Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế ở huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng từ năm 1986 đến năm 2016
9,158
306
124
3
Cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến vấn đề
kinh tế huyện Thủy Nguyên. Có thể kể đến một số công trình, bài viết sau: Hội
đồng
lịch sử thành phố Hải Phòng, Địa chí Hải phòng, tập I, NXB Hải Phòng, 1990, có
đề
cập đến điều kiện địa lý tự nhiên của thành phố Hải Phòng trong đó có điều kiện
địa
lý tự nhiên huyện Thủy Nguyên cho phép phát triển kinh tế ; Ban chấp hành Đảng
bộ
Thành phố Hải Phòng, Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng (1975 - 2000), tập III, NXB Hải
Phòng, 2002, có trình bày đến vấn đề kinh tế của thành phố Hải Phòng nói chung
và
huyện Thủy Nguyên nói riêng thời kỳ 1975 - 2000.
Năm 1995. Doãn Đình Huề “Thủy Nguyên chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn”, đề cập đến đề án chuyển dịch cơ
cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở huyện Thủy Nguyên.
Tạp chí cộng sản số 7/2005, cũng đề cập đến quy hoạch và phát triển kinh tế
của huyện Thủy Nguyên những năm đầu thế kỷ XXI
Luận văn thạc sĩ Lịch sử của học viên Nguyễn Văn Công :“Kinh tế biển của
các xã ven biển Huyện Thủy Nguyên từ 1986-2013” (Trường đại học sư phạm Hà
Nội, 2014), đề cập nhiều đến nông nghiệp nuôi trồng thủy hải sản ở Thủy Nguyên.
Luận văn thạc sĩ Lịch sử của học viên Đặng Định : “Phân tích hiện trạng và
đánh giá biến động sử dụng đất giai đoạn 2005 - 2010 phục vụ phát triển bền vững
huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng” -(Trường đại học sư phạm Hà Nội, 2013)
đề cấp đến việc sử dụng, quản lý và hiệu quả của đất đai đối với phát triển kinh
tế của
huyện Thủy Nguyên.
Các công trình nghiên cứu, luận án, luận văn, bài viết trên đây có mục đích và
nhiệm vụ nghiên cứu khác nhau, nhưng ít nhiều cũng đã đề cập đến hoạt động kinh
tế của huyện Thủy Nguyên, là nguồn tài liệu quý giá cho tác giả trong quá trình
hoàn
thiện luận văn. Tuy nhiên, tính đến nay, chưa có một chuyên luận nào đi sâu
nghiên
cứu một cách có hệ thống các hoạt động kinh tế của huyện Thủy Nguyên trong thời
kỳ đổi mới. Từ lý luận và thực tế trên, tác giả chọn đề tài: “Kinh tế ở huyện
Thủy
Nguyên, thành phố Hải Phòng từ năm 1986 đến năm 2016” làm đề tài luận văn Thạc
sĩ khoa học chuyên ngành Lịch sử Việt Nam của mình.
4
3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về sự phát triển kinh tế ở huyện Thủy Nguyên, thành phố
Hải Phòng từ năm 1986 đến năm 2016.
