Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế ở huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng từ năm 1986 đến năm 2016

9,266
306
124
13
tr ợng ước tính khong 380 triu m
3
đá vôi, 33 triệu m
3
si-líc và 360 triu m
3
sét.
Hiện trên địa bàn huyn Thy Nguyên có 36 đơn vị khai thác đá, gồm 7 HTX và 21
doanh nghiệp, năng lực khai thác, chế biến ước đạt 2.300 ngàn m
3
/năm. Tuy nhiên
ch có 12 t chức được cp phép khai thác vi tng công sut khai thác 1.050,5 ngàn
m
3
/ năm. Sản ợng khai thác đá vôi hàng năm trên địa bàn huyn Thy Nguyên giai
đoạn 2005 -2008 dao động t 2,2 đến 2,5 triu m
3
/năm [14].
Ngoài khoáng sn, huyn Thy Nguyên còn có ngun tài nguyên du lch. Quá
trình hoạt đng ca v Trái đất để lại trên địa bàn huyn Thu Nguyên nhiu hang
động k thú mà hin nay vn còn gi nguyên v hoang sơ ban đầu. Hu hết các hang
động đây đều có độ dài trên dưới 200m, trong đó, có một s hang động di tích
lch s như: Hang Lương, giáp Lưu Kiếm Gia Minh; hang Vua Minh
n. Đây là những hang còn ghi du chiến công oanh lit ca nhà Trn trong trn
thu chiến năm 1288 chống quân Nguyên trên sông Bạch Đằng. phía Bc ca
huyn còn mt s các hang động tập trung như: hang Vải, hang Ma, hang Sp,
hang Sơn, hang Đốc Tít, hang G,... s những điểm có th khai thác phc v du
lch, thu hút các du khách.Cnh quan sinh thái: huyn Thu Nguyên khá nhiu
cảnh quan đẹp, trong đó phải k đến h sông Giá, sông Hòn Ngc.
Vi li thế ven bin, Thy Nguyên còn tiềm năng tài nguyên bin - vi ngư
trưng khai thác chính là Vnh Bc B, huyn Thy Nguyên nói riêng và thành ph
Hi Phòng nói chung tim năng lớn v tài nguyên bin. V bản, vùng bin
Thủy Nguyên có chung đặc điểm với đặc điểm ca vùng bin Hi Phòng: bin nông,
đáy bin thp và khá bng phng, ch yếu là cát bùn do 5 cửa sông chính đổ ra bin.
Thy Nguyên tiếp giáp bin qua hai ca bin Nam Triu và ca Cm.Vùng bin Hi
Phòng là mt trong nhng khu vực có tính đa dạng sinh hc cao. Nhng nghiên cu
gần đây đã thống kê đưc 124 loài cá bin thuc 89 ging nm trong 56 h phân b
vùng bin Hi Phòng. Các h phong phú v s ng loài là cá Khế (Carangidae) vi
9 loài; h cá Lit (Leiognathidae) vi 8 loài; h cá đù (Sciaenidae) đã bắt gp 7 loài;
h cá bàng chài (Labridae) bt gp 6 loài và h cá bng (Gobiidae) bt gp 5 loài.
15 h s ng loài t 2 đến 4 loài. Trong các năm 2003 2004, Đỗ Văn
Khương nhóm nghiên cứu đã khảo sát thành phn loài hi sn vùng bin Hi
13 trữ lượng ước tính khoảng 380 triệu m 3 đá vôi, 33 triệu m 3 si-líc và 360 triệu m 3 sét. Hiện trên địa bàn huyện Thủy Nguyên có 36 đơn vị khai thác đá, gồm 7 HTX và 21 doanh nghiệp, năng lực khai thác, chế biến ước đạt 2.300 ngàn m 3 /năm. Tuy nhiên chỉ có 12 tổ chức được cấp phép khai thác với tổng công suất khai thác 1.050,5 ngàn m 3 / năm. Sản lượng khai thác đá vôi hàng năm trên địa bàn huyện Thủy Nguyên giai đoạn 2005 -2008 dao động từ 2,2 đến 2,5 triệu m 3 /năm [14]. Ngoài khoáng sản, huyện Thủy Nguyên còn có nguồn tài nguyên du lịch. Quá trình hoạt động của vỏ Trái đất để lại trên địa bàn huyện Thuỷ Nguyên nhiều hang động kỳ thú mà hiện nay vẫn còn giữ nguyên vẻ hoang sơ ban đầu. Hầu hết các hang động ở đây đều có độ dài trên dưới 200m, trong đó, có một số hang động là di tích lịch sử như: Hang Lương, ở giáp xã Lưu Kiếm và Gia Minh; hang Vua ở xã Minh Tân. Đây là những hang còn ghi dấu chiến công oanh liệt của nhà Trần trong trận thuỷ chiến năm 1288 chống quân Nguyên trên sông Bạch Đằng. Ở phía Bắc của huyện còn có một số các hang động tập trung như: hang Vải, hang Ma, hang Sộp, hang Sơn, hang Đốc Tít, hang Gỗ,... sẽ là những điểm có thể khai thác phục vụ du lịch, thu hút các du khách.Cảnh quan sinh thái: huyện Thuỷ Nguyên có khá nhiều cảnh quan đẹp, trong đó phải kể đến hồ sông Giá, sông Hòn Ngọc. Với lợi thế ven biển, Thủy Nguyên còn tiềm năng tài nguyên biển - với ngư trường khai thác chính là Vịnh Bắc Bộ, huyện Thủy Nguyên nói riêng và thành phố Hải Phòng nói chung có tiềm năng lớn về tài nguyên biển. Về cơ bản, vùng biển Thủy Nguyên có chung đặc điểm với đặc điểm của vùng biển Hải Phòng: biển nông, đáy biển thấp và khá bằng phẳng, chủ yếu là cát bùn do 5 cửa sông chính đổ ra biển. Thủy Nguyên tiếp giáp biển qua hai cửa biển Nam Triệu và cửa Cấm.Vùng biển Hải Phòng là một trong những khu vực có tính đa dạng sinh học cao. Những nghiên cứu gần đây đã thống kê được 124 loài cá biển thuộc 89 giống nằm trong 56 họ phân bố ở vùng biển Hải Phòng. Các họ phong phú về số lượng loài là cá Khế (Carangidae) với 9 loài; họ cá Liệt (Leiognathidae) với 8 loài; họ cá đù (Sciaenidae) đã bắt gặp 7 loài; họ cá bàng chài (Labridae) bắt gặp 6 loài và họ cá bống (Gobiidae) bắt gặp 5 loài. Có 15 họ có số lượng loài từ 2 đến 4 loài. Trong các năm 2003 và 2004, Đỗ Văn Khương và nhóm nghiên cứu đã khảo sát thành phần loài hải sản ở vùng biển Hải
14
Phòng đã xác định được 215 loài nhóm loài hi sn thuc 72 h khác
nhau.Trong đó có 173 loài cá, 26 loài giáp xác, 14 loài động vt thân mm và 2 loài
sam bin. Cá rn san hô chiếm ưu thế vi 79 loài thuc 58 ging nm trong 37 h
khác nhau. Các h bin bt gp nhiu khế, bng, hng, phèn,
ợng, cá chai, cá đù, cá mối và cá trích. Ngoài ra còn có mt s đối tượng có giá tr
kinh tế cao như tôm he, mực nang, mc ống cua bơi. Nguồn li hi sn vùng
bin Hải Phòng mang đặc điểm ngun li hi sn vnh Bc B, vi thành phn loài
phong phú và không có loài hoc nhóm loài chiếm ưu thế tuyệt đối trong thành phn
sản lượng khai thác [5, tr .10].
