gà qua phai về chuồng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
78
Gà vỗ cánh cười hô hố hỏi vịt:
- Vậy thì tốt quá nhưng nhà gà nghèo chưa nghĩ ra cách để trả được nợ này.
Vịt cười, cười đến chảy nước mắt, cười nhiều quá đến khan cả cổ (thế
nên giờ tiếng vịt mới khàn khàn), mới nói:
- Trời đất hỡi, ở đời việc gì cũng đòi “hòn đất ném qua, hòn chì ném
lại” làm sao nên, chỉ mong về sau cứ như ta vẫn nói “gà vịt chung sân, trâu
bò chung chuồng” là được rồi.
Trời sắp chạng vạng, vịt bảo gà hãy lên lưng mình, cõng gà về chuồng.
Đến nửa đêm, gà nghe đàn vịt lâu lâu cứ kêu pạt pạt. Sáng ra gà thấy
chuồng những trứng là trứng mới biết vịt đẻ trứng nửa đêm. Gà mới nghĩ “gà
ấp trứng hộ vịt để trả ơn”.
Từ đấy vịt chỉ biết đẻ trứng còn gà thì ấp hộ.
Khi ấy trời vẫn mưa, nước còn lên. Trên đồi trâu, bò ướt hết, trâu cứ
đứng lờ đờ bình tĩnh, nhưng bò cứ quật quật cái đuôi, nghi không có cách nào
về chuồng.
Trâu nói:
- Nào lại đây cùng về chuồng nhỉ?
Bò nói:
- Vẫn chưa nghĩ ra cách nào về
Trâu nói:
- Vịt cõng gà qua phai thì trâu cõng bò vượt nước chứ làm sao nữa.
Bò nói:
- Ờ ờ tốt quá nhỉ. Sau này lấy gì trả nợ được?
Trâu nói:
- Trời ơi, cái gì cũng cứ nói nợ nợ nần nần thì làm sao ở với nhau
được? Ta nhìn thấy vợ chồng loài người cho nhau nhiều thứ nhưng có thấy
đòi nợ bao giờ đâu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
79
Nói rồi, trâu bò ra cười, cười nắc nẻ, cười ngã sấp ngã ngửa đến nỗi
hàm răng trên dập phải đá rụng cả hàm thế nên giờ trâu chỉ còn một hàm
răng dưới.
Bò lên lưng trâu để trâu cõng qua nước về. Công con trâu to lắm, con
bò từ đấy trông thấy vũng đầm của trâu đầm, bò không bao giờ đầm, một mực
nhường cho trâu, ý là trả nợ ngày trước” [62].
Chó
chín đuôi, Chim đại bàng, Con trâu thù con chuột…
hang Bó Tình (xã Kim
"Ngày xưa trong một bản nọ có đôi trai gái yêu nhau tha
thiết. Họ đã ước nguyện với nhau sẽ thành vợ thành chồng. Nhưng vì nhà
chàng trai quá nghèo nên cha mẹ cô gái không đồng ý cho chàng chàng trai
lấy cô gái. Một ngày kia cha mẹ cô gái đã đồng ý gả cô cho một nhà giàu. Cả
chàng trai và cô gái đều rất đau khổ và họ quyết định cùng nhau chạy trốn.
Nhà cô gái phát hiện và đã cho người đuổi theo. Chàng trai và cô gái chạy
lên núi, chạy đến một cái hang thì cùng đường. Họ vào trong hang thấy một
cái giếng nhỏ và để được bên nhau mãi mãi, họ đã nắm tay nhau cùng nhảy
xuống giếng quyên sinh. Sau khi họ chết, Bụt thương tình biến họ thành một
đôi cá lúc nào cũng bơi song song với nhau. Từ đó cứ vào đêm trăng sáng
dân bản lên hang này thấy một đôi cá đẹp bơi dưới ánh trăng. Dân bản liền
đặt tên cho giếng là “giếng tình” và nhân thể gọi luôn tên hang này là hang
Bó Tình (hang giếng tình)”
danh ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
80
iên, con ng
nhau.
3.2.2. Ca dao, tục ngữ, câu đố
Ca dao: bào có các câu:
Làm nương phải ủ chà
Làm ruộng phải đều nước
Cấy lúa như bụi xả
Bông lúa to như vạy trâu, vạy bò
Hay câu:
Nghe đom đóm được ăn
Nghe ve sầu chết đói
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
81
Tháng ba gieo mạ
Tháng năm cấy ruộng
Tháng ba không ăn trứng kiến vì quá vụ
Tháng tư không ăn bánh mầm giềng vì hết mùa
Tục ngữ
Chết đất chôn
Sống đất nuôi
Dao sắc thích băm
Người chăm thích khiến
Người đần thích đùa
Muốn bữa bữa có cá
Bờ ao phải đắp đầy
Chăm việc làng
Nhác việc nhà
Trâu đực không chuồng
Trai lười không nhà
Ếch nhái kêu trời mưa
Diều hâu lượn cao trời nắng
Biết làm thì đủ
Biết co thì ấm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
82
Sấm mưa về tháng mười một không làm cũng được ăn
Sấm mưa về tháng mười hai làm ăn bấp bênh
Sấm mưa về tháng giêng làm ăn thuận đều
Sấm mưa về tháng hai được mùa không đều
Sấm mưa về tháng ba chết đói khiêng chôn trên ngàn
*Câu đố:
Đối:
Thứ gì ăn vào đầu năm
Thứ gì ăn vào tháng chin mùa gặt
Thứ gì ăn vào tháng ba mùa giáp hạt
Thứ gì ăn vào tháng chạp mùa đông
Thứ gì ăn cả lông cả vỏ không phải bóc
Thứ gì ăn ở bên ngoài bóc ở bên trong
Đáp:
Măng vầu ăn vào đầu năm
Quả quýt ăn vào tháng chin mùa gặt
Củ mài ăn vào mùa giáp hạt tháng ba
Quả cọ ăn vào tháng chạp mùa đông
Quả đào ăn cả lông không phải bóc
Mề gà ăn ở ngoài bóc ở trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
83
Đối:
Con gì gáy trước con gà
Thứ gì nhỏ hơn tóc
Thứ gì đắng hơn cây lá ngón
Thứ gì cong hơn sừng trâu
Thứ gì vằn như tổ ong
Thứ gì giống núm chài
Thứ gì dùng để che mưa
Thứ gì ở tận trên cao
Thứ gì mà che thiên hạ
Thứ gì dùng để nuôi con người
Thứ gì đánh thức mọi người dậy
Đáp:
Dế mèn gáy trước con gà vào buổi đêm
Rêu nhỏ hơn sợi sợi tóc
Mật cá đắng hơn lá ngón
Cạp rổ cong hơn sừng trâu
Quả mây vằn như tổ ong
Tổ nhện đan giống như núm chài
Mái nhà che mưa
Trời che thiên hạ
Hạt thóc, hạt gạo nuôi con người
Con gà gáy đánh thức mọi người đi làm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
84
Đối:
Sớm dậy thời mới thấy
Suốt ngày không đi nghỉ
Tối đến chả thấy đâu
(Là cái gì? - Mặt trời)
Các anh bên trên ngồi một chỗ
Vất vả cho bọn em ở dưới phải bước bộ đi đường
(Là cái gì ? - Hàm răng)
3.2.3. Thơ ca
3.2.3.1. Thơ ca đám cưới
hát Quan là
:
-
- .