3.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những nguồn tài liệu thu thập được, phải làm nổi bật các hoạt động
kinh tế của huyện Thủy Nguyên trong giai đoạn từ 1986 đến 2016. Đồng thời, mong
muốn góp phần nêu cao ý thức xây dựng quê hương cho thế hệ trẻ huyện Thủy
Nguyên, góp phần đánh giá đề án chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Thủy Nguyên
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đóng góp thêm nguồn tư liệu phục vụ
cho
giảng dạy, học tập và nghiên cứu lịch sử Hải Phòng.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu những cơ sở để phát triển kinh tế ở huyện Thủy Nguyên, thành phố
Hải Phòng. Làm rõ thực tế hoạt động kinh tế huyện Thủy Nguyên giai đoạn 1986 -
2016, đặc biệt là sự phát triển của các loại hình kinh tế sau khi có đề án
chuyển dịch
cơ cấu kinh tế huyện Thủy Nguyên theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Qua
đó, có những nhận định, đánh giá những tác động tích cực và tiêu cực của hoạt
động
kinh tế đến đời sống nhân dân huyện Thủy Nguyên
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Khóa luận giới hạn phạm vi nghiên cứu trong huyện Thủy
Nguyên các năm từ 1986 đến 2016
Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu giai đoạn từ năm 1986 đến năm
2016. Tuy nhiên, để làm rõ nội dung theo yêu cầu của đề tài, Luận văn đề cập
tình
hình kinh tế của huyện Thủy Nguyên từ khi đổi mới đến trước khi thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp - nông thôn
4. Nguồn tư liệu, phương pháp nghiên cứu
4.1. Các nguồn tư liệu
Luận văn khai thác, sử dụng nhiều nguồn tư liệu khác nhau, chủ yếu tập trung
vào một số nguồn sau để nghiên cứu đề tài:
Các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước, của Đảng bộ thành
phố Hải Phòng, Đảng bộ huyện Thủy Nguyên từ năm 1986 đến năm 2016 về chủ
5
trương, đường lối phát triển kinh tế, văn hóa. Đây là nguồn tư liệu giúp tôi có
quan
điểm, phương hướng nghiên cứu đúng đắn.
Các báo cáo tổng kết tình hình kinh tế - văn hóa của một số sở, ban, phòng
ngành thành phố Hải Phòng cũng như huyện Thủy Nguyên. Các số liệu thống kê từ
năm 1986 đến tháng 12 năm 2016. Đây là nguồn tư liệu làm cơ sở xây dựng luận
văn.
Các công trình, bài viết của các tác giả có liên quan đến đề tài. Đây là nguồn
tài liệu
tham khảo quan trọng, cung cấp cho tác giả nội dung tư liệu lịch sử trong quá
trình
nghiên cứu đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận sử học mácxít, tư
tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm, đường lối của Đảng và một số nhà kinh tế
học, sử học để trình bày, lý giải về kinh tế Hải Phòng nói chung và kinh tế ở
huyện
Thủy Nguyên nói riêng.
Để có thể tái hiện quá trình chuyển biến kinh tế của huyện Thủy Nguyên từ
năm 1986 đến năm 2016, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu liên
ngành như phương pháp kinh tế học lịch sử , qua phương pháp này biết được tốc độ
phát
triển, tăng, giảm của kinh tế huyện Thủy Nguyên qua các thời kì trước năm 1986
và sau
năm 1986 đến năm 2016. Qua các giai đoạn phát triển của lịch sử kinh tế để thấy
được sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện Thủy Nguyên
Phương pháp thứ hai tác giả sử dụng là phương pháp dân tộc học lịch sử, qua
phương pháp nhằm tìm hiểu nghiên cứu sâu về lịch sử hình thành các ngành kinh tế
của
các cư dân ở trên địa bàn huyện Thủy Nguyên. Bên cạnh đó, để có thể hoàn thành
bản
luận văn, tác giả còn sử dụng một số phương pháp khác như:: phương pháp phân
tích dữ liệu, phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh....để chọn lọc,
bổ
sung tư liệu làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
Là đề tài lịch sử địa phương nên tôi chú trọng công tác điền dã, khảo sát, thống
kê, thu thập nhiều loại tư liệu: ghi chép lời nhân chứng, tư liệu văn hóa - nghệ
thuật,
bản đồ, tranh ảnh...
5. Đóng góp của đề tài
Luận văn góp phần tìm hiểu về lịch sử địa phương huyệnThủy Nguyên, góp
phần làm phong phú thêm nét đẹp trong truyền thống xây dựng phát triển kinh tế-
văn
hóa của vùng đất và con người huyện Thủy Nguyên. Đồng thời, rút ra bài học kinh
6
nghiệm phục vụ cho sự phát triển bền vững kinh tế Thủy Nguyên giai đoạn hiện nay
và các giai đoạn tiếp theo.