1.2. Dân cư và nguồn lao động
Thủy Nguyên là vùng đất có đồng bằng, đồi, núi, sông, bin được hình thành
sm nên sut chiu dài lch s, t thi tin s đến thi hiện đại, luôn là điểm t
của người dân các nơi đến sinh cơ lập nghip. Lớp cư dân gốc (Ngưi Vit cổ) đưc
phn ánh khá rõ trong các di tích kho c Tràng Kênh, Vit Khê. Di ch Tràng Kênh
(Minh Đức) thuộc văn hóa Phùng Nguyên với niên đại cách nay khoảng 3.400 năm
và di ch Vit Khê (Phù Ninh) thuộc văn hóa Đông Sơn có niên đại cách nay khong
2.400 năm. Kết qu khai qut các di ch kho c đã khẳng định “Con người Thy
Nguyên đã cùng sinh trưởng, tn ti và phát trin với con người khp mi min ca
đất nước và dng lên Nhà nước Văn Lang của Vua Hùng” [31]. Như vậy, cho đến
đầu công nguyên, Thy Nguyên 2 lớp người Tràng Kênh Vit Khê kế tiếp
nhau sinh sng. Cùng với cư dân Cái Bèo (Cát Bà) và Núi Voi (An Lão) là nhng lp
người bản địa và c nht Hi Phòng. Khi đồng bng dn dần được hình thành, người
dân bản địa và dân cư các nơi khác di cư đến đã tiến hành khai phá và m rộng địa
bàn trú. Trong quá trình tn ti phát triển, dân Thủy Nguyên đã kiến to
được mt nền văn hóa vừa mang bn sc chung của cư dân văn hóa nông nghip song
có những nét riêng đặc sc của cư dân vùng ven biển. Theo kho c hc và các di ch
còn li Bo Tàng Hi Phòng, thì t xa xưa, cư dân Vit c thuc di ch Tràng Kênh
(Việt Khê) đã biết th hiện tư duy nghệ thut của mình trên đồ gm, đồ đồng đồ
trang sc bằng đá. Họ biết định cư ở các hang động núi đá vôi, họ biết khai thác các
ngun li t nhiên như sông, biển...
14 Phòng và đã xác định được 215 loài và nhóm loài hải sản thuộc 72 họ khác nhau.Trong đó có 173 loài cá, 26 loài giáp xác, 14 loài động vật thân mềm và 2 loài sam biển. Cá rạn san hô chiếm ưu thế với 79 loài thuộc 58 giống nằm trong 37 họ cá khác nhau. Các họ cá biển bắt gặp nhiều là cá khế, cá bống, cá hồng, cá phèn, cá lượng, cá chai, cá đù, cá mối và cá trích. Ngoài ra còn có một số đối tượng có giá trị kinh tế cao như tôm he, mực nang, mực ống và cua bơi. Nguồn lợi hải sản ở vùng biển Hải Phòng mang đặc điểm nguồn lợi hải sản vịnh Bắc Bộ, với thành phần loài phong phú và không có loài hoặc nhóm loài chiếm ưu thế tuyệt đối trong thành phần sản lượng khai thác [5, tr .10]. 1.2. Dân cư và nguồn lao động Thủy Nguyên là vùng đất có đồng bằng, đồi, núi, sông, biển được hình thành sớm nên suốt chiều dài lịch sử, từ thời tiền sử đến thời hiện đại, luôn là điểm tụ cư của người dân các nơi đến sinh cơ lập nghiệp. Lớp cư dân gốc (Người Việt cổ) được phản ánh khá rõ trong các di tích khảo cổ Tràng Kênh, Việt Khê. Di chỉ Tràng Kênh (Minh Đức) thuộc văn hóa Phùng Nguyên với niên đại cách nay khoảng 3.400 năm và di chỉ Việt Khê (Phù Ninh) thuộc văn hóa Đông Sơn có niên đại cách nay khoảng 2.400 năm. Kết quả khai quật các di chỉ khảo cổ đã khẳng định “Con người Thủy Nguyên đã cùng sinh trưởng, tồn tại và phát triển với con người khắp mọi miền của đất nước và dựng lên Nhà nước Văn Lang của Vua Hùng” [31]. Như vậy, cho đến đầu công nguyên, ở Thủy Nguyên có 2 lớp người Tràng Kênh và Việt Khê kế tiếp nhau sinh sống. Cùng với cư dân Cái Bèo (Cát Bà) và Núi Voi (An Lão) là những lớp người bản địa và cổ nhất Hải Phòng. Khi đồng bằng dần dần được hình thành, người dân bản địa và dân cư ở các nơi khác di cư đến đã tiến hành khai phá và mở rộng địa bàn cư trú. Trong quá trình tồn tại và phát triển, cư dân Thủy Nguyên đã kiến tạo được một nền văn hóa vừa mang bản sắc chung của cư dân văn hóa nông nghiệp song có những nét riêng đặc sắc của cư dân vùng ven biển. Theo khảo cổ học và các di chỉ còn lại ở Bảo Tàng Hải Phòng, thì từ xa xưa, cư dân Việt cổ thuộc di chỉ Tràng Kênh (Việt Khê) đã biết thể hiện tư duy nghệ thuật của mình trên đồ gốm, đồ đồng và đồ trang sức bằng đá. Họ biết định cư ở các hang động núi đá vôi, họ biết khai thác các nguồn lợi tự nhiên như sông, biển...
15
i chế độ phong kiến, Thủy Nguyên vùng đất được các triều đại thc
hiện chính sách di dân đến để khai hoang, ln bin, to lực lượng để bo v vùng
phên du của đất nước.dân Thủy Nguyên hin nay có ngun gc t nhiu tnh,
min trong nước như: Lạng Sơn, Phú Thọ, Sơn Tây, Bắc Ninh, Bc Giang, Hà Ni,
Hi Dương, Thái Bình, Nam Định, Quảng Ninh…Tuy thành phần dân đa dạng,
song cộng đồng dân cư Thủy Nguyên luôn nêu cao tinh thần đoàn kết để xây dng và
phát trin Thy Nguyên ngày càng giàu đẹp, văn minh. V đời sng của cư dân huyện
Thủy Nguyên xưa, sách Lịch triu Hiến chương loại chí ghi: “Dân ven sông bin
phn ln làm ngh nu muối, đánh cá; dân ven chân núi phn nhiều săn bắn và đốt
than”. [31]. Sách Đồng Khánh dư địa chí mô tả: “Đàn ông thì cày ruộng, đàn bà thì
dt vải, siêng năng công việc làm ăn, ăn mặc thì tiết kim, gin d. S người làm th
và đi buôn cũng có nhưng không nhiều.” [31].
Thi cn hiện đại, là địa bàn k sát đô thị - cng bin Hải Phòng, đầu mi giao
thông nối đồng bng sông Hng vi vùng m, ni thành ph cng vi vùng trung du,
min núi phía Bc, Thy Nguyên tiếp tc tr thành điểm đến ca nhiều người. Thy
Nguyên hình thành các khu công nghiệp, đô thị, thu hút lực lượng lao động đông đảo.
Mt b phn không nh trong s đó cũng đã chn Thủy Nguyên là quê hương mới.
Ngay t ri rng núi xung dng bng ven bin, với vùng đất đầy tiềm năng đã sớm
dẫn đến việc phân công lao động trong ni b dân cư. bộ phận dân chuyên
trng trọt, chăn nuôi, có bộ phn đánh cá, khai thác đá làm đồ m ngh, vt liu xây
dng, ngh th công đan thuyền nan, đóng thuyền gỗ, đan lát đồ đánh bắt bt thy
sn. Khi kinh tế phát trin, do nm trên các dòng sông ln, các ch hình thành (M
Giang, ch Sưa, chợ Tng, Trnh Xá) dẫn đến mt b phận dân cư làm thương mại.
Sống trên vùng đất có ưu thế “mở” giao lưu đa dng ca thiên nhiên, nên
người Thủy Nguyên cũng kiếm sng bng nhiu ngh như trồng trọt, đi biển, buôn
bán, làm gốm, đúc, rèn, khai thác đá… h nhiu tp tục đẹp v tín ngưỡng, tôn
giáo và văn nghệ dân gian của người Vit c như có tín ngưỡng sùng bái t nhiên, tc
th cúng t tiên, th các anh hùng dân tộc. Ngoài ra cư dân còn biết tiếp thu nhng
nét văn hóa từ bên ngoài như đạo phật, đạo thiên chúa…
15 Dưới chế độ phong kiến, Thủy Nguyên là vùng đất được các triều đại thực hiện chính sách di dân đến để khai hoang, lấn biển, tạo lực lượng để bảo vệ vùng phên dậu của đất nước.Cư dân Thủy Nguyên hiện nay có nguồn gốc từ nhiều tỉnh, miền trong nước như: Lạng Sơn, Phú Thọ, Sơn Tây, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nội, Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, Quảng Ninh…Tuy thành phần dân cư đa dạng, song cộng đồng dân cư Thủy Nguyên luôn nêu cao tinh thần đoàn kết để xây dựng và phát triển Thủy Nguyên ngày càng giàu đẹp, văn minh. Về đời sống của cư dân huyện Thủy Nguyên xưa, sách Lịch triều Hiến chương loại chí ghi: “Dân ở ven sông biển phần lớn làm nghề nấu muối, đánh cá; dân ở ven chân núi phần nhiều săn bắn và đốt than”. [31]. Sách Đồng Khánh dư địa chí mô tả: “Đàn ông thì cày ruộng, đàn bà thì dệt vải, siêng năng công việc làm ăn, ăn mặc thì tiết kiệm, giản dị. Số người làm thợ và đi buôn cũng có nhưng không nhiều.” [31]. Thời cận hiện đại, là địa bàn kề sát đô thị - cảng biển Hải Phòng, đầu mối giao thông nối đồng bằng sông Hồng với vùng mỏ, nối thành phố cảng với vùng trung du, miền núi phía Bắc, Thủy Nguyên tiếp tục trở thành điểm đến của nhiều người. Thủy Nguyên hình thành các khu công nghiệp, đô thị, thu hút lực lượng lao động đông đảo. Một bộ phận không nhỏ trong số đó cũng đã chọn Thủy Nguyên là quê hương mới. Ngay từ rời rừng núi xuống dồng bằng ven biển, với vùng đất đầy tiềm năng đã sớm dẫn đến việc phân công lao động trong nội bộ dân cư. Có bộ phận dân cư chuyên trồng trọt, chăn nuôi, có bộ phận đánh cá, khai thác đá làm đồ mỹ nghệ, vật liệu xây dựng, nghề thủ công đan thuyền nan, đóng thuyền gỗ, đan lát đồ đánh bắt bắt thủy sản. Khi kinh tế phát triển, do nằm trên các dòng sông lớn, các chợ hình thành (Mỹ Giang, chợ Sưa, chợ Tổng, Trịnh Xá) dẫn đến một bộ phận dân cư làm thương mại. Sống trên vùng đất có ưu thế “mở” giao lưu và đa dạng của thiên nhiên, nên người Thủy Nguyên cũng kiếm sống bằng nhiều nghề như trồng trọt, đi biển, buôn bán, làm gốm, đúc, rèn, khai thác đá… họ có nhiều tập tục đẹp về tín ngưỡng, tôn giáo và văn nghệ dân gian của người Việt cổ như có tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tục thờ cúng tổ tiên, thờ các anh hùng dân tộc. Ngoài ra cư dân còn biết tiếp thu những nét văn hóa từ bên ngoài như đạo phật, đạo thiên chúa…
16
Dân cư của Thu Nguyên là mt cộng đồng gồm dân địa phương và dân từ nơi
khác di cư đến sinh sng đây được din ra t rt sớm, nên dân cư Thy Nguyên
phong phú, đa dạng, nhiu thành phn, hình thành nên tính cách con người Thy
Nguyên rất riêng Mnh bo, thng thn, kiên ngh kh năng ứng x nhy bén,
chu khó tu luyn trong ngh nghip, hc hành”. Khi kinh tế Thủy Nguyên có bước
tăng trưởng, cùng vi chuyn dịch cơ cấu kinh tế là dân cư tăng. Dân s trung bình
Thy Nguyên đã tăng liên tục t 283.289 người (năm 2000) lên 299.752 người (năm
2006). Mật độ dân s đt khoảng 1235 ngưi/km
2
, t l dân s t nhiên 0,95%. Theo
báo cáo điều tra dân s năm 2005 thì dân số ca huyn Thy Nguyên 294.401
người. Dân s ca Thu Nguyên phân b không đều, th trấn Núi Đèo là nơi có mật
độ dân s cao nht ca huyn 3765 người/km2, Gia Minh là xã có mật độ dân s thp
nhất 371 người/km2. Cơ cấu dân s theo lãnh th, th trn 5,2%, nông thôn 94,8%. T
lên dân s lao động đang làm việc ti các ngành kinh tế trong đó lao động nông
nghip chiếm 78%, lao động công nghip và xây dựng là 11,8% lao động trong
ngành dch v là 10,2%. Thu nhp bình quân tháng của người lao động đạt mc khá
750.000 đ/tháng (năm 2005) [18].