Luận văn có những đóng góp nhất định vào việc xây dựng, phát triển hoàn
thiện đề án chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn trên địa bàn
huyện
theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, định hướng xây dựng kinh tế biển trở
thành lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của huyện Thủy Nguyên nói riêng và thành phố
biển
Hải phòng nói chung trong chiến lược phát triển kinh tế bền vững của địa phương.
Góp thêm tư liệu khoa học để các nhà quản lí có những chủ trương chính sách
cụ thể trong lĩnh vực quản lí kinh tế, văn hóa góp thêm tư liệu cho việc giảng
dạy lịch
sử địa phương.
Nêu lên những thành tựu và hạn chế trong quá trình chuyển biến kinh tế, của
nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng từ năm 1986 đến năm 2016 và
đề xuất những giải pháp thích hợp nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế và phát huy
những giá trị văn hóa tốt đẹp của cư dân trên quê hương Thủy Nguyên
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn
chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở phát triển kinh tế huyện Thủy Nguyên
Chương 2: Hoạt động kinh tế huyện Thủy Nguyên từ năm 1986 đến năm 2016.
Chương 3: Tác động của sự phát triển kinh tế đến đời sống nhân dân huyện
Thủy Nguyên.
7
LƯỢC ĐỒ HUYỆN THỦY NGUYÊN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
(Nguồn: Cổng thông tin huyện Thủy Nguyên- thành phố Hải Phòng)
8
Chương 1
CƠ SỞ PHÁT TRIỂN KINH TẾ HUYỆN THỦY NGUYÊN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Thủy Nguyên là miền đất được hình thành lâu đời, có vị trí quan trọng về kinh
tế - xã hội, quốc phòng của thành phố cảng Hải Phòng. Thời dựng nước (khoảng từ
thế kỷ VII TCN đến thế kỷ III TCN), Thủy Nguyên thuộc Bộ Dương Tuyền, một
trong 15 Bộ của nhà nước Văn Lang.Thời kỳ Bắc thuộc (từ 179 TCN đến đầu TK X),
dưới thời Tần, vùng đất Thủy Nguyên ngày nay thuộc Tượng Quận; thời Hán, thuộc
huyện An Định, một trong 10 huyện của quận Giao Chỉ.Đến thời kỳ quốc gia phong
kiến độc lập (từ đầu thế kỷ X đến thế kỷ XIX), nhà Đinh (968 - 980) chia nước ta
thành các đạo, Thủy Nguyên lúc đó có tên gọi là Nam Triệu Giang, thuộc đạo Hồng
Châu; đến nhà Tiền Lê (980 - 1009), nhà Lý (1009 - 1225), Nam Triệu Giang thuộc
Hồng Lộ, sau đổi thành lộ Hải Đông. Tên huyện Thủy Đường xuất hiện trong Dư địa
chí của Nguyễn Trãi soạn năm 1435. Thời Hậu Lê (1428 - 1789), huyện Thủy Đường
thuộc lộ Nam Sách. Đến năm 1469 thì thuộc phủ Kinh Môn, lỵ sở đặt tại xã Xử Bái
(xã Kiền Bái ngày nay). Thời Tây Sơn (1778 - 1802), huyện Thủy Đường thuộc phủ
Kinh Môn, trấn Yên Quảng.