Thy Nguyên không ch vùng đất “địa linh còn cái nôi ca nhiu
nhiều “nhân kiệt”, nhân dân truyền thng hiếu hc, thông minh. Theo thng
thi phong kiến c huyn có 18 v đỗ đạt làm quan, tiêu biểu như Lê Ích Mộc. Ngày
nay trong nhân dân cũng có nhiều người đỗ đạt cao, có hc hàm hc v trong nghiên
cu khoa hc, các cp bậc cao trong các lĩnh vực. Như vậy chất lượng lao động
Thy Nguyên không ch kế tha truyn thng của cha ông như cần cù sáng to, tinh
thn t lc t ng trong sn xut và phát trin kinh tế mà còn được phát trin trong
điều kin mi. Cht lượng lao động ch yếu Thy Nguyên những năm trước đây.(t
năm 1986 đến năm 2000) là lao động ph thông, s lao động được đào tạo chiếm 18 -
20% s lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế, trong đó các ngành công
nghip truyn thống đúc đồng, gang, khai thác đá… khá phát triển đang từng bước
vươn lên đạt trình đ cao ca quc gia và quc tế. Trong những năm gần đây (t năm
2000 đến năm 2016) Thu Nguyên đã thực hin tt công tác dân s kế hoch hoá gia
đình, tỷ l tăng tự nhiên đã gim mnh t 1,15% năm 2000 xung còn 0,79% vào
16 Dân cư của Thuỷ Nguyên là một cộng đồng gồm dân địa phương và dân từ nơi khác di cư đến sinh sống ở đây được diễn ra từ rất sớm, nên dân cư Thủy Nguyên phong phú, đa dạng, nhiều thành phần, hình thành nên tính cách con người Thủy Nguyên rất riêng “Mạnh bạo, thẳng thắn, kiên nghị có khả năng ứng xử nhạy bén, chịu khó tu luyện trong nghề nghiệp, học hành”. Khi kinh tế Thủy Nguyên có bước tăng trưởng, cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế là dân cư tăng. Dân số trung bình Thủy Nguyên đã tăng liên tục từ 283.289 người (năm 2000) lên 299.752 người (năm 2006). Mật độ dân số đạt khoảng 1235 người/km 2 , tỷ lệ dân số tự nhiên 0,95%. Theo báo cáo điều tra dân số năm 2005 thì dân số của huyện Thủy Nguyên là 294.401 người. Dân số của Thuỷ Nguyên phân bố không đều, thị trấn Núi Đèo là nơi có mật độ dân số cao nhất của huyện 3765 người/km2, Gia Minh là xã có mật độ dân số thấp nhất 371 người/km2. Cơ cấu dân số theo lãnh thổ, thị trấn 5,2%, nông thôn 94,8%. Tỷ lên dân số lao động đang làm việc tại các ngành kinh tế trong đó lao động nông nghiệp chiếm 78%, lao động công nghiệp và xây dựng là 11,8% và lao động trong ngành dịch vụ là 10,2%. Thu nhập bình quân tháng của người lao động đạt ở mức khá 750.000 đ/tháng (năm 2005) [18]. Thủy Nguyên không chỉ là vùng đất “địa linh “mà còn là cái nôi của nhiều nhiều “nhân kiệt”, nhân dân có truyền thống hiếu học, thông minh. Theo thống kê thời phong kiến cả huyện có 18 vị đỗ đạt làm quan, tiêu biểu như Lê Ích Mộc. Ngày nay trong nhân dân cũng có nhiều người đỗ đạt cao, có học hàm học vị trong nghiên cứu khoa học, các cấp bậc cao trong các lĩnh vực. Như vậy chất lượng lao động ở Thủy Nguyên không chỉ kế thừa truyền thống của cha ông như cần cù sáng tạo, tinh thần tự lực tự cường trong sản xuất và phát triển kinh tế mà còn được phát triển trong điều kiện mới. Chất lượng lao động chủ yếu ở Thủy Nguyên những năm trước đây.(từ năm 1986 đến năm 2000) là lao động phổ thông, số lao động được đào tạo chiếm 18 - 20% số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế, trong đó các ngành công nghiệp truyền thống đúc đồng, gang, khai thác đá… khá phát triển đang từng bước vươn lên đạt trình độ cao của quốc gia và quốc tế. Trong những năm gần đây (từ năm 2000 đến năm 2016) Thuỷ Nguyên đã thực hiện tốt công tác dân số kế hoạch hoá gia đình, tỷ lệ tăng tự nhiên đã giảm mạnh từ 1,15% ở năm 2000 xuống còn 0,79% vào
17
năm 2005 [5, tr 45]. Hin nay trên toàn huyện đã phổ cp tiu hc và trung học cơ sở.
Các bin pháp nhm nâng cao dân trí đã được các cấp, các ngành, các đoàn thể quan
tâm và phát trin mnh m.Trình độ dân trí được nâng lên, trình độ ca lực lượng lao
động cũng có những bước tiến vượt bậc. Lao động có trình độ (t bc THPT tr lên
đến Đại hc) chiếm 57,8% s người lao động trong các ngành kinh tế, chính tr [5, tr. 98].
Nguồn lao động có trình độ là nguồn lao động chất lượng cũng góp phần không nh
cho s thu hút ngun vốn đầu bên ngoài vào các khu công nghiệp trên địa bàn
huyn. Theo kết qu Tổng điều tra v lực lượng lao động trên địa bàn Thy Nguyên
trong 7 ngày có 171.364 người t 15 tui tr lên đang làm việc chiếm t l 72,39%
trong tng dân s t 15 tui tr lên, trong đó: Lao động ngành nông nghip chiếm t
l cao nht (43,72%), tiếp đến là các ngành công nghiệp (20,33%) và thương nghiệp
(11,89%). Có 10.016 người tình trng tht nghiệp, trong đó, chiếm nhiu nhất là đ
tui t 20 đến 24 tui, ch yếu là sinh viên, hc sinh mới ra trường chưa có việc làm.
Cũng theo kết qu Tổng điều tra, tng s 54.461 người không hoạt động kinh tế
trong 7 ngày, trong đó, số người đang đi học 24.956 người (chiếm 44,2% trong
tng s người không làm vic trong 7 ngày), tp trung nhiều vào độ tui 15-19, là độ
tui ca hc sinh ph thông [18].
Bảng 1.1: Dân số huyện Thuỷ Nguyên những năm 1998 - 2005
Ch tiêu
(Đơn vị: người)
1998
S ng
2000
S ng
2005
S ng
Tng dân s
Trong đó: - Nam
- N
282.520 100
139.282 49,3
143.238 50,7
283.289 100
140.320 49,2
143.969 50,8
294.401 100
144.612 49,1
149.789 50,9
2.T l tăng dân s t nhiên
1.15 0.92 0.79
1.12 0.82 0.76
1.05 0.82 0.71
3.Cơ cấu dân s theo lãnh th
- Thành th
- Nông thôn
14.126 5
268.394 95
14.667 5,0
278.668 95,0
15.179 5,2
279.222 94,8
(Ngun:[9], [10], [11])
Trong những năm từ 1998 đến 2005, khong cách chênh lch gii tính nam-
n huyn là không nhiu, t l tăng dân số t nhiên gim dần theo năm, t l dân
s thành th so vi tng dân s trung bình ca huyn hầu như ít thay đổi qua tng
17 năm 2005 [5, tr 45]. Hiện nay trên toàn huyện đã phổ cập tiểu học và trung học cơ sở. Các biện pháp nhằm nâng cao dân trí đã được các cấp, các ngành, các đoàn thể quan tâm và phát triển mạnh mẽ.Trình độ dân trí được nâng lên, trình độ của lực lượng lao động cũng có những bước tiến vượt bậc. Lao động có trình độ (từ bậc THPT trở lên đến Đại học) chiếm 57,8% số người lao động trong các ngành kinh tế, chính trị [5, tr. 98]. Nguồn lao động có trình độ là nguồn lao động chất lượng cũng góp phần không nhỏ cho sự thu hút nguồn vốn đầu tư bên ngoài vào các khu công nghiệp trên địa bàn huyện. Theo kết quả Tổng điều tra về lực lượng lao động trên địa bàn Thủy Nguyên trong 7 ngày có 171.364 người từ 15 tuổi trở lên đang làm việc chiếm tỷ lệ 72,39% trong tổng dân số từ 15 tuổi trở lên, trong đó: Lao động ngành nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất (43,72%), tiếp đến là các ngành công nghiệp (20,33%) và thương nghiệp (11,89%). Có 10.016 người tình trạng thất nghiệp, trong đó, chiếm nhiều nhất là độ tuổi từ 20 đến 24 tuổi, chủ yếu là sinh viên, học sinh mới ra trường chưa có việc làm. Cũng theo kết quả Tổng điều tra, có tổng số 54.461 người không hoạt động kinh tế trong 7 ngày, trong đó, số người đang đi học là 24.956 người (chiếm 44,2% trong tổng số người không làm việc trong 7 ngày), tập trung nhiều vào độ tuổi 15-19, là độ tuổi của học sinh phổ thông [18]. Bảng 1.1: Dân số huyện Thuỷ Nguyên những năm 1998 - 2005 Chỉ tiêu (Đơn vị: người) 1998 Số lượng 2000 Số lượng 2005 Số lượng Tổng dân số Trong đó: - Nam - Nữ 282.520 100 139.282 49,3 143.238 50,7 283.289 100 140.320 49,2 143.969 50,8 294.401 100 144.612 49,1 149.789 50,9 2.Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1.15 0.92 0.79 1.12 0.82 0.76 1.05 0.82 0.71 3.Cơ cấu dân số theo lãnh thổ - Thành thị - Nông thôn 14.126 5 268.394 95 14.667 5,0 278.668 95,0 15.179 5,2 279.222 94,8 (Nguồn:[9], [10], [11]) Trong những năm từ 1998 đến 2005, khoảng cách chênh lệch giới tính nam- nữ ở huyện là không nhiều, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm dần theo năm, tỷ lệ dân số thành thị so với tổng dân số trung bình của huyện hầu như ít thay đổi qua từng
18
năm (chỉ dao động trong khong 5,0 - 6,0%). Đây là chỉ tiêu phản ánh trình độ đô thị
hoá ca huyn còn mc thp so với các nơi khác của vùng đồng bng sông Hng,
mc dù Thu Nguyên là huyện có điều kiện để đô thị hoá. S nhân khẩu trong độ tui
lao động ca huyn đến năm 2005 là 148.966 người (chiếm 50,6%) dân số. Trong đó
s lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế ca huyện là: 120.016 người
chiếm 41% dân s. Những năm trước đây lao động ca huyn ch yếu tham gia sn
xut nông nghip chiếm 78% so vi s lao động đang làm việc trong các ngành kinh
tế. Nhưng hiện nay chuyn dịch sang lao động làm vic các khu công nghip ca
huyn chiếm 48% s lao động ca huyn
Bảng 1.2: Cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế các m 1998 – 2005
Đơn vị: Ngưi
Các ngành
kinh tế
1998
2000
2005
S ng
T l
S ng
T l
S ng
T l
- Nông -
lâm - ngư
10086087
88,7%
94600843
81,7%
93619780
78%
- Công
nghip -
xây dng
8295474
7,3%
9899177
8,6%
14171 118
11,8%
- Dch v
4.5637 56
4%
11230080
9,7%
12225202
10,2%
Tng s
113710100
100%
11573010
0
100%
120016
100
100%
(Ngun: [9], [10], [11])
Cùng vi s gia tăng dân số, lượng lao động s ngày càng tăng. Trong nhng
năm 2000 - 2005, Thu Nguyên đã thực hiện chương trình giải quyết vic làm cho
người lao động, bình quân hàng năm huyện đã tạo được 9000 - 10.000 ch làm vic
mới cho người lao động. Trong cơ cấu lao động theo các ngành sn xut, ta thy s
ợng lao động nông nghip chiếm t trng ln (78% năm 2005), thể hin s
chuyn dịch cấu kinh tế ca huyn còn chưa mạnh, mức độ phát triển đô thị còn
hn chế trong những năm qua. Nhưng từ 2006 đến năm 2016 do s chuyn dịch
18 năm (chỉ dao động trong khoảng 5,0 - 6,0%). Đây là chỉ tiêu phản ánh trình độ đô thị hoá của huyện còn ở mức thấp so với các nơi khác của vùng đồng bằng sông Hồng, mặc dù Thuỷ Nguyên là huyện có điều kiện để đô thị hoá. Số nhân khẩu trong độ tuổi lao động của huyện đến năm 2005 là 148.966 người (chiếm 50,6%) dân số. Trong đó số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế của huyện là: 120.016 người chiếm 41% dân số. Những năm trước đây lao động của huyện chủ yếu tham gia sản xuất nông nghiệp chiếm 78% so với số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế. Nhưng hiện nay chuyển dịch sang lao động làm việc ở các khu công nghiệp của huyện chiếm 48% số lao động của huyện Bảng 1.2: Cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế các năm 1998 – 2005 Đơn vị: Người Các ngành kinh tế 1998 2000 2005 Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ - Nông - lâm - ngư 10086087 88,7% 94600843 81,7% 93619780 78% - Công nghiệp - xây dựng 8295474 7,3% 9899177 8,6% 14171 118 11,8% - Dịch vụ 4.5637 56 4% 11230080 9,7% 12225202 10,2% Tổng số 113710100 100% 11573010 0 100% 120016 100 100% (Nguồn: [9], [10], [11]) Cùng với sự gia tăng dân số, lượng lao động sẽ ngày càng tăng. Trong những năm 2000 - 2005, Thuỷ Nguyên đã thực hiện chương trình giải quyết việc làm cho người lao động, bình quân hàng năm huyện đã tạo được 9000 - 10.000 chỗ làm việc mới cho người lao động. Trong cơ cấu lao động theo các ngành sản xuất, ta thấy số lượng lao động nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn (78% năm 2005), nó thể hiện sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện còn chưa mạnh, mức độ phát triển đô thị còn hạn chế trong những năm qua. Nhưng từ 2006 đến năm 2016 do sự chuyển dịch cơ
19
cu kinh tế, vic hình thành các khu công nghiệp trên địa bàn huyện đã thu hút lượng
lao động ln vào làm việc, đẩy mnh tốc độ đô thị hóa và tăng ngun thu nhp ca
người lao động huyn Thy Nguyên. Vấn đề gii quyết vic làm cho nhân dân trên
địa bàn huyện bước đầu được thc hin, có nhng thành tựu đáng kể. Kết qu Tng
điều tra cũng cho thấy trong tng s lao động vic làm thì 0,61% nhng
người lãnh đạo các cấp đơn vị; 6,76% các nhà chuyên môn bc cao bc
trung, nhân viên dch vbán hàng chiếm t trọng tương đối ln (14,26%) lao
động th công (16,03%). Lao đng giản đơn số ợng đông nhất (38,02%), tp
trung ch yếu trình độ chưa qua đào tạo chuyên môn k thuật trung bình và cao đang
được đặt ra hết sc cp bách. Trình độ chuyên môn được đào tạo của lao động trong
các đơn vị kinh tế, hành chính s nghip Trong lực lượng lao động của các cơ s kinh
tế, hành chính, s nghip ca huyện, lao động chưa qua đào tạo chiếm t l
33,48%, so vi c nước là 35,7%. S lao động đã được đào tạo nhưng chưa có chứng
ch là 17,07%, trình độ sơ cp chiếm 10,09%, trình độ trung cấp 19,78%, cao đẳng là
5,05%, trình độ đại hc chiếm t l 12,83%, trên đại hc chiếm 0,23%. T l lao
động được đào tạo t đại hc tr lên trong nhng ngành du lch cao hơn so với ngành
sn xut [12].
Điu này th hin rõ nht trong khu vc hành chính, s nghip: T l lao động
có trình độ đại học là 46,12%, trên đi hc là 1,07%, phn ln tp trung ngành hot
động chuyên môn khoa hc công ngh, dch v hành chính h tr, hoạt động
của Đảng Cng sn, t chc chính tr xã hi, giáo dc - đào tạo, ngh thut, gii trí...
Đối vi khu vc sn xut, t l đại hc trong các doanh nghiệp 11,09%, trên đại
hc là 0,12%, khu vc cá th trình độ đại hc ch chiếm 1,25%, trên đại hc là 0,09%.