Đến thời Nguyễn, thuộc phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương. Sách Đại Nam nhất
thống chí mô tả: “Huyện Thủy Đường ở cách phủ 30 dặm về phía Đông Nam, Đông
Tây cách nhau 25 dặm, Nam Bắc cách nhau 23 dặm, phía Đông đến địa giới huyện
Yên Hưng tỉnh Quảng Yên 16 dặm, phía Tây đến địa giới huyện Giáp Sơn 9 dặm,
phía Nam đến địa giới huyện An Dương, phủ Kiến Thụy 3 dặm, phía Bắc đến địa giới
huyện Đông Triều 30 dặm. Xưa là Nam Triệu Giang, tên huyện mới thấy thời thuộc
Minh, thuộc châu Đông Triều, lệ phủ Tân An; đời Lê Quang Thuận đổi lệ phủ (Kinh
Môn), bản triều vẫn theo như thế. Lãnh 12 tổng, 78 thôn xã.” Năm 1886, tên huyện
Thủy Đường được đổi thành huyện Thủy Nguyên và các địa danh có tên là Đường
đều đổi vì kiêng húy vua Đồng Khánh (Ưng Đường). Theo danh sách của Nha Kinh
lược sứ Bắc Kì , huyện Thủy Nguyên có 14 tổng, 82 xã nhưng đến trước năm 1927
chỉ còn 9 tổng vì một số tổng được tách ra để nhập vào huyện khác. Đến trước năm
9
1945, Thủy Nguyên có 9 tổng và được nâng lên thành đơn vị hành chính cấp phủ.
Sau
cách mạng Tháng Tám năm 1945, đơn vị cấp tổng bị xóa bỏ. Năm 1947, huyện được
chính phủ cắt nhập vào tỉnh Quảng Yên cho đến tháng 1 năm 1949 mới được cắt về
thành phố Hải Phòng, sau đó nằm trong Liên khu III. Ngày 20/10/1962, tỉnh Kiến
An
và thành phố Hải phòng hợp nhất, Thủy Nguyên chính thức trở thành một huyện
ngoại thành của Hải Phòng như ngày nay. Khi đó huyện có 33 xã: An Lư, An Sơn,
Cao Nhân, Chính Mỹ, Đông Sơn, Dương Quan, Hòa Bình, Hoa Động, Hoàng Động,
Hợp Thành, Kênh Giang, Kiền Bái, Kỳ Sơn, Lại Xuân, Lâm Động, Lập Lễ, Liên
Khê, Lưu Kiếm, Minh Đức, Minh Tân, Mỹ Đồng, Ngũ Lão, Phả Lễ, Phù Ninh, Phục
Lễ, Quang Thành, Tam Hưng, Tân Dương, Thiên Hương, Thủy Đường, Thủy Sơn,
Thủy Triều, Trung Hà. Ngày 15 tháng 7 năm 1983, thành lập 2 xã Gia Đức và Gia
Minh thuộc vùng kinh tế mới. Ngày 18 tháng 3 năm 1986, thành lập thị trấn Núi
Đèo
- thị trấn huyện lị huyện Thủy Nguyên - trên cơ sở 55,62 ha đất với 2.615 nhân
khẩu
của xã Thủy Sơn và 36,55 ha đất với 620 nhân khẩu của xã Thủy Đường; chuyển xã
Minh Đức thành thị trấn Minh Đức [19, tr. 79].
Thủy Nguyên là một huyện ven biển, nằm ở phía Bắc của thành phố Hải
Phòng, có giới hạn địa lý từ 20052’ đến 21001’ vĩ độ Bắc và từ 106031’ đến
106046’
kinh độ Đông, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh; phía Tây giáp tỉnh Hải Dương; phía
Nam giáp quận Hồng Bàng, quận Ngô Quyền và huyện An Dương, phía Đông giáp
với vịnh Bắc bộ qua cửa biển Nam Triệu. Tổng diện tích tự nhiên của huyện Thủy
Nguyên hiện nay là 242 km2 chiếm 15,6% diện tích thành phố Hải Phòng, được chia
thành 37 đơn vị hành chính gồm 2 thị trấn và 35 xã, thị trấn Núi Đèo là huyện
lỵ.
Huyện Thủy Nguyên có vị trí địa lý thuận lợi, là cầu nối giữa thành phố Hải
Phòng
với vùng du lịch Hạ Long, vùng công nghiệp than và cửa khẩu quốc tế Móng Cái của
tỉnh Quảng Ninh. Trung tâm huyện cách nội thành Hải Phòng 7,5km nên việc giao
lưu, buôn bán thuận lợi. Thủy Nguyên có hệ thống giao thông thủy, bộ khá phát
triển,
nằm trên trục giao thông quan trọng có ý nghĩa liên vùng, trục Quốc lộ 10 mới và
cũ
chạy qua địa bàn huyện, với cảng Minh Đức nhộn nhịp, cửa biển Nam Triệu hướng ra
Đồ Sơn, Cát Bà, Hạ Long thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế và du lịch. Địa hình
Thủy Nguyên khá đa dạng, dốc từ phía Tây Bắc xuống Đông Nam, vừa có núi đất,
núi đá vôi, vừa có đồng bằng và hệ thống sông hồ dày đặc [19, tr.51].
10
Thủy Nguyên vào vị trí chuyển tiếp của hai địa lý tự nhiên lớn. Một số xã ở
Bắc và Đông Bắc có núi đá vôi và đồi đất thấp, địa hình không bằng phẳng, mang
đặc
điểm của vùng bán sơn địa. Các xã phía Nam có địa hình bằng phẳng hơn và đặc
điểm của vùng đồng bằng ven biển. Cảnh quan đa dạng, tạo bởi sự đan xen giữa dải
núi đá phiến sét và núi đá vôi dọc theo hướng tây bắc - đông nam với hệ thống
đồng
bằng thấp và bãi triều cửa sông ven biển. Địa hình Thủy Nguyên là kết quả của
quá
trình phát triển địa chất và địa mạo lâu dài, phức tạp, là sự kết hợp giữa các
yếu tố cổ
tiến hóa hàng trăm triệu năm với các yếu tố trẻ mới hình thành. Địa hình được
chia
thành ba vùng rõ rệt: Vùng núi đá vôi ở phía Bắc, từ Trại Sơn - Doãn Lại đến
Minh
Tân - Minh Đức với diện tích khoảng 953ha; vùng núi đất sa thạch trải từ An Sơn
-
Phù Ninh qua Kỳ Sơn - Chính Mỹ tới Thủy Đường - Ngũ Lão với diện tích
1.714ha.Vùng đồng bằng Đông Nam chạy từ Hợp Thành - Cao Nhân - Mỹ Đồng -
Kiền Bái - Thiên Hương - Hoàng Động - Lâm Động - Hoa Động tới Tân Dương -
Dương Quan - Tam Hưng - Phục Lễ - Phả Lễ - Lập Lễ. Vùng cửa sông ven biển của
huyện kéo dài khoảng 6 km trên địa bàn các xã Lập Lễ, Phả Lễ với địa hình thấp,
trũng là hệ sinh thái của rừng ngập mặn ven biển, đây là môi trường phát triển
hệ sinh
vật ngập mặn như sú, vẹt, tôm, cá…
Vùng đồi núi chiếm khoảng 12% diện tích, phân bố chủ yếu ở phía Bác với độ
cao trung bình 40 - 100m, có đỉnh cao như Sơn Đào 146m. Các dãy núi đá vôi có
hình thái phức tạp, đỉnh sắc nhọn, dạng tai mèo, sườn dốc. Đa số các hang động
được
hình thành từ phức hệ trầm tích Kastơ đá tập trung tại các dãy núi đá vôi này đã
trở
thành những danh lam thắng cảnh nổi tiếng như 14Tràng Kênh (Minh Đức), Hang
Vua (Minh Tân), Trại Sơn (An Sơn), Hang Lương (Lưu Kỳ)… Các đồi lục nguyên từ
trầm tích hệ tầng Dưỡng Động có hình thái đơn giản hơn, mềm mại , đỉnh bằng và
đường phân thủy không rõ ràng, sườn thẳng đứng hoặc hơi lồi, ngăn cách giữa các
dãy núi là các sông hay các trũng đã được phù sa bồi đắp thành đồng bằng. Thủy
Nguyên có thể chia thành nhiều vùng khác nhau như: kiểu vùng đá vôi xen kẽ thung
lũng; kiểu vùng đồi núi xen kẽ đồng bằng; kiểu vùng cửa sông ven biển; kiểu vùng
đồng bằng.Với địa hình như vậy, Thủy Nguyên có điều kiện phát triển một nền kinh
tế tổng hợp, nhiều loại hàng hóa có giá trị kinh tế cao. Đây là những điều kiện
tự
11
nhiên thuận lợi cho huyện phát triển một nền kinh tế đa dạng, bao gồm cả nông
nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thuỷ sản và du lịch. Trong thời kỳ mở
cửa,
Thủy Nguyên được xác định là một trong những khu vực phát triển công nghiệp,
dịch
vụ và du lịch trọng điểm của thành phố Hải Phòng.