Trong khi đó, ngành công nghiệp chế biến, chế to là ngành cần đội ngũ lao động có
trình độ đào tạo cao thì ch7,14% s lao động có trình độ t đại hc tr lên và có
ti 28,65% s lao động chưa qua đào to hoặc đã qua đào tạo nhưng không được cp
chng ch [12]. Điều này đã phần nào gii sn phm hàng hóa sn xut chưa
tính cnh tranh cao trong khu vực và chưa đáp ứng nhu cầu lao động có trình độ cao
cho s nghip công nghip hóa, hiện đại hóa. Trong các cơ sở sn xut kinh doanh cá
th, t l lao động chưa được đào tạo còn khá cao, chiếm 62,34% tng s lao động
19 cấu kinh tế, việc hình thành các khu công nghiệp trên địa bàn huyện đã thu hút lượng lao động lớn vào làm việc, đẩy mạnh tốc độ đô thị hóa và tăng nguồn thu nhập của người lao động huyện Thủy Nguyên. Vấn đề giải quyết việc làm cho nhân dân trên địa bàn huyện bước đầu được thực hiện, có những thành tựu đáng kể. Kết quả Tổng điều tra cũng cho thấy trong tổng số lao động có việc làm thì có 0,61% là những người lãnh đạo các cấp và đơn vị; 6,76% là các nhà chuyên môn bậc cao và bậc trung, nhân viên dịch vụ và bán hàng chiếm tỷ trọng tương đối lớn (14,26%) và lao động thủ công (16,03%). Lao động giản đơn có số lượng đông nhất (38,02%), tập trung chủ yếu trình độ chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật trung bình và cao đang được đặt ra hết sức cấp bách. Trình độ chuyên môn được đào tạo của lao động trong các đơn vị kinh tế, hành chính sự nghiệp Trong lực lượng lao động của các cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp của huyện, lao động chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ là 33,48%, so với cả nước là 35,7%. Số lao động đã được đào tạo nhưng chưa có chứng chỉ là 17,07%, trình độ sơ cấp chiếm 10,09%, trình độ trung cấp 19,78%, cao đẳng là 5,05%, trình độ đại học chiếm tỷ lệ 12,83%, trên đại học chiếm 0,23%. Tỷ lệ lao động được đào tạo từ đại học trở lên trong những ngành du lịch cao hơn so với ngành sản xuất [12]. Điều này thể hiện rõ nhất trong khu vực hành chính, sự nghiệp: Tỷ lệ lao động có trình độ đại học là 46,12%, trên đại học là 1,07%, phần lớn tập trung ở ngành hoạt động chuyên môn và khoa học công nghệ, dịch vụ hành chính và hỗ trợ, hoạt động của Đảng Cộng sản, tổ chức chính trị xã hội, giáo dục - đào tạo, nghệ thuật, giải trí... Đối với khu vực sản xuất, tỷ lệ đại học trong các doanh nghiệp là 11,09%, trên đại học là 0,12%, khu vực cá thể trình độ đại học chỉ chiếm 1,25%, trên đại học là 0,09%. Trong khi đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành cần đội ngũ lao động có trình độ đào tạo cao thì chỉ có 7,14% số lao động có trình độ từ đại học trở lên và có tới 28,65% số lao động chưa qua đào tạo hoặc đã qua đào tạo nhưng không được cấp chứng chỉ [12]. Điều này đã phần nào lý giải sản phẩm hàng hóa sản xuất chưa có tính cạnh tranh cao trong khu vực và chưa đáp ứng nhu cầu lao động có trình độ cao cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể, tỷ lệ lao động chưa được đào tạo còn khá cao, chiếm 62,34% tổng số lao động
20
ca khu vc này chiếm 51,3% tng s lao động chưa được đào tạo ca tng th
các đơn vị kinh tế, hành chính s nghip. Xét theo nhóm tui, có s khác nhau v
cu gia các loại hình sở kinh tế, hành chính s nghiệp, trong đó, lực lượng lao
động tr t 15 - 34 tui chiếm t trng cao nht ti 50,5%. Nhóm 15-34 tui chiếm
61,39% lao động ca khu vc doanh nghiệp, trong khi các đơn vị hành chính s
nghiệp, nhóm lao động có độ tui t 35-55 chiếm t trng cao nhất: 54,02%, đồng
thi khu vực này cũng cho thấy s tr hóa lực lượng khi t l ca nhóm tui 15-34
tăng so với trước. Lao động ca khu vc cá th, nhìn chung trong độ tui t 15-34 là
28,39%, độ tui 35-55 61,75%. S lao động độ tui trên 60 ch chiếm 1,39%
tng s lao động, trong đó, chủ yếu làm vic các cơ sở tôn giáo và mt s ít làm
các cơ sở sn xut kinh doanh cá th [14].
Hin nay, lực lượng lao động nước ngoài trên địa bàn là rt ln, tp trung ch
yếu vào các doanh nghip vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Nhiệt điện Hi
Phòng I, II, Khu công nghip VSIP (ch yếu là ngưi Trung Quốc, Đài Loan, Nhật
Bn, Hàn Quc, Singapo...). Nhiệt điện gần 1.000 lao động người Trung Quc.
Tuy nhiên so vi yêu cu ca s phát trin kinh tế thì dân cư và trình độ lao động ca
dân cư cần được nâng cao Vì vy, vn đ đặt ra đối vi huyện, đó là phải có kế hoch
đào tạo lại, đào tạo mi nguồn lao động thì mi th đáp ứng được yêu cu phát
trin ca nn kinh tế th trường trong giai đoạn thc hin công nghip hoá và hiện đại
hoá, s chuyn dch trong nn kinh tế ca Hi Phòng nói chung huyn Thu
Nguyên nói riêng.
1.3. Cơ sở hạ tầng
Bn yếu t của sở h tầng “Điện - Đường- Tng- Trạm” được chính
quyn Thành Ph Hi Phòng và y ban nhân dân huyn Thy nguyên chú trng xây
dng cho huyn Thy Nguyên. Ngoài ra còn có các yếu t khác to nên s đồng b
v s h tng, tạo điều kin cho kinh tế phát triển như hệ thng ch, trung tâm
mua sm…
Do bao quanh địa bàn huyện là các con sông như Sông Đá Bạc - Bạch Đằng,
sông bắt nguồn từ Mạo Khê, Đông Triều (Quảng Ninh) đổ ra biển tại cửa Nam Triệu.