Thuỷ Nguyên là huyện có diện tích đất tự nhiên lớn thứ hai trong số các quận,
huyện của thành phố Hải Phòng. Trong tổng diện tích đất tự nhiên của huyện, diện
tích đất cho phát triển nông nghiệp của huyện là 14.597,4 ha bao gồm cả đất mặt
nước nuôi trồng thuỷ sản. Diện tích đất hiện đang được khai thác đưa vào sử dụng
là
22.978,5 ha, chiếm 94,7% và còn 5,3% diện tích đất chưa sử dụng. Thuỷ Nguyên là
huyện có tốc độ phát triển công nghiệp và cơ sở hạ tầng tương đối mạnh, nhiều
khu
công nghiệp, xí nghiệp, tuyến giao thông được xây dựng mới và cải tạo nâng cấp.
Diện tích đất dành cho việc phát triển công nghiệp, giao thông, xây dựng đã tăng
đột
biến từ 4238 ha (năm 2000) lên 6970,3 ha (năm 2005). Đất của huyện Thuỷ Nguyên
chủ yếu là đất được bồi đắp bởi hệ thống sông Thái Bình và sông Hồng. Nhìn
chung,
huyện Thuỷ Nguyên có tiềm năng về đất đai.
Khí hậu Thuỷ Nguyên mang những đặc tính chung của khí hậu miền Bắc Việt
Nam là khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhưng do gần biển, nên Thuỷ Nguyên còn chịu
ảnh hưởng của khí hậu chuyển tiếp giữa đồng bằng ven biển với vùng đồi núi Đông
Bắc. Mùa hè nóng, ẩm, mưa nhiều với hoạt động chủ yếu của gió mùa Đông Nam,
thỉnh thoảng cũng chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam (hay còn gọi là gió Lào,
gió
phơn Tây Nam), mùa đông có gió mùa Đông Bắc, khô, lạnh và mưa phùn. Nhiệt độ
trung bình cả năm đạt từ 23,5
o
- 24
o
C. Độ ẩm tương đối trung bình hàng năm biến
động từ 88 - 92% cùng với lượng mưa bình quân hàng năm là 1.200 - 1.400 mm. Các
tháng mùa đông chỉ đạt bình quân khoảng 10mm/ngày, tốc độ gió trung bình vào
khoảng 2,3 m/s, tổng số giờ nắng trung bình năm đạt từ 1400 - 1700 giờ. Khí hậu
Thủy Nguyên và khu vực khai thác đá vôi mang tính chất chung khí hậu miền Bắc
Việt Nam là khí hậu nhiệt đới gió mùa, do gần biển nên còn chịu ảnh hưởng của
khí
hậu chuyển tiếp giữa đồng bằng ven biển với vùng đồi núi Đông Bắc. Khí hậu Thuỷ
Nguyên không điều hòa, thường xuyên chịu thiên tai. Về mùa mưa có dông bão, lụt
úng, hàng năm có khoảng 4 đến 5 cơn bão đổ bộ trực tiếp, tốc độ gió có khi lên
tới
12
cấp 11 - 12. Về mùa khô có rét đậm, rét hại, khô hạn... Thiên tai đã ảnh hưởng
đến
đời sống và hoạt động sản xuất của cư dân Thủy Nguyên nói chung và ảnh hưởng
trực tiếp đến đời sống, hoạt động đánh bắt, nuôi, trồng thủy hải sản của ngư dân
Thủy
Nguyên nói riêng. Tuy nhiên khí hậu nhiệt đới gió mùa nói chung cũng tác động
tích
cực, thuận lợi cho sự phát của các ngành kinh tế.