Sông có bề rộng tăng dần về phía biển, chỗ rộng nhất là 1.000 m, chỗ hẹp nhất là 100
20 của khu vực này và chiếm 51,3% tổng số lao động chưa được đào tạo của tổng thể các đơn vị kinh tế, hành chính sự nghiệp. Xét theo nhóm tuổi, có sự khác nhau về cơ cấu giữa các loại hình cơ sở kinh tế, hành chính sự nghiệp, trong đó, lực lượng lao động trẻ từ 15 - 34 tuổi chiếm tỷ trọng cao nhất tới 50,5%. Nhóm 15-34 tuổi chiếm 61,39% lao động của khu vực doanh nghiệp, trong khi các đơn vị hành chính sự nghiệp, nhóm lao động có độ tuổi từ 35-55 chiếm tỷ trọng cao nhất: 54,02%, đồng thời khu vực này cũng cho thấy sự trẻ hóa lực lượng khi tỷ lệ của nhóm tuổi 15-34 tăng so với trước. Lao động của khu vực cá thể, nhìn chung trong độ tuổi từ 15-34 là 28,39%, độ tuổi 35-55 là 61,75%. Số lao động có độ tuổi trên 60 chỉ chiếm 1,39% tổng số lao động, trong đó, chủ yếu làm việc ở các cơ sở tôn giáo và một số ít làm ở các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể [14]. Hiện nay, lực lượng lao động nước ngoài trên địa bàn là rất lớn, tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Nhiệt điện Hải Phòng I, II, Khu công nghiệp VSIP (chủ yếu là người Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapo...). Nhiệt điện có gần 1.000 lao động người Trung Quốc. Tuy nhiên so với yêu cầu của sự phát triển kinh tế thì dân cư và trình độ lao động của dân cư cần được nâng cao Vì vậy, vấn đề đặt ra đối với huyện, đó là phải có kế hoạch đào tạo lại, đào tạo mới nguồn lao động thì mới có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường trong giai đoạn thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá, và sự chuyển dịch trong nền kinh tế của Hải Phòng nói chung và huyện Thuỷ Nguyên nói riêng. 1.3. Cơ sở hạ tầng Bốn yếu tố của cơ sở hạ tầng là “Điện - Đường- Trường- Trạm” được chính quyền Thành Phố Hải Phòng và Ủy ban nhân dân huyện Thủy nguyên chú trọng xây dựng cho huyện Thủy Nguyên. Ngoài ra còn có các yếu tố khác tạo nên sự đồng bộ về cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển như hệ thống chợ, trung tâm mua sắm… Do bao quanh địa bàn huyện là các con sông như Sông Đá Bạc - Bạch Đằng, sông bắt nguồn từ Mạo Khê, Đông Triều (Quảng Ninh) đổ ra biển tại cửa Nam Triệu. Sông có bề rộng tăng dần về phía biển, chỗ rộng nhất là 1.000 m, chỗ hẹp nhất là 100
21
m, chiều rộng trung bình là 300 m; Sông Cấm - sông Kinh Thầy, sông nối liền giữa
sông Kinh Môn biển, khi đến cống Hạ Đoạn (quận Hải An) một nhánh chảy
vào sông Bạch Đằng; sông có chiều rộng trung bình 550m; Sông Giá: nhánh của
sông Kinh Thầy, bắt đầu từ cống Phi Liệt kết thúc tại cống Minh Đức sông thiên
nhiên, sông đó được chống thâm nhập mặn bằng đập Minh Đức. Hệ thống sông Hòn
Ngọc (bao gồm: sông Hòn Ngọc, sông Sau, sông Trịnh). Hiện tại sông Giá hoạt động
như hồ chứa nước, có các cống thoát nước và đầu mối cung cấp nguồn, do vậy sông
Giá còn có tên gọi là hồ Đà Nẵng, hay hồ sông Giá. Đây là nguồn nước ngọt cho cho
các nhà máy nước phục vụ nước sinh hoạt các xã phía Nam huyện.
Cùng với hệ thống các con sông lớn là hệ thống kênh cấp I, II: kênh Đầm 3 xã,
kênh Phiến Bạt, kênh Thủy Triều, kênh Thủy Đường, kênh Chu, kênh Trung Hà. Các
công trình thủy lợi được xây dựng để phục vụ cho tưới tiêu đồng ruộng được xây
khắp các của huyệnThủy Nguyên: Công trình đầu mối cống tưới chính: cống An
Sơn 1; cống An Sơn 2; cống Phi Liệt; cống Ngọc Khê; cống Cao Kênh; cống Phù
Ninh. Các cấp chính quyền của huyện cũng quan tâm đến việc xây dựng hệ thống các
con đê để ngăn nước mặn vào đồng ruộng, tránh thiên tai... như đê tả sông Cấm, đê
hữu sông Đá Bạc, đê tả sông Thải, đê hữu sông Bạch Đằng, đê hữu sông Kinh Thầy.
Hầu hết các công trình trong hệ thống thuỷ lợi huyện Thuỷ Nguyên được bố trí hợp
lý, phù hợp với từng vùng sản xuất
Đây là nguồn nước cho các nhà máy nước phục vụ nước sinh hoạt các xã phía
Nam huyện.
Kết cấu hạ tầng trước hết là giao thông, điện, cấp và thoát nước, bưu chính -
viễn thông,... có ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành, tồn tại và phát triển của các hoạt
động kinh tế, trong đó giao thông vận tải là yếu tố quan trọng nhất. . Hệ thống giao
thông vận tải phát triển mạnh về số lượng và chất lượng, đáp ứng nhu cầu vận chuyển
hàng hoá phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân. Bên cạnh đó, công tác quản lý
phương tiện, giải toả hành lang an toàn giao thông được tăng cường, thường xuyên
thực hiện chế độ duy tu, sửa chữa hệ thống đường sá, y dựng cầu cống, cầu Hoàng
Văn Thụ, cầu Bính, cầu Kiền, cầu Đá Bạc, cầu Bạch Đằng, cầu Lại Xuân…Đó
những cây cầu nối liền Thủy Nguyên với các vùng trọng điểm kinh tế nội thành Hải
21 m, chiều rộng trung bình là 300 m; Sông Cấm - sông Kinh Thầy, sông nối liền giữa sông Kinh Môn và biển, khi đến cống Hạ Đoạn (quận Hải An) có một nhánh chảy vào sông Bạch Đằng; sông có chiều rộng trung bình 550m; Sông Giá: là nhánh của sông Kinh Thầy, bắt đầu từ cống Phi Liệt kết thúc tại cống Minh Đức là sông thiên nhiên, sông đó được chống thâm nhập mặn bằng đập Minh Đức. Hệ thống sông Hòn Ngọc (bao gồm: sông Hòn Ngọc, sông Sau, sông Trịnh). Hiện tại sông Giá hoạt động như hồ chứa nước, có các cống thoát nước và đầu mối cung cấp nguồn, do vậy sông Giá còn có tên gọi là hồ Đà Nẵng, hay hồ sông Giá. Đây là nguồn nước ngọt cho cho các nhà máy nước phục vụ nước sinh hoạt các xã phía Nam huyện. Cùng với hệ thống các con sông lớn là hệ thống kênh cấp I, II: kênh Đầm 3 xã, kênh Phiến Bạt, kênh Thủy Triều, kênh Thủy Đường, kênh Chu, kênh Trung Hà. Các công trình thủy lợi được xây dựng để phục vụ cho tưới tiêu đồng ruộng được xây khắp các xã của huyệnThủy Nguyên: Công trình đầu mối cống tưới chính: cống An Sơn 1; cống An Sơn 2; cống Phi Liệt; cống Ngọc Khê; cống Cao Kênh; cống Phù Ninh. Các cấp chính quyền của huyện cũng quan tâm đến việc xây dựng hệ thống các con đê để ngăn nước mặn vào đồng ruộng, tránh thiên tai... như đê tả sông Cấm, đê hữu sông Đá Bạc, đê tả sông Thải, đê hữu sông Bạch Đằng, đê hữu sông Kinh Thầy. Hầu hết các công trình trong hệ thống thuỷ lợi huyện Thuỷ Nguyên được bố trí hợp lý, phù hợp với từng vùng sản xuất Đây là nguồn nước cho các nhà máy nước phục vụ nước sinh hoạt các xã phía Nam huyện. Kết cấu hạ tầng trước hết là giao thông, điện, cấp và thoát nước, bưu chính - viễn thông,... có ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành, tồn tại và phát triển của các hoạt động kinh tế, trong đó giao thông vận tải là yếu tố quan trọng nhất. . Hệ thống giao thông vận tải phát triển mạnh về số lượng và chất lượng, đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hoá và phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân. Bên cạnh đó, công tác quản lý phương tiện, giải toả hành lang an toàn giao thông được tăng cường, thường xuyên thực hiện chế độ duy tu, sửa chữa hệ thống đường sá, xây dựng cầu cống, cầu Hoàng Văn Thụ, cầu Bính, cầu Kiền, cầu Đá Bạc, cầu Bạch Đằng, cầu Lại Xuân…Đó là những cây cầu nối liền Thủy Nguyên với các vùng trọng điểm kinh tế nội thành Hải
22
Phòng, Quảng Ninh, thay thế cho các cây cầu cũ, những chiếc phà cũ, tạo thuận lợi
cho việc đi lại vad vận chuyển của nhân dân.