Thuỷ Nguyên là huyện được bao bọc bởi nhiều con sông lớn, có 4 con sông
lớn chảy qua địa bàn huyện gồm: Sông Kinh Thày là ranh giới tự nhiên giữa Huyện
Thủy Nguyên với huyện An Dương (Hải Phòng) và huyện Kinh Môn (Hải
Dương).Sông Cấm bắt đầu từ khu vực xã Kiến Bái và đổ ra biển qua cửa Cấm, là
ranh giới tự nhiên giữa Thủy Nguyên với nội thành Hải Phòng; Sông Đá Bạc bắt
nguồn từ khu vực cuối xã Lại Xuân và kéo dài tới Gia Đức; Sông Bạch Đằng là đoạn
tiếp nối của sông Đá Bạc sau khi gặp sông Giá, đổ ra biển qua cửa Nam
Triệu.Ngoài
bốn con sông lớn trên, Thuỷ Nguyên còn có sông Giá là con sông chứa nước ngọt
rất
lớn của huyện, hiện nay cung cấp gần như toàn bộ lượng nước sinh hoạt cho cư dân
trên địa bàn huyện Thủy Nguyên.
Huyện Thuỷ Nguyên có trữ lượng khá lớn các loại khoáng sản phi kim loại.
Đó là đá vôi ở phía Bắc huyện, chạy dài từ xã An Sơn, Lại Xuân qua xã Liên Khê,
Lưu Kiếm, Lưu Kỳ đến xã Minh Tân, Minh Đức, diện tích đá vôi có trữ lượng lớn
nhất thành phố. Thêm vào đó là dải đất sét chạy từ xã Kỳ Sơn đến các xã Chính
Mỹ,
Minh Tân, Lưu Kiếm, Minh Đức... Xen kẽ với các núi đá vôi, đất sét là khu vực mỏ
Silic khá lớn thuộc địa bàn ở các xã Lại Xuân và Liên Khê. Đây là nguồn nguyên
liệu
dồi dào cho công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng: xi măng, gạch, ngói, vôi,
cát...Có
thể nhận thấy, tiềm năng khoáng sản của huyện Thuỷ Nguyên không ít, nhưng chủ
yếu là khoáng sản phi kim loại. Khoáng sản kim loại duy nhất là quặng sắt, mặc
dù
chưa có đánh giá chính xác về trữ lượng nhưng đánh giá sơ bộ thì nguồn tài
nguyên
này chưa đủ để khai thác trên quy mô công nghiệp. Đá vôi : Ở thị trấn Minh đức,
Lại
Xuân, Hợp Thành, thành phần chủ yếu là: ôxit canxi 54,28%, ôxit magiê 0,85%,…
trữ lượng kinh tế khoảng 185 triệu tấn, có thể khai thác trong vòng 50 năm. Đất
sét
có ở Lưu Kiếm trữ lượng khoảng 3 triệu tấn và ở Minh Đức, Mỹ Đồng với trữ lượng
hơn 4,8 triệu m
3
. Theo báo cáo của UBND huyện Thủy Nguyên, có tới 106 mỏ với