Ngoài ra, huyện còn tiến hành xây dựng 2 nhà máy nước loại nhỏ Tân
Dương, Lập Lễ, hệ thống cấp nước ở Lại Xuân, xây dựng 60 bể xử lý chất thải chăn
nuôi đảm bảo vệ sinh môi trường. Riêng thị trấn Minh Đức có công trình nhà máy
nước do Phần Lan đầu tư, với công suất lớn, cung cấp cho cả khu vực Minh Đức và 6
xã lân cận.Trong công cuộc CNH, HĐH, sự phát triển của các ngành kinh tế chịu ảnh
hưởng rất lớn bởi hệ thống cung cấp điện, nước và thoát nước, trong việc đưa thiết bị,
công nghệ, máy móc hiện đại để đổi mới công nghệ cổ truyền, làm tăng năng suất lao
động, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm và làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Đến
nay, huyện Thuỷ Nguyên đã cơ bản hoàn thành việc bàn giao lưới điện trung áp ở các
xã, thị trấn, đưa vào sử dụng 5 công trình bằng nguồn vốn phụ thu và một phần đóng
góp của nhân dân trị giá 644 triệu đồng. Bên cạnh đó, ngành Bưu điện Thuỷ Nguyên
cũng đạt được nhiều bước tiến vượt bậc.
Ngoài ra lĩnh vực giáo dục và y tế cũng được quan tâm đầu tư, nhằm nâng cao
trình độ văn hóa, trình độ lao động và sức khỏe cho nhân dân. Đến năm 2007, tất cả
các xã thị trấn của huyện đều đạt chuẩn quốc gia về y tế, trong 8 (từ năm 2008 đến
năm 2016) trên địa bàn huyện không có dịch bệnh lớn xảy ra. Công tác y tế, dân số và
chăm sóc sức khoẻ cộng đồng được quan tâm, đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa.
Đến nay, huyện đã hoàn thành chương trình đưa bác sỹ về cơ sở, sửa chữa các trạm y
tế xã, đầu tư hệ thống trang thiết bị hiện đại, phục vụ tốt công tác khám, chữa bệnh.
Đặc biệt, công tác giáo dục chăm sóc, bảo vệ trẻ em được quan tâm thường xuyên
bằng hành động thiết thực như duy trì tốt hoạt động giảng dạy các lớp học tình
thương, giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt hoà nhập cộng đồng. Cơ sở vật chất đầu
cho giáo dục như xây dựng 37 trường tiểu học, 37 trường THCS, nhiều trường
hoàn thiện để đạt chuẩn quốc gia. Chất lượng giáo dục ngày một nâng cao, tỷ lệ học
sinh thi tốt nghiệp hết cấp và chuyển cấp đạt khá cao so với các huyện trong thành
phố. Hệ thống trường THPT (cấp III) trên địa bàn huyện tương đối nhiều, 9 trường cả
chính qui, dân lập, bán công, trung tâm giáo dục thường xuyên…
Hệ thống chợ làng, chợ huyện được xây dựng khắp nơi, chợ có ở 37 xã và thị
trấn. Trong huyện chợ Núi Đèo - chợ trung tâm của huyện Thủy Nguyên, được
xây dựng mới từ năm 2004, chợ có diện tích 20 ha, chia làm nhiều khu vực mua sắm,
22 Phòng, Quảng Ninh, thay thế cho các cây cầu cũ, những chiếc phà cũ, tạo thuận lợi cho việc đi lại vad vận chuyển của nhân dân. Ngoài ra, huyện còn tiến hành xây dựng 2 nhà máy nước loại nhỏ ở xã Tân Dương, Lập Lễ, hệ thống cấp nước ở Lại Xuân, xây dựng 60 bể xử lý chất thải chăn nuôi đảm bảo vệ sinh môi trường. Riêng thị trấn Minh Đức có công trình nhà máy nước do Phần Lan đầu tư, với công suất lớn, cung cấp cho cả khu vực Minh Đức và 6 xã lân cận.Trong công cuộc CNH, HĐH, sự phát triển của các ngành kinh tế chịu ảnh hưởng rất lớn bởi hệ thống cung cấp điện, nước và thoát nước, trong việc đưa thiết bị, công nghệ, máy móc hiện đại để đổi mới công nghệ cổ truyền, làm tăng năng suất lao động, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm và làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Đến nay, huyện Thuỷ Nguyên đã cơ bản hoàn thành việc bàn giao lưới điện trung áp ở các xã, thị trấn, đưa vào sử dụng 5 công trình bằng nguồn vốn phụ thu và một phần đóng góp của nhân dân trị giá 644 triệu đồng. Bên cạnh đó, ngành Bưu điện Thuỷ Nguyên cũng đạt được nhiều bước tiến vượt bậc. Ngoài ra lĩnh vực giáo dục và y tế cũng được quan tâm đầu tư, nhằm nâng cao trình độ văn hóa, trình độ lao động và sức khỏe cho nhân dân. Đến năm 2007, tất cả các xã thị trấn của huyện đều đạt chuẩn quốc gia về y tế, trong 8 (từ năm 2008 đến năm 2016) trên địa bàn huyện không có dịch bệnh lớn xảy ra. Công tác y tế, dân số và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng được quan tâm, đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa. Đến nay, huyện đã hoàn thành chương trình đưa bác sỹ về cơ sở, sửa chữa các trạm y tế xã, đầu tư hệ thống trang thiết bị hiện đại, phục vụ tốt công tác khám, chữa bệnh. Đặc biệt, công tác giáo dục chăm sóc, bảo vệ trẻ em được quan tâm thường xuyên bằng hành động thiết thực như duy trì tốt hoạt động giảng dạy ở các lớp học tình thương, giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt hoà nhập cộng đồng. Cơ sở vật chất đầu tư cho giáo dục như xây dựng 37 trường tiểu học, 37 trường THCS, nhiều trường hoàn thiện để đạt chuẩn quốc gia. Chất lượng giáo dục ngày một nâng cao, tỷ lệ học sinh thi tốt nghiệp hết cấp và chuyển cấp đạt khá cao so với các huyện trong thành phố. Hệ thống trường THPT (cấp III) trên địa bàn huyện tương đối nhiều, 9 trường cả chính qui, dân lập, bán công, trung tâm giáo dục thường xuyên… Hệ thống chợ làng, chợ huyện được xây dựng khắp nơi, chợ có ở 37 xã và thị trấn. Trong huyện có chợ Núi Đèo - chợ trung tâm của huyện Thủy Nguyên, được xây dựng mới từ năm 2004, chợ có diện tích 20 ha, chia làm nhiều khu vực mua sắm,